Trần Đức Thảo,
những phủ định trớ triêu
“Một ý thức bản ngã được thoả mãn trong một ý thức bản ngã khác
hay một người được thoả mãn trong một người khác khi mà bên này
được bên kia công nhận. Trong khái niệm thuần tuý của sự công
nhận, có hai bước, mỗi bước có hai mặt. Bước đầu thì ý thức bản
ngã gặp một ý thức bản ngã khác hay một người gặp một người
khác, và hai bên trông nhau, thì một mặt mình đã mất mình vì
thấy mình ở bên kia. Nhưng mặt khác mình lại phủ định bên kia,
và không thấy người kia với tính chất độc lập của người ta mà
lại thấy mình ở người ấy. Bước thứ hai thì một mặt mình phủ định
bên kia và tin tưởng ở mình, nhưng mặt khác thì chính mình lại
phủ định mình, vì mình phải tự nhận thấy mình ở bên kia.”[1]
Trên đây là triết luận của Hegel về sự phủ định trong công nhận.
Bài này nói đến một vài phủ định trớ trêu liên can đến một trí
thức Việt Nam.
Góp phần xây móng cho triết học Mác-xít
Thế
kỷ 19, thế giới vang động một cuộc luận chiến trong lĩnh vực
triết học. Đó là cuộc luận chiến bất phân thắng bại[2]
giữa hai bộ óc lớn là Trần Đức Thảo và Jean Paul Sartre, kéo dài
từ đầu năm 1949 đến đầu năm 1950.
Trần Đức Thảo cho biết: “Sartre mời tôi trao đổi ý kiến vì ông
muốn chứng minh rằng chủ nghĩa hiện sinh rất có thể cùng tồn tại
hoà bình với học thuyết Mác”[3],
nhưng trong tranh luận Sartre khẳng định: chỉ chủ nghĩa hiện
sinh mới khả dĩ có giá trị về mặt triết học, chủ nghĩa Mác chỉ
có thẩm quyền trong chừng mực nào đó về các vấn đề xã hội.
Cho nên, trong cuộc tranh luận này, và tiếp tục về sau, Trần Đức
Thảo đã dày công làm sáng tỏ và bồi đắp ý nghĩa triết học cho
chủ nghĩa Mác. Ông là người Việt Nam đầu tiên và là một vài
trong số những triết gia hàng đầu thế giới góp phần xây móng cho
triết học Mác-xít.
Dựa vào hiện tượng luận Husserl để xử lý mối quan hệ giữa hiện
tượng và bản thể, chủ nghĩa hiện sinh chú trọng hơn đến hiện
tượng, đến cái nghiệm sinh, coi hiện tượng là có trước và tạo ra
bản chất.
Trên cơ sở coi bản thể là cái có trước, hiện tượng chỉ là sự
hiện thực hóa nó, tháng 8 năm 1951 Trần Đức Thảo cho công bố
cuốn Hiện tượng học và phép
duy vật biện chứng với mục đích “tìm trong chủ nghĩa
Marx cách xử lý khả thủ duy nhất những vấn đề do hiện tượng luận
đặt ra”.[4]
Ông thừa nhận đóng góp hết sức có hiệu lực của Husserl về cách
lý giải bản chất: “Bản chất của một vật là cái yếu tố mà thiếu
nó, người ta không thể nào hình dung sự tồn tại của vật ấy”,
chẳng hạn “bản chất của màu đỏ là diện tích, vì không thể có một
màu nào mà không có diện tích”, tuy nhiên ông cho rằng nếu theo
hiện tượng luận triệt để kiểu như Husserl thì cái bản chất cuối
cùng chỉ có thể là “vật chất” với tính cách một phạm trù triết
học, cho nên ông khẳng định tự thân hiện tượng luận phải dẫn tới
chủ nghĩa duy vật.
Ông viết: “Những nghiên cứu tôi thực hiện ở đây vào đầu năm 1944
cho phép tôi khằng định những gì đã được dự đoán trong luận án
tốt nghiệp: đó là ngược lại với những giải thích thông thường đã
giới thiệu thuyết hiện tượng học Husserl là một học thuyết về
những bản thể vĩnh hằng, những phân tích của Husserl hướng tới
triết học về thời gian, về con người lịch sử và về lịch sử thế
giới. Ông nói: ‘Cái vĩnh hằng
là một thời gian tuyệt đối, chính bản thân nó chỉ là
một phương thức của thời gian’. Từ đó tôi đã đi đến
Hiện tượng học của trí tuệ
của Hegel mà tôi đã bình luận trong bài báo đăng
trên tạp chí Temps Modernes
(tháng 9 năm 1948).”[5]
Hơn thế nữa, Trần Đức Thảo cũng từng đã viết: “Marx đã lộn lại
biện chứng pháp Hegel, gạt bỏ cái màn duy tâm để nêu lên cái hạt
nhân duy lý, thiết lập phương pháp biện chứng duy vật… Marx
không phải chỉ có cải tạo một cách đơn thuần biện chứng pháp
Hegel, nhưng thực ra thì đã sáng tạo lại hoàn toàn phương pháp
biện chứng trên lập trường duy vật, theo một nội dung mới. Vì
tuy nội dung hệ thống triết học của Hegel có bao gồm lịch sử
thực tại, nhưng Hegel lại thu hẹp nó vào phần tinh thần, biến nó
thành hiện tượng duy tâm thuần túy, do đấy phương pháp biện
chứng cũng phải xuất hiện dưới một hình thức thần bí. Chỉ có
trên lập trường duy vật mới có thể phát triển nội dung chân
chính phản ánh đúng đắn thực tế khách quan, và nhờ đấy xây dựng
phương pháp tư tưởng ăn khớp với quy luật mâu thuẫn và biến
chuyển của thực tại. Chính như thế là “ lộn lại “ biện chứng
pháp Hegel, thiết lập biện chứng pháp duy vật.”[6]
Sau “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, các bài
biên khảo đăng trên hai số đầu của
Tập san Đại học Sư phạm
năm 1955: ”Nguồn gốc ý thức trong cuộc tiến hoá của hệ thần
kinh” và “Biện chứng pháp của hệ thần kinh” đã phác họa lại
nguồn gốc vật chất của ý thức nói chung, và đi sâu vào quá trình
vật sinh tâm qua sự phát triển của bộ não nhằm chứng minh luận
điểm con người sở dĩ thành người là nhờ có ý thức mà Marx đã dẫn
dụ bằng sự khác nhau giữa một con ong khéo léo nhất với một kiến
trúc sư tồi nhất.
Đến cuốn Tìm cội nguồn của
ngôn ngữ và ý thức thì Trần Đức Thảo đã vượt qua
những khống chế áp đảo của chủ nghĩa duy tâm thời ấy, vận dụng
Marx để giải đáp vấn đề hóc búa nhất của triết học là về nguồn
gốc của ý thức và ngôn ngữ, bằng hai chương trình nghiên cứu:
qua cử chỉ và ngôn ngữ ở trẻ nhỏ và qua những tư liệu về người
tiền sử trên cơ sở coi sự phát sinh tộc loại luôn luôn lặp lại
trong sự phát sinh cá thể.
Ông viết: “Kinh nghiệm của các đứa trẻ sống hoang dã chứng tỏ ở
con người và chỉ ở con người mới có một tâm lý khởi nguyên được
tạo lập bắt đầu từ lớp người thứ nhất – Con người khéo léo –
bằng lao động sản xuất và các quan hệ xã hội bao hàm trong việc
phân công các nhiệm vụ cá nhân và phân chia sản phẩm. Tính xã
hội tự phát ấy trong lao động tập thể đem lại cho các cử động
của mỗi người lao động một giá trị biểu cảm chuyển chúng thành
ngôn ngữ của đời sống hiện thực. Ngôn ngữ ấy được lắp đi đi lắp
lại ở trình độ tiếng vang vỏ não trong hình ảnh bên trong của
chính cơ thể, mà các quan hệ qua lại với hình ảnh xã hội bên
trong của chính cơ thể hướng tới hình ảnh xã hội bên trong được
gửi trả trở về cho chính nó như là hình ảnh của hình ảnh hay
hình ảnh đã sống trải. Và chính cái sống trải tín hiệu học ấy
được diễn đạt trong ngôn ngữ ngôn ngữ học là sự có ý thức trong
đó nó được nâng lên thành trạng thái ý thức thật sự.”[7]
Để xác định nguồn gốc của ý thức, Trần Đức Thảo không xuất phát
từ những hiện tượng khác biệt như ngôn ngữ và cách chế tạo công
cụ chỉ có được ở con người mà đào sâu tìm cái tế bào bản chất
của ý thức ở một biểu hiện có chung giữa con người và con vượn:
động tác chỉ trỏ.
Nghiên cứu thứ nhất của ông có tiêu đề “Hành động chỉ dẫn như là
hình thức gốc của ý thức”. Sự phân tích trong phần này của Trần
Đức Thảo soi sáng cho luận điểm của Marx: “Ý thức ngay tức khắc
là một sản phẩm xã hội nhất thời”.
Trong phần “Ngôn ngữ hỗn hợp” ông sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng để vạch ra quá trình sinh thành của ngôn ngữ như là
vật chất của tư tưởng. Công trình này góp phần soi sáng cho luận
điểm “Ngôn ngữ là ý thức thực”
(Marx).
Khi nghiên cứu về “Những nguồn gốc của khủng hoảng Œdipe”, tuy
xuất phát từ sơ đồ của Sigmund Freud, nhưng Trần Đức Thảo tỉnh
táo nhận ra rằng “Chắc chắn sự nghiệp của Freud bị thiệt thòi
bởi hệ tư tưởng thời đại ông: Tâm lý học sinh vật luận và xã hội
học luận kiểu Durkheim. Do đó học thuyết này không có năng lực
hiểu đời sống trong bản chất hiện thực của mình là bản chất xã
hội, cơ sở thực sự của tâm thần cá nhân.”[8]
Ông không cho rằng Œdipe là một nguyên bản có nguồn gốc từ quan
hệ của trẻ em với cha mẹ và cần thiết cho sự phát triển cái tôi
của nó, mà là một dư sinh của những giai đoạn nhất định trong sự
phát sinh loài. Cũng từ luận điểm cơ bản này, tác giả giải thích
mặc cảm Œdipe ở bé gái và những mặc cảm khác như mặc cảm thiến
hoạn… tất cả đều bằng lao động xã hội.
Maurice Caveing đã xem phần biên khảo của ông về phức cảm Œdipe
như một công trình lớn độc đáo: “Chúng tôi tin không cần phải
viết thêm, đến mức nào những kết luận của Trần Đức Thảo đã ăn
khớp với cả những nghiên cứu gần đây về luyến ái lẫn các công
trình của một số nhà phân tâm học hiện đại về cấu trúc ngôn ngữ
của vô thức, mặc dù khởi đi từ một phương pháp duy vật, biện
chứng và lịch sử.”
Khẳng định nguồn gốc của ý thức do ngôn ngữ và lao động xã hội,
phủ nhận một bản chất người phi lịch sử, phủ nhận khủng hoảng
Œdipe theo lý giải Freud, Trần Đức Thảo không chỉ công khai biểu
hiện tín đồ của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà cả chủ nghĩa duy
vật lịch sử, từ đấy góp phần xây móng cho triết lý Mác-xít.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đánh giá: “Ông muốn dùng chủ nghĩa Mác
để trả lời chính vấn đề hóc búa nhất của triết học là nguồn gốc
của ý thức và ngôn ngữ, ở đấy các học thuyết duy tâm còn làm bá
chủ. Tuy Mác và Lênin có đưa ra những nhận xét hết sức quan
trọng về cách tiếp cận, nhưng đó chỉ mới là nhận xét chưa phải
là một sự nghiên cứu xong xuôi như hai người đã làm đối với
chính trị và kinh tế học. Cách làm của Trần Đức Thảo không phải
là minh hoạ chủ nghĩa Mác bằng những luận điểm tuy là rất đúng
của Mác mà chính là sử dụng phương pháp luận của Mác, cụ thể là
trong bộ Tư bản để chứng minh giá trị của chủ nghĩa duy vật biện
chứng ngay chính trên cơ sở những thành tựu khoa học của thế kỷ
XX về khảo cổ học, nhân chủng học, tâm lý trẻ em, ngôn ngữ học,
nhằm chứng minh chính quan điểm duy vật biện chứng cung cấp cách
lý giải đúng đắn nhất cho phép ta tiếp cận vấn đề ngôn ngữ và ý
thức con người một cách khoa học.”[9]
“Mặt khác thì chính mình lại phủ định mình”[10]
Trần Đức Thảo không chỉ tích cực góp phần xây móng triết lý cho
chủ nghĩa Mác mà từng có thời kỳ ông để cho chủ nghĩa Mác ngấm
vào máu thịt ông, làm ông mê muội.
Hãy nghe ông bình phẩm bài “Hịch tướng sĩ”: “Bài Hịch của Trần
Hưng Đạo là một sản phẩm điển hình của tinh thần quốc gia phong
kiến. Đứng về mặt giá trị tư tưởng, nó tỏ lòng ái quốc, tinh
thần hy sinh và quyết chí tiêu diệt xâm lăng. Nhưng xét đến nội
dung thiết thực và động cơ tư tưởng, thì chúng ta lại thấy biểu
lộ một cách có thể nói là ‘trắng trợn’, những ý nghĩ của một
giai cấp chuyên môn bóc lột. Đành rằng đoạn đầu có nêu gương hy
sinh của những anh hùng thời xưa, ‘bỏ mình vì nước’, nhưng đến
mấy đoạn sau lại thấy rõ cái ‘nước’ đây chỉ được quan niệm như
tổng số những thái ấp và bổng lộc của bọn phong kiến thống trị,
mà chúng cần phải bảo vệ để hưởng một đời phú quí xa hoa với vợ
con. Không có một câu nói đến những nỗi gian khổ của nhân dân,
không được một câu biểu lộ tư tưởng cứu dân… Những mối lo lắng
của Trần Hưng Đạo kêu gọi tướng sĩ, quy lại chỉ là sợ mất địa
vị!”[11]
Hãy xem ông diễn tả cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt… quanh
một chiếc quạt mo: “Bài ‘Thằng Bờm’
lại đứng vào một trình độ thấp hơn. Đây trật tự
phong kiến được tôn trọng. Quan hệ ‘Thằng Bờm’ và ‘Phú ông’ là
quan hệ mà chế độ phong kiến đã quy định giữa nông dân và địa
chủ. Nhưng trong phạm vi quan hệ đó người nông dân cũng có đấu
tranh và bắt buộc phải đấu tranh. Bản chất chiếm đoạt của địa
chủ được diễn tả đây một cách sâu sắc, vì đến cái quạt mo của
một em bé cố nông mà tên địa chủ cũng còn muốn lấy không. Tức là
trong đời sống hàng ngày tôn trọng ngôi thức phong kiến, người
nông dân vẫn phải luôn luôn cảnh giác, và muốn giữ một vật nhỏ,
hoặc trao đổi hợp lịch sử thì cũng phải tranh giành gay go. Đây
không phải là tên địa chủ đã ‘quỳ gối đầu hàng’, mà nếu có bực
tức thì cũng chỉ đi đến chỗ cười nhạt. Nhưng dưới cái vỏ tôn ti
trật tự, đã phát hiện đời sống thực sự trong xuất hiện phong
kiến, tức là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa một bọn kẻ cướp
lòng tham không đáy và nông dân lao động bắt buộc phải bảo vệ
từng giờ từng phút điều kiện sinh sống tối thiểu.”[12]
Ông xác định thành phần giai cấp cho Kim Trọng và Thúy Kiều để
được phép bầy tỏ lòng cảm thương thân phận một người “Tài tình
chi lắm cho trời đất ghen”: “Gia đình viên ngoại họ Vương thuộc
về thành phần trung gian trong xã hội phong kiến. Kiều đã được
luyện tập trong mọi nghề phong lưu: thi, hoạ, ca, nhạc. Nhưng
phương thức sinh hoạt còn giản dị: ngày hội Đạp Thanh, ba chị em
‘bộ hành chơi
xuân’, trong khi bọn giàu có thì ‘ngựa xe như nước, áo quần như
nêm’. Thậm chí phụ nữ trong nhà còn có phần tham gia lao động,
và hôm bọn sai nha đến cướp phá thì chúng đã làm ‘Rụng rời khung
cửi, tan tành gói may’. Tuy nhiên, trước ngày sa sút, không ai
trong gia đình phải sản xuất để sinh sống, vậy họ Vương chắc
cũng có ruộng phát canh, nhưng phần này không thể có nhiều, vì
đến lúc có việc lễ quan, thì không thấy đặt vấn đề bán ruộng và
sau đấy cả nhà lại tìm cách sinh nhai trong nghề thủ công: ‘Thuê
may bán viết, kiếm ăn lần hồi’. Chúng ta có thể nhận định: Kiều
xuất thân ở tầng lớp tiểu phong kiến, có thể là vào hạng dưới.”[13]
“Cụ thể thì tiếng đàn của Kiều cũng là xuất phát từ những bài
nhạc thông thường: ‘Khúc nhà tay lựa nên chương’. Tức là con
người tài hoa, đa tình đa cảm của Kiều có gốc rễ trong quần
chúng, và cũng vì thế mà đến bây giờ chúng ta còn thông cảm, và
cho yêu cầu tình cảm của nàng là tiêu biểu cho quyền sống của
con người dưới chế độ phong kiến.”[14]
Ông không dám suy tôn mà như chỉ xin phép Karl Marx để bảo vệ
đại văn hào của dân tộc mình: “Kinh tế hàng hoá là một lực lượng
tiến bộ trong xã hội phong kiến, đồng thời cũng là một phương
thức bóc lột nặng nề. Giai cấp thương nhân một mặt tăng cường cơ
sở nhân dân chống chế độ phong kiến thống trị, xây dựng những
yếu tố tiền tư bản chủ nghĩa, nhưng một mặt khác thì nó lại cấu
kết với giai cấp thống trị, tăng cường chế độ tham quan ô lại.
Nguyễn Du, nói chung, không thấy phần tích cực của kinh tế hàng
hoá, và chỉ chú trọng lên án lòng tham vô đáy của bọn sai nha,
của những phường ‘buôn thịt bán người’. Về phần này, nhiều câu
phản kháng của Truyện Kiều phù hợp với lòng căm thù của nhân
dân. Nhưng cũng phải nhận rằng Nguyễn Du chưa phải là đã đứng
trên lập trường một giai cấp tiến bộ trong nhân dân mà đấu
tranh. Thực tế thì Nguyễn Du đã coi giai cấp thương nhân với tất
cả những thiên kiến và lòng khinh miệt của con người phong kiến,
và tuy có kết án cái tập quán hối lộ của bọn quan lại, nhưng vẫn
coi trọng giai cấp phong kiến, vẫn bảo vệ lý tưởng phong kiến.”[15]
“Chúng ta có thể dứt khoát: lập trường Nguyễn Du căn bản là
phong kiến, và việc tố cáo tác hại của đồng tiền là thực hiện
trên lập trường phong kiến. Nhưng phải chăng đó là lập trường
phong kiến phản động nhất, ‘thuần phong kiến’ đả phá bọn phong
kiến quan liêu vì chúng cấu kết với thương nhân? Trong suốt
Truyện Kiều chúng ta không thấy đoạn nào tỏ lòng ao ước trở lại
một chế độ phong kiến ‘thuần’ hơn là chế độ quan liêu, tức là
chế độ quý tộc lãnh chúa.”[16]
Mác-xít đến thế mà rồi ông vẫn bị những “đồ đệ trung thành” của
Karl Marx trong hàng lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam cho đi… chăn
bò.
(Mà chăn bò không nên hồn[17].
Trong hồi ký Chiều chiều,
Tô Hoài “phê bình” rằng đàn bò của Trần Đức Thảo không chỉ “móp
bụng” mà còn để cho hổ vồ mất mấy con.)
Vì sao bộ óc lớn ngang tầm người chủ xướng thuyết hiện sinh phải
đi chăn bò? Phải chăng vì:
Dám phê bình lãnh đạo Đảng dù chỉ rất dè dặt: “Tự do của quảng
đại quần chúng, đấy là một nội dung chân chính mà chế độ ta thực
hiện về căn bản, và có điều kiện để phát triển không ngừng.
Nhưng đây là tổ chức chúng ta, tuy xét về nội dung là dân chủ
thực sự, nhưng lại bị lũng đoạn bởi những bệnh nặng nề: quan
liêu, mệnh lệnh, giáo điều, bè phái, sùng bái cá nhân.”[18]
“Đây là một cuộc đấu tranh cách mạng tiến hành trong nội bộ nhân
dân bằng phê bình và tự phê bình, đặng tranh thủ cho mỗi công
dân những điều kiện hoạt động chính đáng và cần thiết để góp
phần vào nhiệm vụ chung, chống sự kìm hãm và lấn át của những
phần tử lạc hậu: quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân ở mọi cấp
lãnh đạo. Phải nói rõ ở mọi cấp lãnh đạo,… Những sai lầm nghiêm
trọng phạm phải trong Cải cách Ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức,
kiến thiết kinh tế và văn hoá là những dẫn chứng hùng hồn.”[19]
“Rõ ràng những phần tử quan liêu bè phái đã lấy thành kiến của
họ làm đường lối của lịch sử, biến những sai lầm của họ thành
bánh xe vô tình của lịch sử. Một bộ máy hùng mạnh, xây dựng để
diệt thù, đến lúc không thấy thù thì lại quay về bạn lấy bạn làm
thù mà đập phá bừa bãi.”[20]
Dám đòi tự do cho văn nghệ sĩ sáng tác và nhà khoa học nghiên
cứu qua một bài báo có tiêu đề như một khẩu lệnh: “Nỗ lực phát
triển tự do dân chủ”: “Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của
Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng Lao động Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự
do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí
thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức
hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do thì
mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải
tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời
là nhiệm vụ số một của người trí thức cũng như của toàn dân.”[21]
Trong khi nhà thơ – ủy viên Bộ Chính trị của Đảng chỉ thỉ cho
toàn dân phải biết “Thương mình thương một, thương ông thương
mười” thì đàng này lại phỉ báng Stalin: “Những nghị quyết lịch
sử của Đại hội (Đại hội XX của ĐCS Liên Xô) đã ảnh hưởng sâu sắc
đến các nước dân chủ nhân dân anh em và phong trào công nhân và
nhân dân thế giới. Nước ta không thể nào đứng riêng: Chúng ta sẽ
tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin
đã gột rửa những nét xấu của đời Stalin, với nội dung chân chính
xây dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới, trong ấy dưới hình thức này hay hình thức khác, nhiệm
vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.”[22]
Những biểu hiện trên cho thấy, độ phức tạp trong tư duy Trần Đức
Thảo đến mức tuồng như không lý giải nổi. Ở ông có hiện tượng
phủ định trong công nhận, công nhận trong phủ định như kiểu
Hegel: “một mặt mình đã mất mình vì thấy mình ở bên kia. Nhưng
mặt khác mình lại phủ định bên kia”.[23]
Trong khi ông mang cặp mắt của Karl Marx để soi xét tính giai
cấp của Truyện Kiều thì ông cũng lại viết: “Giá trị văn nghệ là
diễn tả hiện thực tiến hoá của xã hội trong giới hạn của điều
kiện lịch sử, với khía cạnh hữu hạn nhưng chân thực. Những quan
điểm sai lệch của tác giả đời xưa cũng phải được tính trong giới
hạn đó, vì những sai lầm này là do ở chế độ áp bức bóc lột gây
ra một cách tự nhiên. Vậy một tác phẩm đời phong kiến có thể có
giá trị văn nghệ với một nội dung đấu tranh rất thấp và trình
bày theo quan điểm sai lầm, nếu nội dung đó vẫn được biểu diễn
một cách sinh động”. “Về phần lý luận, Truyện Kiều biện hộ chế
độ thống trị, nhưng trong cảm hứng thi văn, Nguyễn Du lại chuyển
sang phe nhân dân, phản ánh thực tế xã hội đương thời với những
nét thối nát và những lực lượng tiến bộ của nó, đề cao giá trị
nhân đạo chân chính: tự do, công lý, chính nghĩa. Mà vì Truyện
Kiều là một trước tác văn nghệ, không phải là một cuốn sách lý
luận, phần tiến bộ phải được coi là phần chủ yếu, vì chính đây
là phần có giá trị thi văn, phần mà chúng ta thông cảm và thưởng
thức.”[24]
Thế là ông bị quy tội đòi hỏi Đảng “trả văn nghệ lại cho văn
nghệ sĩ” và tuyên truyền cho quan điểm “nghệ thuật vị nghệ
thuật” của mỹ học tiểu tư sản.
Phê phán tư tưởng giáo điều, cực đoan của Stalin biểu hiện trong
cuốn Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Trần Đức Thảo
thẳng thừng: “Stalin chỉ có thể chủ trương một thứ biện chứng
duy tâm chứ không thể nào là duy vật. Và từ quan điểm duy tâm
này, tất cả các nguyên tắc hay quy luật của biện chứng pháp như
Marx và Engels đã truyền đạt đều bị bóp méo. Nguyên tắc ‘thế
giới là một chỉnh thể hợp nhất và chặt chẽ trong đó tất cả mọi
vật đều tương quan với nhau’ biến thành giáo điều giới hạn ‘bất
cứ hiện tượng nào cũng có thể được hiểu và biện minh, nếu quan
sát trong quan hệ thiết yếu với các hiện tượng chung quanh’.
Nguyên tắc ‘thế giới là một hệ thống trong đó mọi
vật đều tương quan với nhau, tác động lên nhau, và tác động qua
lại này chính là vận động’ trở thành hai phần rời rạc, một bên
là liên hệ bất động và một bên là vận động, tác động hỗ tương
không hề được nhắc đến. Nguyên tắc hai vế ‘chuyển hoá từ lượng
thành phẩm và ngược lại’ cũng bị giản lược thành quy luật ‘phát
triển từ lượng sang phẩm’ một chiều. Và cuối cùng, nguyên tắc
‘đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập’ cũng bị cắt mất
nửa thống nhất; công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa chẳng hạn
chỉ còn là cuộc đấu tranh không ngừng giữa quá khứ với tương lai
mà không có hiện tại. Từ những méo mó tai hại này, nhất là giáo
điều cuối, mọi đòi hỏi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa ló dạng đều
đã bị chụp mũ là loại tàn dư của tự do tư sản cần phải triệt
tiêu.”[25]
Hàn lâm hơn, ở cuốn Vấn đề
con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con người”
thì Trần Đức Thảo đả phá quan điểm của triết gia Mác-xít người
Pháp L. Althusser, cha đẻ của chủ nghĩa “Lý luận không có con
người”, ông này cho rằng không có con người nói chung mà chỉ có
con người giai cấp. Theo Trần Đức Thảo, con người có bản chất
nhiều tầng (đa nguyên) được hình dung như một mặt cắt địa tầng
địa chất mà lớp trầm tích trên cùng là “con người giai cấp”,
dưới đó là tầng nền của “con người nói chung”, tầng thứ ba là
“con người sinh vật”, tầng đáy là “con người hóa lý”.
Không chỉ bác bỏ con người giai cấp và xác định sự tồn tại của
bản chất hàng hai của con người mà về vấn đề dân tộc Trần Đức
Thảo cũng đã viết: “Con người theo nghĩa chung của loài người là
con người nguyên thủy tái diễn ở thời văn minh trong quá trình
thành người ở tuổi nhi đồng, rồi một mặt trở thành con người
giai cấp, và một mặt trở thành con người dân tộc. Sự liên hệ
giữa con người giai cấp với con người dân tộc, về thực chất có
thể coi như sự liên hệ mà Marx đã nêu lên giữa cá nhân lệ thuộc
điều kiện giai cấp và cá nhân nhân cách.”[26]
Ngay trong tác phẩm Chủ
nghĩa Marx và hiện tượng học
viết năm
1946 người ta đã thấy: “một mặt, triết gia không
ngừng đối lập chủ nghĩa Marx với chủ nghĩa cộng sản thô sơ, hoặc
chủ nghĩa duy vật ‘thông tục’; mặt khác, bởi vì một học thuyết
thật sự lấy con người làm gốc không thể chỉ dừng lại ở những quy
định vật chất khách quan, mà phải
‘truy tìm trong cái
thế giới đã được thực hiện
tất cả ý nghĩa của cuộc đời mà chúng ta cưu mang’,
ông chờ đợi là ‘sự phân
tích hiện tượng học về lao động tinh thần cụ thể’
(kinh nghiệm tôn giáo, sự tìm kiếm lý tưởng cuộc đời chẳng hạn),
như một thời kỳ của tồn tại hiện thực,
sẽ mang lại cho biện chứng về
quan hệ sản xuất cái ý nghĩa trọn vẹn của một sự chiếm hữu phổ
quát’, hiểu theo nghĩa tích cực (hưởng thụ bằng sự
nhận chân tính người trong những sản phẩm đã được con người tạo
tác). Có lẽ chính những dòng này, cùng với một số ý kiến không
mấy chính thống khác, đã khiến Jean-François Lyotard nhìn thấy ở
tác giả “một ý đồ xét lại
chủ nghĩa Marx”[27].
Xét lại chủ nghĩa Marx, phủ định chủ nghĩa Marx là biện chứng.
Chính Trần Đức Thảo đã viết:
“Sự phủ định chủ
nghĩa tư bản trong chủ nghĩa xã hội kéo theo sự phủ định của
chính cái phủ định ấy, trong mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa xã
hội, điều đó thúc đẩy sự phát triển… Cái trung gian như là phép
biện chứng của sự quá độ chuyển một chế độ lên một chế độ khác
cao hơn, điều đó nằm trong sự thống nhất của việc phủ định chế
độ thứ nhất bởi chế độ thứ hai với việc phủ định chính sự phủ
định này.”[28]
Ông Phạm Trọng Luật kể lại rằng: “Cũng
là triết gia nghiệp dư, song tình cờ được gặp Trần Đức Thảo vài
tháng trước khi ông mất… hỏi ông về trước tác của ông, và nói
thực là tôi thấy chúng máy móc. Ông khóat tay như muốn gạt chúng
đi và đưa cho tôi một phần tác phẩm cuối cùng, còn dưới dạng bản
nháp…”[29]
“Gục bên súng mũ bỏ quên đời”
Trong những ngày oi nồng của hè 1993, một chiếc bình sơn xanh
đậm được đem bỏ chỏng trơ nhiều ngày trong góc tối dưới gầm cầu
thang nhà tang lễ 125 Phùng Hưng.
Chiếc bình ấy đựng tro thiêu của một người được “Hy vọng chân
thật rằng Trần Đức Thảo, nhà Marxist và nhà hiện tượng học đặc
sắc, cuối cùng sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử tổng
quát của ý nghĩa”.
Đó là câu kết trong bài viết của Daniel J. Herman về Trần Đức
Thảo. Từ điển các nhà triết học là một công trình hàn lâm đồ sộ,
dày 2.725 trang, giới thiệu thân thế và sự nghiệp của các nhà
triết học trên thế giới từ thời cổ đại cho đến thời nay. Có
những tên tuổi chỉ được dành cho 2-3 dòng ngắn ngủi. Nhưng Trần
Đức Thảo được trang trọng giới thiệu tới 3 trang khổ lớn.
Năm
2000,
nhà nước CHXHCN Việt Nam cũng truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về
khoa học xã hội cho các công trình của Trần Đức Thảo.
Tôi mượn câu thơ Quang Dũng để đặt tên cho tiểu mục này bởi liên
tưởng đến những chiến sĩ “Tây tiến”. Họ trong sáng quá, hồn
nhiên quá, cho nên có nhẽ vong linh họ được mát mẻ bởi họ đã
quên không còn nhớ đến cái ngày hôm nay trong tâm niệm ngày nào
của họ.
Trần Đức Thảo cũng vậy, cầu mong và hy vọng hương hồn ông mát mẻ
bởi ông cũng đã bỏ quên Karl Marx, có như vậy mới có thể đạt
được điều này: “Trên nền tảng các tiếng gọi của hình ảnh xã hội
bên trong, ý thức trong tiếng gọi của nó với bản thân đặt ra yêu
cầu về cái thiện trong hành động, cái đúng trong nhận thức, và
cái đẹp trong việc hoàn tất các quá trình sống trải. Do vậy ý
thức làm cho thế giới tự nhiên trở thành thế giới con người, có
giá trị với con người.”[30]
Bà Nguyễn Thị Nhất, vợ cũ của Trần Đức Thảo đề nghị mai táng ông
ở nghĩa trang Mai Dịch nhưng người ta không đồng ý. Thật may cho
ông. Không biết những người đang nằm trong nghĩa trang Mai Dịch
kia có dám ngạo mạn xem thường ông hay xấu hổ nếu dám nằm cạnh
ông?
Trần Đức Thảo sinh ngày 26-09-1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ
Sơn, Bắc Ninh, trong một gia đình viên chức. Năm 1935, sau khi
đỗ tú tài vào loại xuất sắc, ông theo học trường Luật tại Hà
Nội. Năm 1936, ông sang Pháp và thi đỗ vào Trường Đại học Sư
phạm phố d’Ulm. Đây là một trong những trường nổi tiếng của
Pháp, chỉ tuyển dụng những người xuất sắc nhất của đất nước. Có
thể nói, đó là một thứ “siêu đại học”. Sau non một thế kỷ, giáo
sư Ngô Bảo Châu cũng làm luận án tiến sỹ tại trường này.
Ông kể: “Tôi đã được bầu là Uỷ viên của Tổng Liên đoàn người
Đông Dương ở Pháp và phụ trách nghiên cứu những vấn đề chính
trị. Đầu năm 1945 với tư cách uỷ viên Tổng Liên đoàn người Đông
Dương, tôi đã có một cuộc tiếp kiến với ngài Tổng bí thư Maurice
Thorez tại trụ sở của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản
Pháp. Chúng tôi đã thống nhất đường lối chung trong cuộc đấu
tranh vì các dân tộc bị áp bức, chống lại chủ nghĩa đế quốc:
cuộc đấu tranh nhằm giải phóng cho các dân tộc ấy, do những điều
kiện khách quan của thế giới đương thời sẽ nhất thiết dẫn đến
chủ nghĩa cộng sản. Ngài Maurice Thorez đã hứa rằng các tổ chức
của Đảng Cộng sản Pháp sẽ có những giúp đỡ cụ thể dành cho các
tổ chức địa phương do Tổng Liên đoàn người Đông Dương ở Pháp làm
đại diện. Lời hứa này đã hoàn toàn được tôn trọng…”[31]
“Một bài báo đăng trên tờ
Le Monde đã thuật lại cuộc họp báo của tôi, bài báo
đó đã nhắc lại một câu hỏi của một nhà báo đã hỏi tôi: ‘Những
người Đông Dương sẽ làm gì khi quân đội viễn chinh đổ bộ?’, tôi
đã trả lời: ‘Phải nổ súng’. Vì lời đối đáp này, tôi đã phải trả
giá là bị bắt giam giữ tại nhà tù Príson de la Santé từ đầu
tháng 10 đến cuối tháng 12 năm 1945, với lý do xâm phạm an ninh
nước Pháp trong những lãnh thổ có chủ quyền của Pháp.”[32]
Thế mà chỉ vì hai bài báo viết cho
Nhân văn-Giai phẩm
có nội dung đã lược trình trên kia, nhà khoa học mẫn tiệp, người
đã dốc hết trí lực cao cường thời trẻ cho chủ nghĩa Mác Trần Đức
Thảo lại bị các lãnh tụ Mác-xít Việt Nam tống đi đầy đằng đẵng
một thời gian dài gấp chục lần nhà cầm quyền Pháp đã tống giam
ông.
Một nhà báo khi viết về vợ ông có kể rằng:
Sống chung được mấy tháng, triết gia Trần Đức Thảo vướng vào
phong trào Nhân văn-Giai
phẩm. Đang từ Chủ nhiệm khoa Sử Trường Đại học Tổng
hợp, mà rồi bị cấm giảng dạy. Để kiếm sống, ông phải dịch thuật
lặt vặt, phải bán dần bán mòn những bộ từ điển để lấy tiền mua
thức ăn. Một thời gian sau, ông còn bị bắt. Tất cả những ai liên
quan đến ông đều bị thẩm vấn, điều tra. Nhất là vợ ông, cũng
không tránh khỏi những phiền phức.
Khi đó, những người thân quen trước kia của ông Thảo đều lẩn
tránh. Những đồng nghiệp trong cơ quan vốn không ưa cô nay lại
càng xa lánh. Nhất đi sang bên phải đường, ngay lập tức họ đi
sang bên trái hoặc bỏ đi đường khác. Tủi hận nhưng Nhất không bi
lụy. Không khóc than. Không oán trách. Mà cô vẫn làm việc hăng
say.
Thời gian đó quả là địa ngục. Ngày ngày đi làm kiếm tiền nuôi
gia đình. Cuối tháng khăn gói theo xe quân đội thăm ông Thảo.
Một hôm, quá chán nản và thất vọng, cô đạp xe đạp lang thang
khắp phố phường. Trời trưa nắng. Ánh nắng gay gắt khiến làn da
trắng xạm đen nhiều. Mệt bã bời do say nắng, nhưng cái đau đầu
do say nắng không đau bằng cách con người ứng xử với nhau. Nhất
đi chầm chậm, như muốn ngã quỵ xuống đường.
Bỗng dưng, một chiếc xe ôtô rẽ sát lề đường, chặn xe Nhất lại.
Hóa ra là Thủ tướng Phạm Văn Đồng vừa đi họp về. Còn nhớ năm
1955, khi Nhất cùng đoàn trí thức Việt kiều Pháp về nước, cô đã
được gặp Thủ tướng. Cách đây mấy tháng, ông Đồng cũng có ghé
thăm nhà triết gia nên nhận ngay ra cô. Ông hỏi:
“Tình hình chị dạo này sao rồi?”
“Tôi cũng ổn.” – Nhất trả lời. “Nhưng anh Thảo thì bi đát quá.
Người ta nghi ngờ anh ấy đủ thứ. Thực tình anh ấy ngây thơ lắm.
Mới về chân ướt chân ráo, như cục gỗ chẳng biết gì đâu.”
“Tôi cũng biết là anh Thảo hiền lành, cũng chẳng có gì.” Thủ
tướng an ủi. “Anh ấy là một trong những nhà triết học lớn nhất
của thế kỷ XX[33],
lớn nhất châu Âu chứ không phải Việt Nam.” Ông nói tiếp: “tôi sẽ
tìm cách cứu ông ấy.”
Năm 1992, ông xin được cho phép sang Paris chữa bệnh gan và lấy
tư liệu thực hiện công trình nghiên cứu
Logic của cái hiện tại sống
động.
Tại Paris, ông Nguyễn Đức Hiền có dịp gặp và kể: “Một ông già ở
độ tuổi cổ lai hy khoác chiếc áo dạ cũ màu tím dài chấm gót,
bưng bê lỉnh kỉnh đủ thứ xoong, chảo, chai, lọ leo lên leo xuống
hàng trăm bậc thang gác, tự lo lấy bữa ăn cho mình… Ông già ấy
cứ hành trình chừng mười lăm bậc thì dừng lại, tựa người vào
hành lang đứng nhắm mắt há miệng thở như thổi bễ.”
***
Nhờ sự can thiệp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông được chữa bệnh
ở bệnh viện Việt – Xô. Năm 1981, tình cờ tôi được nằm cùng phòng
với ông trong bệnh viện. Phòng chỉ có hai người mà tôi lúc ấy
thì khá trẻ so với những người đủ tiêu chuẩn nằm bệnh viện này
nên hình như ông có ý cảnh giác tôi.
Cả tuần lễ hầu như không có ai vào thăm ông. Ông nằm thui thủi
và thường quay mặt vào tường. Thỉnh thoảng lại giơ bàn tay trái
lên, nhìn chằm chằm qua kẽ tay lẩm bẩm một câu tiếng Pháp “Một
giọt nước trong suốt đang từ từ rơi”. Rồi ông khóc rưng rức, nho
nhỏ. Tôi gợi chuyện song ông không mặn mà. Mãi đến một hôm tôi
nhờ ông sửa một bức thư bằng tiếng Pháp để trả lời thư trao đổi
từ nước ngoài với tôi về vấn đề cổ địa từ học ông mới dần dần
trở nên thân tình.
Không ai quan tâm đến ông. Mấy cô y tá rất tận tình chăm sóc tôi
nhưng lại hay vùng vằng, thậm chí xấc xược với ông. Họ vẫn cho
ông là tên phản động vừa bị đi cải tạo về.
Không cốc chén, khi khát ông với tay xuống gậm giường bưng cái
nồi nhôm ám khói đen sì đựng nước đun sôi để nguội, mở vung uống
ừng ực…
Viết đến dòng này tôi bỗng trào nước mắt. Nhẽ ra ngày ấy tôi
phải thật sự ân cần đối với ông, đỡ đần ông, bầy tỏ sự kính
phục, quý mến bằng những cử chỉ, hành động cụ thể chứ không chỉ
có một lần chạy đi gọi bác sĩ khi cái chai đạm tiếp cho ông đã
cạn kiệt mà y tá không ngó ngàng tới.[34]
Bù đắp cho nỗi ân hận chưa nguôi ngoai suốt từ ngày ấy, bài viết
này như một nén tâm nhang kính dâng ông nhân kỷ niệm thứ 93 ngày
sinh của ông.[35]
Tưởng niệm ông, “Tôi hồi tưởng đôi mắt ông, đôi mắt sáng, thơ
ngây như mắt trẻ con. Và, tôi tự nhủ, xét cho cùng, đời ông thật
buồn mà đẹp, và ông biết chết như chẳng mấy người biết sống,
sống mà không hề biết bán mình. Trần Đức Thảo là một nhà triết
học chân chính.”[36]nK
Hà Nội ngày 26 tháng 9 năm 2010
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại: (04 ) 35 534 370
[1] Hegel, Hiện tượng
luận của tinh thần
[2] Khi cần viện dẫn đến khái niệm “Ý thức đầu tiên” khởi
sinh trong con người được trình bày trong cuốn
Trải nghiệm và luận giải
của Husserl thì vì J. P. Sartre không nắm rõ cuốn đó nên cuộc
tranh luận phải tạm ngừng lại.
[3] Trần Đức Thảo, Tiểu
sử tự thuật
[4] Trần Đức Thảo, Lời mở đầu của cuốn
Hiện tượng luận và chủ nghĩa
duy vật biện chứng
[5] Trần Đức Thảo, Tiểu
sử tự thuật
[6] Trần Đức Thảo, “Hạt nhân duy lý trong triết học Hegel”
[7] Trần Đức Thảo, Sự
hình thành con người
[8] Trần Đức Thảo, Hiện
tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng
[9] Phan Ngọc, “Về công trình nghiên cứu
Tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và
ý thức của cố giáo sư Trần Đức Thảo”
[10] Hegel, Hiện tượng
luận của tinh thần
[11] Tạp chí Nghiên cứu
Văn Sử Địa số 3-1954
[12] Tạp chí Nghiên cứu
Văn Sử Địa số 4-1955
[13] Tập san Đại học Sư
phạm số 5, tháng 1-2-3 –1956
[14] Tập san Đại học Sư
phạm số 5, đã dẫn
[15] Tập san Đại học Sư
phạm số 5, đã dẫn
[16] Tập san Đại học Sư
phạm số 5, đã dẫn
[17] Về tệ lơ đãng của chàng chăn bò này: Hồi bao cấp ông
thường phải ra chợ Hàng Bè mua củi về đun. Ông buộc củi sau
poóc-ba-ga xe đạp nhưng có hôm về đến nhà giở ra chỉ thấy sợi
dây buộc tấm bìa. Ông ở tầng ba, khu tập thể Kim Liên, một hôm
đi đâu về, thấy căn hộ tầng hai tại vị trí tương tự cửa chỉ khép
hờ, ông đàng hoàng bước vào, để nguyên đôi giầy lấm lem lăn ềnh
ra giường. Chủ nhà về, ông khoát tay xua: “Tôi đang mệt, cần
trao đổi gì đến mai mời chị quay lại!”. “Nhưng đây là nhà của em
mà bác”, người chủ nhà phải nhắc ông.
[18] Giai phẩm mùa Đông, tập 1-1956
[19] Giai phẩm mùa Đông, tập 1-1956
[20] Giai phẩm mùa Đông, tập 1-1956
[21] Báo Nhân văn số
3, ra ngày 15 tháng 10 năm 1956
[22] Báo Nhân văn số
3, ra ngày 15 tháng 10 năm 1956
[23] Hegel, Hiện tượng
luận của tinh thần
[24] Báo Nhân văn số
3, ra ngày 15 tháng 10 năm 1956
[25] Phạm Trọng Luật, “Triết lý của Trần Đức Thảo đã đi
đến đâu?”
[26] Trần Đức Thảo, Vấn
đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con người”
[27] Phạm Trọng Luật, “Triết lý của Trần Đức Thảo đã đi
đến đâu?”
[28] Trần Đức Thảo, Sự
hình thành con người
[29] Trần Đức Thảo, Sự
hình thành con người
[30] Trần Đức Thảo, Sự
hình thành con người
[31] Trần Đức Thảo,
Tiểu sử tự thuật
[32] Trần Đức Thảo,
Tiểu sử tự thuật
[33] Trong những người lãnh đạo Đảng CSVN, chỉ Thủ tướng
Phạm Văn Đồng là người còn biết thương mến, quý trọng trí thức.
Năm 1980 tôi được tổ chức CCOP của Liên Hợp Quốc mời đi trình
bày công trình nghiên cứu về cổ địa từ. Công an quyết liệt ngăn
cản. Giáo sư Tạ Quang Bửu phải viết thư tay cho Thủ tướng. Thủ
tướng không chỉ tích cực can thiệp mà còn bảo thư ký theo dõi,
nhắc nhở việc chuẩn bị rất khẩn trương cho tôi. Nhờ chuyến đi
đó, không những sự nghiệp khoa học của tôi thêm thành đạt mà vì
được thế giới phương Tây biết đến rất sớm nên công cuộc đấu
tranh dân chủ hóa đất nước của tôi cũng thuận lợi hơn nhiều
người khác.
[34] Thuở ấy tôi học, rồi làm khoa học tự nhiên, không hiểu
biết nhiều về triết học nói chung và giáo sư Trần Đức Thảo nói
riêng.
[35] Trần Đức Thảo sinh ngày 26/11/1917, mất ngày 24/4/1993.
[36] Trần Đạo, “Trần Đức Thảo – một đời người”
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|