Từ
Không lượng tử
đến Chân như Phật học
Không
lượng tử
Lịch sử của sự phát triển khoa học nói với chúng ta rằng cho đến
cuối thế kỷ 19 với sự thành công của các nhà khoa học có tầm
quan trọng như Galileo và Newton, Copernicus và Kepler, Faraday
và Maxwell cùng với những ứng dụng kỹ thuật đáng kinh ngạc, lúc
bấy giờ phần đông các nhà khoa học, trong đó có nhà vật lý Lord
Kelvin đã tin rằng vũ trụ trong dạng toàn thể của nó đã có thể
khám phá và chỉ còn lại những chi tiết nhỏ không đáng kể và ông
xác tín một cách lạc quan sớm muộn gì cũng giải quyết xong. Đó
là 2 vấn đề:
1. Vấn đề giả định từ lâu về sự tồn tại của chất ether làm môi
trường truyền dẫn sóng điện từ đã bị phủ nhận bởi hai nhà vật lý
Michelson và Morley qua các thí nghiệm của 2 ông.
2. Vấn đề phổ bức xạ do vật đen phát ra không phù hợp với công
thức của Wien sau đó là Lord Rayleigh. Vào những năm đầu thế kỷ
20, hai vấn đề thách thức nói trên đã khơi mào cho sự thành công
của thuyết tương đối và lý thuyết lượng tử. Có thể nói
A.Einstein và Max Planck là hai nhà bác học tiên phong làm cáo
chung nền vật lý cổ điển, khai sinh nền vật lý hiện đại dựa trên
hai trụ cột kiên cố là “Lý thuyết lượng tử cuả Max – Plank và
lý thuyết tương đối của A – Einstein”.
Với tư cách là triết học tự nhiên, vật lý có vai trò quan trọng
trong bản thể luận và nhận thức luận. Trong một thời gian rất
lâu, cơ học Newton và quyết định luận Laplace đã chi phối nhận
thức và hành động của phần lớn nhân loại (ngoại trừ Đông
phương). Vật lý hiện đại, cũng không ngoại lệ ngoài sự khám phá
những hiện tượng tự nhiên hay những ứng dụng vào kỹ thuật làm
tăng sức mạnh con người đối với tự nhiên, đem lại tiện ích cho
con người, làm phồn vinh cho nhân loại, mà còn tính cách mạng
của nó trong việc mô tả, diễn giải thế giới tự nhiên và tính
chất triết học liên quan đến thế giới quan của con người.
Giữa hai lĩnh vực cực tiểu (lượng tử) và cực đại (thuyết tương
đối) phải chăng có triển vọng tìm được những đơn vị cuối cùng
của vật chất trong lĩnh vực cực tiểu và do đó thuyết lượng tử đã
phát triển hết sức mạnh mẽ trong thế kỷ 21. Vật lý lượng tử đang
đối diện với các vấn đề mang tính triết lý vô cùng cơ bản của
nhân sinh: cái gì là thực thể của thế giới vật chất hay tự tính
của nó là gì – nó có độc lập với con người, nó có phải bóng dáng
của một thực tại sâu kín phóng chiếu vọng tâm con người không.
Bản chất của thời gian không gian là gì và tại sao ta lại có
những cảm nhận về chuyển động của thời gian. V.v…
Nhiều khái niệm thật sâu kín, đương nhiên khó lãnh hội, ngay đối
với các nhà khoa học tầm cỡ cũng còn không ít băn khoăn. Tuy
vậy, người em song sinh của lý thuyết lượng tử là cơ học lượng
tử đã được xây dựng do Schrodinger (cơ học sóng) - Heisenberg
(cơ học ma trận) và một số nhà khoa học khác đặt trên cơ sở toán
học chặt chẽ từ năm 1926 – 1927 bởi F.A.M Dirac, J-Von Neumann
v.v… Chính cơ học lượng tử sản sinh ra các ngành công nghệ mới
thành công chói lọi như: công nghệ laser, công nghệ transtor,
công nghệ viễn thông lượng tử, công nghệ máy tính lượng tử, công
nghệ nano.v.v.. Dù nhân loại thừa hưởng tiện ích quá nhiều từ
những áp dụng kỹ thuật của nó nhưng đồng thời tỏ ra “không dễ
chịu” chút nào với nó.
Nhà vật lý M-Gell-Man (Nobel 1969) đã than thở: “Cơ học lượng
tử, ngành bí ẩn rối răm này, chẳng ai trong chúng ta thực sự
hiểu nó, nhưng chúng ta lại biết cách xử dụng nó (năm 1981)
R-Feymann (Nobel 1965) nói tiếp “Tôi không hiểu nó, chẳng ai
hiểu cơ lượng tử cả”. Có ý sâu sắc hơn, năm 1992 giáo sư Toán –
Lý nổi tiếng của Đại học Oxford, đồng nghiệp của S – Hawking.
Ông R-Penrose thì cho rằng việc giải thích cơ học lượng tử là
“Câu đố vĩ đại nhất” của vật lý học. Nhà vật lý Nobel 1999, ông
G’. tHooft đã viết (năm 2005) rằng “Tôi không nói rằng cơ học
lượng tử là sai hay đầy đủ, nhưng tôi nghĩ rằng một lý thuyết
tối hậu phải không có yếu tố ngẫu nhiên. Tôi đứng về phía A –
Einstein, người luôn luôn cho rằng các phương trình thực sự của
tự nhiên không cho phép có may rủi”.
Phải chăng cho đến hiện nay, cơ học lượng tử vẫn chưa phải là
một lý thuyết về thực tại. Thực tại lượng tử nếu có thể gọi là
như vậy thì thực tại đó là “thực tại bị bao phủ” ý kiến của
D’Espagnat và vẫn cứ luôn luôn bị bao phủ. Phải chăng sự tìm
kiếm của chúng ta về một “thực tại khách quan” là vô vọng?
Theo lý thuyết trường lượng tử, vũ trụ vật lý có thể quan sát
được chẳng tạo ra được cái gì khác ngoài những biến động trên
một đại dương năng lượng vô hạn. Theo David Bohm, nhà vật lý
lượng tử nổi tiếng cho rằng vật chất và ý thức, thời gian không
gian và vũ trụ chỉ là một “tiếng vỗ khe khẽ” so với hoạt động vô
tân của mặt ‘nằm bên dưới”. Mặt bên dưới đó theo ông chính là
khái niệm “không lượng tử”.
Theo ý kiến của những nhà vật lý lượng tử, không có chân không
tuyệt đối mà đặc trưng của nó là hoàn toàn không có vật chất và
năng lượng. Trong hiện thực không thể đạt tới mức loại bỏ trường
điện từ dư thừa làm cái nền của chân không. Chân không lượng tử
được nhìn nhận là trạng thái cơ bản của vạn vật, nó vô hướng,
trung hòa mang nặng lượng cực tiểu làm cái nền của “Không lượng
tử”. Theo nguyên lý bất định của Heisenberg thì trong cơ học
lượng tử, dù ở mức độ đo lường hoàn hảo nhất ta không thể xác
định đồng thời chính xác cả hai yếu tố: vị trí và xung lượng của
một hạt đang chuyển động, cũng như cả thời gian lẫn năng lượng
của một biến cố nào đó. Trong phòng thí nghiệm vật lý lượng tử
các nhà khoa học quan sát thấy các hạt thay đổi liên tục tạo ra
các hạt ảo, tức thì hấp thu các hạt ảo này khi chúng vừa sinh ra
với thời gian cực ngắn để biến thành năng lượng. Nếu chỉ quan
sát năng lượng của biến cố ta thấy cả một đại dương năng lượng.
Điều này ta thấy số năng lượng sinh ra từ không cũng nằm trong
nguyên lý bất định. Năng lượng càng lớn thì hạt ảo sinh ra càng
nặng, mỗi hạt xuất hiện như là một tổng thể của tổ hợp các hạt
loại khác và xuất hiện với một xác suất nào đó.
Trong phòng thí nghiệm các hạt nguyên thủy sau khi va chạm sẽ
sinh ra hạt loại khác, nhưng cũng có khi không tạo nên do sự va
chạm mà vẫn có vài ba hạt ở từ đâu đó xuất hiện tác dụng lẫn
nhau rồi biến mất thật ma quái và hư vô. Nếu chúng ta đặt vào
chân không một năng lượng dư thừa do sự biến đôi trạng thái thì
năng lượng này có thể chuyển thành vật chất và phản vật chất, đó
chính là những hạt nổi lên từ hư vô. Hiện nay, các nhà khoa học
đã kiểm chứng được hai biểu hiện của không lượng tử bằng thực
nghiệm đó là hiệu ứng Casimir và hằng số tương tác cơ bản di
động.
Như vậy, chân không lượng tử là sân khấu của một điệu vũ không
ngừng của các hạt sinh ra và mất đi trong khoảnh khắc cực kỳ nhỏ
con người không nắm bắt được. Theo nhà vật lý Phạm Xuân Yêm -
Đại học Liere et Marie Curie, đã ẩn dụ chân không này như một hư
vô mênh mông tĩnh lặng nhưng khi có sự nhiễu loạn của năng lượng
thì vật chất được tạo thành, tương tác nhau, phân rã và trở lại
không, quá trình này tiếp nối lặp đi lặp lại vô hạn. Theo nguyên
lý bất định Heisenberg năng lượng của chân không lượng tử là vô
hạn. Chính trên quan niệm này mà David Bohm cho rằng vũ trụ là
một biển năng lượng khổng lồ đang vận động trong dạng “trật tự
tiềm ẩn” mà dạng hình thế giới vật chất chúng ta thấy chỉ là
“trật tự dàn trải” khi dạng “trật tự tiềm ẩn” bị kích động. Nói
cách khác, hiện tượng sự vật đều sinh khởi từ một cội nguồn
chung và cội nguồn này khi nhập vào giác quan con người thì khởi
mọi sự sai biệt mà thấy ở ngoại cảnh.
D. Bohm cho rằng vụ nổ lớn (big bang) hình thành vũ trụ cũng chỉ
là một gợn sóng nhỏ của biển năng lượng mênh mông đó và thế giới
vô sinh (vô tình) và thế giới sự sống (hữu tình) đều ẩn tàng
trong “trật tự tiềm ẩn”, lấy trật tự này làm nguồn gốc cho sự
vận hành của riêng mình và do đó nó là nguyên lý sáng tạo của
mọi tồn tại, nó phổ biến khắp vật chất và là bản thể của vật
chất. Nói một cách rốt ráo nó là trạng thái chân thật của vạn
hữu trong vũ trụ mà Bohm có khi gọi là “chân như” (that – which
– this) và không thể là đối tượng của nhận thức thường nghiệm.
Chân như:
Chân như là một khái niệm quan trọng của Phật giáo Đại Thừa.
Chân như được khẳng định là thể tính tuyệt đối cuối cùng của sự
vật, là thể tính chân thật của thế giới hiện tượng, nó có tính
bất động, thường hằng hoàn toàn ngược với thế giới hiện tượng
thuộc về thân tâm và vì vậy nó nằm ngoài mọi suy luận nhận thức
của lý trí.
Chân như đồng nghĩa với Như lại tạng, Phật tính, Pháp thân. Tri
kiến được Chân như tức là giác ngộ vượt khỏi thế giới nhị
nguyên. Chân như bao trùm mọi hiện tượng, là lý thể bất biến ẩn
tàng phía sau hiện tượng và mọi hiện tượng không rời khỏi chân
như là do sự hiện khởi tùy duyên của Chân như.
Nhìn từ góc độ học thuyết Vạn pháp duy tâm, Phật giáo nhận định
vũ trụ vạn vật mà chúng sinh cảm nhận qua kinh nghiệm được hiện
ra từ tâm thức, từ biến hiện của tâm thức. Tâm thức ở đây là
thức A - lại - da thuộc tầng đáy của ý thức. Tác dụng cơ bản của
nó chính là chứa nhóm chủng tử (hạt giống). Hạt giống vô lậu
trong a-lại-da là tác nhân chính để thành Phật gọi là Phật tính
(còn gọi là chân như). Còn hạt giống hữu lậu là tác nhân để
thành chúng sinh (gọi là phiền não chướng – hay vô minh). Cả hai
loại chủng tử có từ vô thủy.
Bản thể của a-lại-da và chủng tử vô lậu thanh tịnh và thuần
thiện là vô chung vì theo khế kinh đã truyền dạy “nhất thiết
pháp đẳng y” có nghĩa là Thức a-lại-da chứa nhóm chủng tử các
pháp nên không thể chung tận và nếu ngược lại thì tất cả các
pháp mất hẳn vì không có chỗ nương tựa thành ra đoạn diệt. Đạo
Phật phủ định thuyết đoạn diệt. Trái lại, hạt giống hữu lậu là
“nghiệp nhân” để thành chúng sinh gọi là “phiền não nghiệp
chướng” hay là vô minh.
Khế kinh nói “Vô thỉ thời lai giới” hàm nghĩa là cái nguyên nhân
sinh ra chúng sinh đã có sẵn trong a-lại-da thức từ bao giờ và
nói tiếp “do thử hữu chư thú” xác định rằng chính các hạt giống
hữu lậu tạp nhiễm sinh khởi hiện hành mà có chúng sinh trôi lăn
trong sáu đường: Thiên, Nhân, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh.
Xét từ góc độ chúng sinh, theo định nghĩa của đạo Phật, như một
cơ thể sống có thể cử động bằng chính năng lực của nó và như thế
phôi mầm (germ) có thể cử động cũng là một chúng sinh. Ngoài
chúng sinh hữu hình sống trong dục giới, còn có các chúng sinh
trong cõi giới vi tế. Họ vẫn được sinh ra, hiện hữu và mất đi
nhưng không mang thân vật chất. Trong tư tưởng Đông phương, với
thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu đã công nhận một cách
rộng rãi: dục giới mà chúng ta đang thấy rõ và còn có cõi sắc
giới và vô sắc giới mà ta không thấy bằng thị giác thông thường.
Như lại tạng tức là Pháp thân ẩn tàng trong tất cả. Tuy chúng
sanh bị vô minh trói buộc, nhưng Như lại tạng vốn dĩ thanh tịnh,
tràn đầy công đức. Chúng sinh đều có Như lại tạng thanh tịnh,
đều có Phật tính và từ quan điểm này chúng sinh hoàn toàn bình
đẳng.
Chủng tử chỉ cho cái khả năng có thể sinh ra tất cả các hiện
tượng trong a-lại-da thức. Chủng tử cộng tưởng sinh ra các thể
dạng cộng đồng như các hạt vi trần cơ cấu nên sông núi, đất đai,
gió, lửa… còn chủng tử tự tướng thì sinh ra các đặc trưng thuộc
về cá thể, do vậy chánh báo và y báo là hai mà không phải hai.
Chánh báo còn gọi là “biệt báo” chỉ cho quả báo tự thân chúng
sinh tạo nghiệp tiếp nhận. Còn y báo còn gọi là “cộng báo” chỉ
cái quả báo thọ nhận của chủ thể về môi trường, hoàn cảnh sống,
hành vi cá nhân đối với bản thân và với môi trường của mọi
người.
Xuất phát từ luận điểm Y báo và Chánh báo không hai thì tất cả
mọi hiện tượng dầu do Chân như duyên khởi, do Duy thức biến hiện
nên Phật giáo quan niệm con người và môi trường sống nương tựa
và chuyển hóa lẫn nhau và hơn thế nữa, Kinh Thủ Lăng Nghiêm xếp
đất đai, cỏ cây, sỏi đá, vàng bạc, sông núi thành loại chúng
sinh vô tưởng (loài không có tư tưởng) “bởi vì chúng sinh trong
thế giới ngu độn luân hồi, ngu si điên đảo hợp thành 84.000 vọng
tưởng khô cằn cho nên có loài vô tưởng luân chuyển trong quốc
độ, tinh thần hóa thành cây, vàng, gạch đá… đủ loại tràn đầy
trong đó.
Điều suy nghĩ?
Theo thuyết lượng tử thì trong chân không lượng tử, chỉ gồm các
khả năng tiềm lực, khuynh hướng không ngừng gia tăng, biến
chuyển, đoạn diệt, theo quy luật toán học thuộc phạm trù ứng
dụng của phương trình sóng xác suất Schrodinger, tựa hồ các
chủng tử được huân tập, huân sinh trong A-lại-da, là kho chứa
chủng tử, là thể, là tướng, là dụng của tâm về nhiễm (vọng, hiện
tượng) và tịnh (chân, bản thể). A-lại-da được xem như sinh khởi
từ Như lai tạng, chính là Chân như còn bị phiền não che phủ.
Theo Heisenberg, khi quan sát để đo lường chính là thiết lập mối
tương quan giữa thế giới lượng tử và thế giới thường nghiệm nhằm
hiện hành một khả năng lượng tử. Do đó những hiện tượng quan sát
được trong thế giới thường nghiệm xuất sinh từ thế giới lượng tử
mà bản chất nguyên thủy của nó là Không. Do vậy cơ sở cơ bản của
thế giới thường nghiệm, không phải là cái “không trống rỗng” mà
là cái “không và bất không”. Trong Kinh Lăng Già, hòa thượng
Thích Thanh Từ dịch có ghi bài kệ, ta thử suy ngẫm:
Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sanh
Ở Tây phương, nhà hiền triết vĩ đại Platon là một trong những
người suy nghĩ sâu sắc về nghịch lý căn bản về sự tồn tại mang
tính lưỡng phân giữa cái nhất thời và cái không nhất thời, ông
quan niệm rằng có hai cấp độ của thực tại: cái thế giới nhất
thời có thể cảm nhận bằng giác quan là một thế giới biến đổi phù
du và huyển ảo chỉ là sự phản ảnh mờ nhạt, méo mó của một thế
giới đích thực là thế giới ý niệm vĩnh hằng bất di bất dịch. Để
minh họa quan điểm của mình ông đưa ra một ẩn dụ về những người
bị giam trong hang đá quay mặt nhìn lên vách thấy những cái bóng
của các vật ở bên ngoài được in lên vách của hang và tưởng rằng
đó là cái thực tại tồn tại ngoài hang.
Theo Platon, thế giới cảm nhận qua giác quan là thế giới thể
hiện không hoàn hảo của thế giới những ý niệm. Phải chăng cái
thế giới ý niệm mà Platon nói đến chính là biển tàng thức và cái
thế giới không đích thực chính là lớp lớp các sóng thức của gió
cảnh giới trong bài kệ.
Phật giáo, theo cái triết gia lỗi lạc là tôn giáo thích hợp nhất
đối với xã hội khoa học hiện đại dù rằng khoa học không phải là
nội dung trong các lời giảng của Đức Phật, A.Einstein đã có lần
phát biểu một cách tiên tri rằng “Nếu có một tôn giáo nào đương
đầu với nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó sẽ là Phật giáo. Họ
không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với khám
phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm
của mình để xu hướng theo khoa học vì Phật giáo bao trùm cả khoa
học cũng như vượt qua khoa học.
Đức Phật sau khi giác ngộ, đã tuyên bố rằng tất cả các pháp đều
vô thường, vô ngã (nonself, anatta) và không có thực thể
(egoless); hàm ý cho rằng tất cả hiện hữu đều do các nhân duyên
tạo nên và tương duyên với nhau có tính chất vô thường, biến
hoại và rổng không. Vạn pháp không có tự tính, biến dịch không
ngừng, đủ duyên thì sinh khởi, hết duyên thì đoạn diệt. Tính
chất chuyển hóa vô thường của vạn pháp là tự thân của luân hồi .
Chừng nào mà thực chứng bằng con đường nội quán thì lúc đó ta
mới nhổ gốc rễ của khổ đau, của vô minh vi tế nhất ra khỏi tâm
trí để được giải thoát.
Tư tưởng của Kinh Hoa Nghiêm mô tả vạn pháp do tâm sinh ra. Tâm
là thực thể của vạn pháp, tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai
biệt, hình hình sắc sắc trùng trùng duyên khởi: cái này có thì
cái kia có. Tâm bao trùm khắp pháp giới, thể tính của tâm thu
nhiếp tất cả. Tất cả là một, một trong tất cả.
*
* *
Gần 25 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, nhiều thế hệ các nhà
khoa học mãi mê dấn thân trên đường khám phá thế giới vĩ mô và
vi mô của vật chất đã góp phần làm tăng trưởng kinh tế và chuyển
biến xã hội loài người. Tuy nhiên vũ trụ, tự nhiên vẫn luôn luôn
có những bí ẩn được giấu kín mà tri thức thường nghiệm của con
người không vươn tới được. Khoa học vẫn là con đường dài hun
hút. Những điều mà con người rất khó vượt qua chính là con người
với bộ não của họ và vì luôn luôn có sự tác động qua lại giữa
thế giới bên trong và thế giới bên ngoài nên thực tại không
tránh khỏi bị thế giới bên trong của các nhà khoa học làm cho
biến đổi và chúng ta chỉ còn thấy cái mà chúng ta muốn thấy mà
thôi. Thực tại phụ thuộc và gắn kết vào hành trang khái niệm của
nhà khoa học. Điều này có thể thấy được qua định lý về tính
không đầy đủ của nhà Toán học Kurt Godel hay còn gọi là định lý
bất toàn dẫn đến một hệ quả là lý trí có những giới hạn và nó
không thể đạt tới chân lý tuyệt đối được. Ông giải thích: Người
ta không chứng minh được một hệ thống là nhất quán và phi mâu
thuẩn nếu chỉ dựa trên các tiên đề chứa trong hệ thống này. Để
làm được điều này, cần phải ra ngoài hệ thống và áp đặt một hoặc
nhiều tiên đề phụ ở bên ngoài hệ thống đó. Nói cách khác chân lý
toàn bộ không được khoanh lại trong một hệ thống hữu hạn, toàn
bộ hệ thống hữu hạn này là không đầy đủ.
Định lý Godel đã gây chấn động dữ dội không những trong lĩnh vực
Toán học mà còn dư âm đến tận ngày nay trong các lĩnh vực khoa
học triết học, v.v… Trên quan điểm Phật học mà nhìn nhận thì cả
chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức chỉ là một hệ thống,
không thể hai.
Theo Đại thừa khởi tín luận thì Như lai tạng, Thể Đại thừa tức
Tâm của chúng sinh bao trùm hết thảy các pháp hữu lậu và vô lậu
thế gian và xuất thế gian. Tâm có hai tướng: Chân như và Sinh
diệt (vọng). Chân và Vọng hòa hợp không phải một, chẳng phải hai
gọi là A-lại-da, thức này thâu tóm các pháp và xuất sinh tất cả
các pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh Đại Niết bàn: Dịch giả Hòa thượng Thích Trí Tịnh, NXB
Tôn giáo 2010.
2. Nhận thức và không tánh: Hồng Dương Nguyễn Văn Hai, NXB Tôn
giáo 2001.
3. Thành Duy Thức luận: Tuệ sỹ dịch NXB Phương Đông 2010
4. Max – Planck, NXB Trí Thức 2009.
5. Stephen – Hawking, NXB Tia Sáng 2007.
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|