Giã từ đức trị
Đôi
lời sau 17 năm
: Nhân dịp
đang có nhiều bài viết rất thâm thúy về “nạn” Đức trị,
tôi xin nhắc lại một đoạn liên quan mà tôi đã đề cập trong tiểu
luận
Chia tay Ý thức hệ , để cùng nhau góp
sức xây dựng một nhận thức rất căn bản cho công cuộc Đổi mới hôm
nay. Bài viết theo thể Hỏi-Đáp cho ngắn gọn. Xin lưu ý
cho rằng năm 1995 tôi chưa có Internet, châu Âu chưa có Nghị
quyết 1481, dư luận chưa biết Công hàm của Thủ tướng Phạm văn
Đồng, chưa biết rõ dư hại của Ý thức hệ đối với quan hệ Việt
Trung như hiện nay…và tôi viết trong tình huống lúc ấy rất đơn
thương độc mã. Hôm nay nếu viết lại chắc tôi phải sửa một vài
chữ, một vài chữ thôi, mong người đọc hiểu và lượng thứ cho mấy
chữ chưa được như ý đó. -HSP-
Hỏi: Vì sao trong bài "Đôi điều suy nghĩ..." (ĐĐSN...) anh
luôn đối chiếu Mác-Lê với Khổng-Mạnh?
Đáp: Theo nhận thức của tôi thì tư duy chính trị Mác
xít chỉ là tư duy Đức trị phong kiến mang màu sắc Công
nghiệp. Trước đây, bản chất Phong kiến của hệ thống chính trị
Mác-Lê bị che mờ đi là do mấy nguyên nhân sau:
-
Về nội dung : Người ta thấy lý thuyết Mác-Lê có những nhân tố
mà lý thuyết Đức trị phong kiến không có như "Giai cấp công
nhân và Đảng tiền phong", "tính Quốc tế", tính "tập thể",
"tính Công nghiệp", "tính Duy vật biện chứng"... Hơn thế, lý
thuyết Mác-Lê luôn nói về ý thức hệ phong kiến như ý thức hệ
phản động cần phải tiêu diệt.
-
Về vai trò lịch sử: Có sự ngộ nhận rằng "chủ nghĩa Đế quốc" là
giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Tư bản sắp
cáo chung thì phải có cái gì thay thế nó chứ! Trong cơn khủng
hoảng của thế giới ở những thế kỷ đầu của Văn minh Công nghiệp
thì sự phê phán đối với xã hội Tư bản đương thời và khát vọng
về một thế giới khác đã trở nên mảnh đất tuyệt vời để nảy mầm
hạt giống Cộng sản, người ta ngưỡng vọng nó như một cái gì
hoàn toàn mới mẻ... Sau những thắng lợi huy hoàng ở giai đoạn
đầu của trào lưu Cộng sản: chiến thắng phát xít, sự xuất hiện
một siêu cường Cộng sản với nền công nghiệp nặng, vũ khí hạt
nhân, thám hiểm vũ trụ... thì ngưỡng vọng ấy càng trở thành
niềm tin thực sự. Thực tế ấy khiến cho cả những người dù có
nhìn thấy những điều không ổn trong tư duy Mácxít cũng không
dám nghĩ rằng tư tưởng Mácxít chỉ là bản sao mang màu sắc Công
nghiệp của tư tưởng phong kiến lỗi thời.
Nhưng nếu xem xét vấn đề từ sự tiến hóa Đức trị sang Pháp trị sẽ
thấy bản chất này hiện ra rất rõ.
Hỏi:
Đức trị và Pháp trị khác nhau thế nào? Chuyên chính Vô sản là
Đức trị hay Pháp trị?
Đáp: So sánh đầy đủ ắt phải viết nhiều pho sách,
vì trong lịch sử từ Đông sang Tây đã có nhiều biến thể phức tạp.
Ở đây chỉ có thể rút ngắn chuyện nghìn năm vào một vài trang,
với một vài điều cốt lõi.
Trên đường tìm kiếm những phương pháp để tổ chức, duy trì và
điều hành xã hội, các nhà tư tưởng phương Tây cũng như phương
Đông rút cuộc đều phát hiện các nhu cầu Đức trị, Pháp
trị và nhu cầu 'phối hợp' cả hai yếu tố đó. Ba
xu hướng này, với vô số biến thể của chúng, đã tồn tại và đấu
tranh với nhau từ trước Công nguyên cho tới hôm nay, và cùng với
chúng là những cách nhìn khác nhau về bản chất cao quý hoặc tàn
bạo của Chính trị và của Nhà nước, cùng với chúng là những cẩm
nang khác nhau để dạy những thủ đoạn chính trị cho nội bộ giới
cầm quyền mỗi nước mỗi thời. Những chuyện "bếp núc" tàn bạo và
dối trá của Chính trị, ta tạm gác sang một bên.
Về triết học mà nói, bao quát hết thảy chỉ có hai phạm trù tư
tưởng về tổ chức xã hội, xây dựng trên hai nền nhân văn khác
nhau : chủ nghĩa Nhân văn cổ điển và chủ nghĩa Nhân văn mới.
Đạo trị nước của Nhân văn cổ điển là Đức trị, đạo trị nước của
Nhân văn mới là Pháp trị. Đức trị cực thịnh ở chế độ Phong
kiến, ứng với Văn minh Nông nghiệp. Quản Trọng, Hàn Phi, Vệ
Ưởng, Machiavel... tuy đã đụng chạm đến "Pháp trị" nhưng về toàn
cục thì vẫn nằm trong quỹ đạo Đức trị.
Đức trị hay Pháp trị không phải đơn giản là phẩm chất cá nhân
hay phương pháp cá nhân của người cầm quyền hay của một triều
đại như nhiều người lầm tưởng. Lại càng không nên tưởng lầm
rằng áp dụng pháp luật cho cứng dắn là đề cao Pháp trị ! Những
chế độ phong kiến hay “Ý thức hệ trị” không thể nào có một nền
Pháp trị theo đúng nghĩa.
Pháp trị chỉ có thể ra đời cùng với Văn minh Công nghiệp, mở đầu
bằng "Dân chủ Tư sản" và phát triển thành nền Dân chủ Đa nguyên
ngày nay. Pháp trị ngày nay cũng có yếu tố Đạo đức, song về tư
duy nó khác với Đức trị về "chất", không thể lẫn lộn với Đức trị
được nữa.
Chúng ta hãy xem nền chính trị "Chuyên chính Vô sản" nằm ở chỗ
nào trong bậc thang tiến hóa ấy?
Trước hết phải hiểu cơ sở triết học của Nhân văn cổ điển và Nhân
văn mới. Cả hai nền Nhân văn đều muốn hướng xã hội và con người
đến Chân Thiện Mỹ, cho con người được hạnh phúc trong sự "hòa"
với nhau và "thuận" với quy luật. Song mỗi bên nhận thức về Con
người một khác và từ đó đưa ra những tiên đề khác hẳn.
Tư duy Nhân văn cổ điển dựa trên tiên đề: Con người ta bản chất
là thiện và giống nhau, nhưng trong quá trình sống bị cái ác làm
cho "tha hóa" đi và phân ly ra
(Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn).
Vậy phải chống cái Ác và chống sự phân ly, chống sự "tha hóa",
thu về một mối! Tư duy chiến lược của Đức trị là "nhất thể
hóa" xã hội, mà đỉnh cao của nó thể hiện ở tính "tập thể",
"quốc tế", "đại đồng"... của thuyết Mác-Lênin.
(Tuân tử có nói đến bản tính ác của con người, đó thật là tiếng
chuông cảnh tỉnh cho phái Đức trị, song cái Ác mà Tuân tử nói
tới chỉ là cái bản tính thứ sinh thôi, bởi "nếu biết tích
thiện thì kẻ tầm thường cũng có thể thành kẻ sĩ rồi thành thánh
nhân" thì như thế cái Ác sao có thể coi là bản tính được. Về
toàn cục Tuân tử vẫn là đại biểu của Đức trị.)
Tư duy "nhất thể hóa" ấy đương nhiên dẫn đến chỗ phải tìm
kiếm và khẳng định xem cái khuôn mẫu "thiện" duy nhất ấy là cái
gì. Phong kiến khi xưa thì khẳng định đó là "đạo trời", (hoặc
biến thái thành "đạo người", "đạo vua"...) mà Thiên tử được ủy
nhiệm, Mác Lênin thì khẳng định đó là "hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân" tiêu biểu cho Thời đại, mà Đảng Cộng sản là đội
tiên phong được Lịch sử giao phó. Những khẳng định ấy đều
mang tính tiên đề nghĩa là chỉ được giải thích chứ không được
chứng minh, hoặc đã chứng minh một lần rồi là không bao giờ được
"xét lại" nữa. Bởi tất cả những "chân lý" ấy đều là do những đại
biểu của họ viết ra chứ có ai biết mặt mũi ông Trời và ông Lịch
sử ra sao đâu. Điều này giải thích tại sao tất cả các chính thể
Đức trị đều không thoát khỏi màu sắc Tôn giáo.
Về biện pháp, lúc đầu nặng về khuyên răn, giáo dục (cẩu
bất giáo, tính nãi thiên : nếu không giáo dục thì cái tính
sẽ sai lệch đi), nhưng biện pháp "thiện" này bất lực
trước thực tiễn, và các nhà Đức trị đã buộc phải cầu viện đến
cái "ác" trong biện pháp... Machiavel khuyên quân vương phải
biết lừa đảo và tàn nhẫn, (vừa như con vật vừa như thằng người).
Thế mà theo Creel thì Machiavel so với Hàn Phi vẫn chưa thấm vào
đâu ( ); Hàn Phi, Thân Bất Hại ... đề cao cái "Thuật"
trong phép trị nước. Đến Mác-Lê thì sự quyết liệt này lại lên
cao thêm một cấp độ nữa, không ngần ngại nói thẳng ra rằng người
Cộng sản mà không dám đẩy cái đấu tranh giai cấp tới cấp độ
Chuyên chính Vô sản thì cũng chưa xứng với tầm Cộng sản..!
Nếu tính Ác trong chính trị Machiavel còn được ý thức là cái Ác
mà quân vương buộc phải làm, cái Ác trong chính trị Hàn Phi còn
manh nha cho Pháp trị, thì đến Mác-Lê cái Chuyên chính hoàn tòan
không được nhận thức như cái ác, mà là cái thiện gấp triệu lần
những cái thiện khác, không còn là biện pháp bất đắc dĩ của quân
vương mà biến thành cái chân lý mà quần chúng cần hướng tới,
không phải mở đường cho Pháp trị mà lại trèo lên trên Pháp trị,
ức chế Pháp trị. Đến Mác-Lê thì mâu thuẫn thiện-ác nội tại
của Đức trị đã lên tột đỉnh.
Hệ tư duy Đức trị khởi thủy là "toàn thiện" : con người thiện,
phương pháp thiện, đi đến cái đích cực thiện. Nhưng lối suy nghĩ
duy tâm ấy va phải thực tế nên buộc phải bổ sung bằng cách sử
dụng cái Ác với tư cách phương pháp, có nghĩa là tự thâu nhận
vào trong lòng mình cái Ác, và thế là phải chấp nhận cái đối lập
với mình, vì bản tính của thế giới khách quan vốn là Đa nguyên.
Những người Mác xít luôn nói đến tính muôn màu muôn vẻ của tự
nhiên mà không nhận ra cái lẽ Đa nguyên rất tự nhiên của trời
đất, bởi dẫu đã cố gắng duy vật và biện chứng (đồng thời vẫn rất
duy tâm và siêu hình) nó vẫn quanh quẩn trong hệ ý thức Nhân văn
cổ điển, luôn "nhất thể hóa" xã hội, cứ muốn thu xã hội về một
mối, tỏa ra từ một nguồn.
Nếu tính Ác trong chính trị Machiavel còn được ý thức là
cái Ác mà quân vương buộc phải làm, cái Ác trong chính
trị Hàn Phi còn manh nha cho Pháp trị,
thì đến Mác-Lê cái Chuyên chính hoàn tòan không được
nhận thức như cái ác, mà là cái thiện gấp triệu lần
những cái thiện khác, không còn là biện pháp bất đắc dĩ
của quân vương mà biến thành cái chân lý mà quần chúng
cần hướng tới, không phải mở đường cho Pháp trị mà lại
trèo lên trên Pháp trị, ức chế Pháp trị. |
|
Hệ Nhân văn cổ điển tuy có tự bổ sung như vậy vẫn không thoát
khỏi bế tắc. Lúc đầu ta tự an ủi rằng cái Ác chỉ là phương tiện
để đi tới cái Thiện nên ráng nhắm mắt mà chịu cho qua giai đoạn
"quá độ". Nhưng việc tách mục đích và phương tiện một cách rành
mạch như thế không "biện chứng" chút nào. Mục đích lồng trong
phương tiện, và phương tiện cũng lồng trong mục đích, mục đích
của công đoạn trước có khi là phương tiện cho công đoạn sau (Cái
lát cắt chia đôi mục đích với phương tiện chỉ là lát cắt giả tạo
!), mục đích và phương tiện luôn đổi chỗ cho nhau.
Cái Ác cũng biết tự vệ, nửa đường nó dừng lại để tự sinh sôi và
không tiếp tục con đường 'hành Thiện' nữa. Thiện sử
dụng Ác làm phương tiện, thì Ác cũng biết dùng Thiện làm phương
tiện! Giai đoạn "quá độ" kéo dài vô thời hạn. Thiện Ác dồn
lại một cục, Đạo đức và Phi đạo đức cứ xoắn vào nhau, lẫn lộn
không biết đâu mà phân biệt. Quá rành mạch cuối cùng lại không
rành mạch. (Khi ấy, cái lát cắt chia đôi Thiện và Ác cũng không
giúp ta phân định mọi điều được nữa! Những người chỉ một mực đưa
cái Tâm lên đầu để khuyến Thiện thì nhất định sẽ trở thành người
'ba phải', không thể khác được!).
Chưa kịp đối phó với bệnh giáo điều coi "phương tiện Mác-Lê" là
mục đích để gây cái hại chung, đã phải quay sang đối phó với tật
thực dụng, dùng Mác-Lê làm phương tiện để tạo cái lợi riêng.
Cái bế tắc ấy của thể chế Xã hội chủ nghĩa không mới mẻ
gì, chỉ là cái bế tắc nghìn đời của lý tưởng Đức trị, mà
đáng lẽ đã được lịch sử cho phép cáo chung cùng với sự cáo chung
của chế độ Phong kiến và Văn minh Nông nghiệp rồi.
Các nền Đức trị bế tắc vì coi cái gốc của Thiện là ở bên trên, ở
Vua, ở Đảng tiền phong..., nên khi chính cái gốc ấy tha hóa
thì không tự "hoàn Thiện" được. Pháp trị khơi thông được
bế tắc này là nhờ coi nguồn Thiện vô tận là từ biển cả Nhân dân,
nên chủ trương tạo điều kiện gây sức mạnh từ dưới lên để khống
chế sự tha hóa của quyền lực thống trị và làm nó lành mạnh trở
lại.
Sự ra đời của sản xuất Công nghiệp và Kinh tế thị trường đã
chiếu một tia sáng hoàn toàn mới vào tư duy của con người trong
việc tổ chức và điều hành xã hội. Người ta nhận ra cái nghịch lý
rằng muốn cho xã hội có đạo đức hơn thì phải giả thiết là nó gồm
những người chưa có đạo đức (đầy đủ), và không thể gom họ về một
mối tốt đẹp đã định sẵn được. Nguy cơ vô đạo đức nhất luôn phát
xuất từ kẻ đi thi hành đạo đức, bởi quy luật của quyền lực là
bành trướng vô hạn độ, nếu không gặp phản lực. Những người đạo
đức thực sự bây giờ giác ngộ rằng phải tạm gác "phương án tối
đa" để đảm bảo cho "phương án tối thiểu": Chưa cần
anh đạo đức, xin anh hãy sòng phẳng với chúng tôi cái đã ! Pháp
trị xây dựng trên sự nghi ngờ nên phải đặt ra luật để lường
trước.
Nghĩa là xã hội loài người phải đổi "luật chơi".
-
Thay vì sử dụng sức mạnh xã hội theo chiều từ trên xuống để
tác động vào đám dân đen, bây giờ phải gây sức mạnh từ dưới
lên để khống chế thế lực cầm quyền, thông qua quyền bầu cử và
các quyền công dân khác , mà quyền cơ bản nhất là quyền
tư hữu.
-
Thay vì tập trung quyền lực vào một nguồn (nhất nguyên), bây
giờ phải "tam quyền phân lập" và chấp nhận nhiều tổ chức chính
trị độc lập với nhau trong xã hội (đa nguyên). Thay quyền lực
định sẵn, kéo dài vô hạn, bằng quyền lực dân cử, định kỳ hữu
hạn.
-
Thay vì nhân danh một lý tưởng cao xa do áp đặt đơn phương,
người cầm quyền chỉ được nhân danh cái khế ước rất cụ thể do
mọi người trong xã hội cùng nhau thỏa thuận, gọi là luật pháp.
Thay vì bị quy định trong tất cả mọi việc làm, người dân bây
giờ chỉ bị quy định về những
điều không được làm, do đó phạm vi tự do cá nhân được nới rộng
một cách căn bản.
-
Thay vì lấy chuẩn "tĩnh" là vua hoặc một tập đoàn gọi là tiền
phong, phải lấy chuẩn "động" là những lực lượng tiên tiến luôn
xuất hiện từ trong xã hội.
-
Kết quả là một xã hội thần dân ổn định giả tạo dưới ách
chuyên chế được thay bằng một xã hội công dân linh hoạt
và hơn hẳn về tính Dân chủ.
Tư duy khoa học và tiến bộ này được khơi nguồn từ John Locke
(1632-1704), Montesquieu (1689-1755)..., phát triển thành nền
"Dân chủ tư sản" thế kỷ 18-19, rồi thành nền Dân chủ đa nguyên
Pháp trị ngày nay.
Đức trị đã có vô số biến thể thì Pháp trị cũng không thể quy về
một hình mẫu cứng nhắc nào. Một thể chế xã hội tốt, nhất định
phải phù hợp với những đặc điểm Dân tộc và Lịch sử của mình.
Nhưng không thể vin vào đó để duy trì một chế độ Đức trị Mácxít
ảo tưởng, mà thực chất là nền Chuyên chính của thiểu số nhân
danh Vô sản, thiết lập trên đầu Nhân dân, trong khi Nhân loại đã
chuyển sang kỷ nguyên Pháp trị
!
Trên cơ sở những điều đã trình bày trên tôi thấy có thể kết luận
rằng :
Bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư tưởng
Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thủy
(hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn
minh Công nghiệp.
Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là
cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt
công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua
trước đây nhiều thế kỷ.
Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính xúc tích huyền
bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là những
dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.
Hỏi: Quan hệ giữa Đức trị và Đạo đức ?
Đáp: Đạo đức là một giá trị tinh thần cao quý, nhưng cũng
biến đổi theo thời đại. Khi thời đại thay đổi thì Đạo đức là
yếu tố tương đối ổn định nên biến đổi chậm hơn so với những biến
đổi của kỹ thuật, kinh tế, chính trị... Vì thế tác dụng của
Đạo đức mang tính hai mặt. Mặt tích cực là duy trì tính ổn định
của xã hội, nhất là của dân tộc, chống lại những điều "nhí nhố"
nhất thời. Mặt tiêu cực là tính ỳ cao, ở những giao thời của
lịch sử thì Đạo đức đương thời luôn thuộc về hệ thống cũ. Lực
lượng mới của xã hội muốn đi tới bao giờ cũng phải làm cái động
tác phá vỡ Đạo đức cũ như con gà con phá vỏ trứng để chui
ra. Vì thế bản chất của tiến hóa và sinh sôi là "phi đạo đức" !
Đạo đức còn có một thuộc tính nữa là rất dễ bị bắt chước để
làm giả.
Đạo đức giả còn "mê ly" hơn cả Đạo đức thật. Nhà chính trị lão
luyện nào cũng phải là một tay "chơi Đạo đức". Vì thế luật
của Pháp trị lành mạnh là "Cấm trị nước bằng Đạo đức !"
Một thuộc tính khác của Đạo đức là xu hướng tự hoại,
nghĩa là trong môi trường mà Đạo đức cầm trịch thì Đạo đức sẽ
tự mất đi.
Đạo đức là giá trị cao quý mà mỗi con người cần có để đối xử
với nhau và giáo dục nhau, muôn đời không ai dám nói bỏ Đạo đức,
nhưng Đức trị thì loài người thông minh ngày nay không sài nữa
rồi. Phê phán Đức trị tuyệt đối không có nghĩa coi nhẹ Đạo
đức, trái lại chính là vì để có Đạo đức thật. Chừng nào chưa
biết ghê sợ Đức trị thì dân tộc ấy còn ở trong cơn mê man để làm
mồi ngon cho những mưu toan.
Trừ khi cả dân tộc ấy (cả tầng lớp thống trị và bị trị) đều là
những tay "chơi Đạo đức" thì không kể ! Nhưng chẳng lẽ điều này
lại có thể xảy ra, và nếu tất cả đều ranh ma như thế thì tôi còn
viết những lời ngốc nghếch này ra đây làm gì ? Không, không thể
như thế, Nhân dân, ít ra là nhân dân lao động và một thiểu
số trí thức, bao giờ cũng lương thiện !
Hỏi: Thực tiễn nào ở Việt nam minh chứng cho quan điểm của
anh về bản chất Phong kiến của nền Đức trị Mác xít?
Đáp: Có thể nói toàn bộ thực tiễn Việt nam và thực tiễn
trong "phe" Xã hội chủ nghĩa minh chứng cho quan điểm của tôi.
Xin kể mấy ví dụ điển hình:
* Theo trí tưởng tượng của Mác thì ý thức hệ Phong kiến là rất
xưa cũ, phải trải qua ý thức hệ Tư sản rồi mới tiến lên ý thức
hệ Vô sản, mà mỗi "bước" chuyển biến ấy là cả một kỷ nguyên mới,
trong lịch sử phải đo bằng ngàn năm chứ đâu phải chuyện chơi ! Ý
thức lại là cái thay đổi rất chậm so với kinh tế, vậy mà chẳng
hiểu sao những nước Phong kiến lạc hậu như Trung hoa, Việt nam,
Lào, Cao miên... lại tiếp nhận thẳng ngay ý thức hệ Vô sản một
cách nhạy bén đến thế, mà tiếp nhận rồi thì bám chặt lấy, tẩy
cũng không đi. Trong khi đó những nước đã ở trình độ cao của ý
thức hệ Tư sản thì lại tỏ ra ngu dốt không tiếp thu nổi ý thức
hệ tiên tiến của Mác?
Có gì đâu mà lạ ! Cùng một chất Phong kiến như nhau thì thâm
nhập vào nhau đâu khó khăn gì !
Lúc đầu người ta cứ tưởng Việt nam chưa có giai cấp công nhân
bao nhiêu, toàn nông dân thì tiếp thu ý thức hệ Vô sản chắc là
khó lắm, ai ngờ bây giờ mới biết cái xứ sở Nông dân Phong
kiến lạc hậu này mới chính là mảnh đất lý tưởng của Mác-Lê!
Cái chất Phong kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa
bởi một nền Dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng rất "ngon lành" trong
hệ chuyên chính, "dân chủ tập trung" !
Cái chất Đức trị sặc mùi tam Cương ngũ Thường chưa bị thanh toán
đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể chế "Ý thức hệ trị", một
thứ Đức trị mới toàn những Nghị quyết, những "Cương" lĩnh,
"Thường" vụ...
Nếu nhìn thấy 55 tập Lênin in tuyệt đẹp chắc cụ Khổng cụ Mạnh
phải ghen tỵ không được sống tới bây giờ, để Tứ thư, Ngũ kinh
cũng được làm quen với giấy "cút-sê"!
Nói : chủ nghĩa Xã hội chính là sự kéo dài của chế độ phong
kiến là chí lý lắm vậy.
Mối tương hợp ấy Mác cũng đã mường tượng ra, nhưng ông lại giải
thích nó một cách khác. Theo ông, những "Công xã nông thôn",
những "Cộng đồng làng xóm chính là chỗ dựa của nền Chuyên chế
phương Đông" là những thứ nhất định sẽ bị thanh toán khi tiến
lên chủ nghĩa Tư bản, nhưng lại trở thành cái "khởi điểm trực
tiếp để đi tới chủ nghĩa Xã hội" (!) (?).
Đấy chẳng là bằng chứng về sự tương hợp giữa hai thứ Chuyên chế
là gì ?
Bây giờ thử nhìn vào đội ngũ những người đã du nhập chủ nghĩa
Mác-Lê vào Việt nam.
Trước hết về chủ tịch Hồ chí Minh. Theo lời cụ Hồ, cũng như theo
lời những người nghiên cứu về cụ Hồ đều thống nhất rằng cụ Hồ
gốc là một nhà Nho. Nho giáo ở cụ Hồ là Khổng giáo. Tư tưởng
chính trị của Khổng giáo là Đức trị, thậm chí chống Pháp trị.
Về chất Nho của cụ Hồ, ta sẽ không nói tới cái Nho trong cách
biểu đạt tư tưởng, trong đó rất nhiều câu nhiều ý là từ sách vở
Khổng giáo, chỉ bàn về nội dung tư tưởng bên trong cách biểu đạt
đó.
- Cụ Hồ thấm nhuần đạo Khổng ở tính Đạo đức của nó. ("Đạo
Khổng là một môn giáo dục về đạo đức và phép xử thế", lời cụ
Hồ nói với nhà thơ Ôxíp Manđenxtam). Về biện pháp để có đạo đức
thì xoay quanh mấy chữ "học", "dạy", "tu dưỡng
bản thân", "phê bình và tự phê bình" ... Cụ nói :
"Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự
cải tạo bản thân.". "Muốn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội thì trước
hết phải có những con người Xã hội chủ nghĩa !". Tức là cụ Hồ đã
đi đúng vào cái vết xe mà Đức trị đã đi suốt mấy nghìn năm:
chính tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ ! Rồi cũng bằng
chính tấm lòng khát khao có một thể chế Đức trị cho dân tộc ấy,
cụ Hồ đã bắt gặp lý thuyết Chuyên chính Vô sản và "mê" ngay từ
buổi gặp đầu. Tôi dùng chữ "cộng hưởng" là vì vậy.
Những cái hay cái đẹp như các cụ nói nào có ai phản đối. Vấn đề
là làm thế nào để thực hiện ? Khi xã hội đã tiến vào sản xuất
Công nghiệp và kinh tế Thị trường thì việc trị nước bằng cách
lấy Cá nhân làm gốc để tỏa ra làm tốt xã hội, lấy Giáo dục làm
biện pháp trung tâm chắc hẳn đã bị đẩy vào quá khứ cùng với nền
Đức trị phong kiến, nếu trên đời đã không sinh ra kẻ kế thừa nó,
là nền Chuyên chính Vô sản.
Nếu cụ Hồ chỉ là nhà giáo dục, nhà thơ... thì ta chẳng nói,
nhưng cụ Hồ đã nhận mình là "nhà Cách mạng chuyên nghiệp"
tức nhà chính trị, tức người cầm quyền thì xã hội chờ đợi ở Cụ
một Cơ chế tổ chức xã hội, một bộ luật, và một hệ thống quyền
lực sao cho trong đó cái đạo đức cứ được phát sinh và nuôi
dưỡng, cái phi đạo đức cứ bị lọc ra và trừng trị ; giáo dục rèn
luyện chỉ còn là biện pháp hỗ trợ. Thế mới là Đạo đức thật sự,
và đó chính là cái Đạo đức của Pháp trị. Nhưng thực tế , cơ
chế tổ chức và hoạt động của bộ máy Đức trị Vô sản đã gây những
hiệu quả ngược lại với Đạo đức.
Có gì khó hiểu đâu. Hãy xem vai trò người tối cao của bộ máy
hành pháp : Thủ tướng!
Sinh thời của Hồ chủ tịch thì thủ tướng là cụ Phạm văn Đồng.
Người Việt nam gọi cụ Phạm văn Đồng là vị thủ tướng "của
Đạo đức"(!?), cả một đời cứ nói Đạo đức, đặc biệt là đạo
đức Hồ chí Minh. Cụ Đồng nói nhiều đến đến ĐỨC và TÀI,
đến HỒNG và CHUYÊN.
Nhưng ĐỨC và TÀI thì cụ Hồ đã giảng bằng lời của sách Đại học
(một trong Tứ thư) : "Đức giả bản giã, Tài giả mạt giã !
(Tài chỉ là ngọn, Đức mới là gốc). Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức là không có căn bản !".
Đề cao Đức không phải là sai, nhưng sau khi đã đưa được Đức lên
vị trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử
của Chuyên chính Vô sản: chữ TRUNG ! Mà "trung" là phải "trung
với Đảng" ! Rồi mới "Hiếu” với Dân
!...vân
...vân...
Tuy Dân có được kể đến ở ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh
đề "Đảng với Dân là một"
Tuy được "là một" nhưng ngồi chung vào cái ghế này "Dân" sẽ bị
"Đảng" thôn tính, vì Dân phải nhớ rằng Đảng luôn là người
"lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối" ! Thế thì Dân còn
chỗ nào mà đứng ? Thương thay cho Dân đã thực sự trở
thành con đỏ, được ru được nựng, được bế ẵm hết chỗ này sang chỗ
kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay "mẹ hiền" mất rồi,
không khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi
"mẹ hiền" cầm sữa lại cầm cả roi!
Sự tước đoạt ấy là trong phạm vị ý thức hệ. "Hình chiếu" của nó
ra thực tế là sự tước đoạt về "sở hữu" và "nhân quyền":
Đảng hô hào đấu địa chủ để "người cày có ruộng"!. "Có ruộng chưa
được mấy ngày đã phải vào tổ đổi công rồi vào hợp tác, giao hết
ruộng hết trâu cho "Ban Chủ nhiệm". Và từ đấy trở đi là cảnh:
Mỗi người "làm việc bằng hai"
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe !
Mỗi người "làm việc bằng ba"
Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân !
Chủ nhiệm" là ai, dứt khoát là người trong Cấp ủy Đảng, nên
quyền sinh quyền sát trong tay. Bị chủ nhiệm trù thì con thi vào
đại học rồi cũng bị xã gọi về, bố mẹ có sang tỉnh khác để kiếm
ăn cũng không thoát khỏi bàn tay quản lý hộ khẩu của Đảng !
Trạch trong rỏ cua làm gì có quyền tự do đi học, tự do cư trú
...? Có liều lĩnh "tự do ngôn luận" mà gửi đơn kiện tới Thủ
tướng thì Thủ tướng lại giảng Đạo đức, Đạo đức thì phải "trung
với Đảng" nên đơn kiện lại chuyển đúng về Đảng ủy xã để Đảng ủy
hành... pháp !
Con đường Đức trị vòng vèo quá nên người dân đâu có nhìn thấy,
Đảng an ủi cho vài câu đạo đức là lại tỉnh cả người, và lại có
sức để tiếp tục "làm việc bằng hai"!.
Người không hiểu thì tưởng cụ Hồ chỉ mượn Khổng giáo cái chữ
nghĩa, còn nội dung thì đã có "Đảng", có "hợp tác xã" nghĩa là
đã mang tính Cách mạng rất mới mẻ rồi ! Có biết đâu nội dung
phong kiến của chữ TRUNG vẫn được giữ nguyên, "trung" là dứt
khoát không được nghĩ đến vị chúa tể thứ hai, "lưỡng Đảng" chẳng
hạn là mắc tội chết rồi. Cái mới mẻ là: đáng lẽ trung với
với Vua thì nay phải trung với Đảng. Đảng đứng thay vào chỗ của
Vua trong cõi tâm linh của người dân Việt, được hưởng trọn tấm
lòng "trung quân" mà chế độ Phong kiến phải mất cả ngàn năm mới
xây dựng được !
Ví dụ nhỏ trên đây chắc có thể giúp bạn nhận ra rằng sự Tập thể
hóa kia không hề khử đi cái nội dung Phong kiến của chữ Trung,
trái lại nó làm cho chữ Trung phong kiến được "cập nhật hóa" để
nó có thể sống yên giữa thời sản xuất Công nghiệp, ít ra là
trong buổi đầu.
Đức trị Vô sản, đem đối chiếu với Đức trị Phong kiến thì tính
"cách mạng" chỉ có nghĩa là thay "sự trung thành
của cá nhân thần dân với cá nhân Vua" bằng ""sự trung thành của
một tập thể dân với một tập thể cầm quyền" (tức BCT),
để rồi trong tập thể cầm quyền này sự trung thành tối hậu sẽ
được giải quyết bằng Đảng tính và nguyên tắc Dân chủ tập
trung.
Điều chua chát là trong sự tranh chấp ở cung đình này nhiều phen
cụ Hồ và cụ Đồng với tư cách lãnh tụ chân chính của Đảng, đã
không phải là người được nhận sự trung thành tối hậu đó. Tôi
được nhiều Đảng viên hưu trí kể rằng : Cụ Đồng rất nhiều tâm sự,
Cụ bảo "cả đời làm Thủ tướng, tham nhũng như rươi mà tôi chưa
cách chức được một cán bộ nào ! Hiện nay ta chống tham nhũng
nhưng cũng chỉ chống được từ vai trở xuống thôi !".
Nghĩa là Tham nhũng ở trên đầu là không chống được
! Người dân có thể chia sẻ với Cựu Thủ tướng những tâm tư
ấy, nhưng chắc vị Cựu Thủ tướng của chúng ta chưa bao giờ dám
nghĩ rằng cội nguồn của bi kịch này là ở bản chất Phong kiến của
nền Đức trị Vô sản ! Chẳng thế mà ít lâu sau cụ Đồng lại
tiếp tục cuộc đánh Tham nhũng bằng ... những bài giảng Đạo đức,
đạo đức Hồ chí Minh!
Chính cụ Hồ với “Đạo đức Hồ chí Minh” có thật trong tay mà chưa
chống được tham nhũng, huống hồ một người nào đó không phải
Hồ chí Minh, chỉ nói Đạo đức Hồ chí Minh chứ chắc gì đã có Đạo
đức thật, thì thử hỏi chống thế nào được tham nhũng ?
Xin hãy lắng nghe lời mách nước của thời đại (nếu thực tâm muốn
nghe) : Hãy quên "Đạo Đức"
đi, để làm Pháp trị cho ngon lành thì Tham nhũng nó mới sợ !
Muốn có công bằng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn
luôn dẫn đến mất công bằng. Muốn có dân chủ mà chọn Đức trị là
đồ ngốc, vì tình cảm luôn dẫn đến quân phiệt. Muốn được giải
phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc vì Đạo đức là cái bẫy của kẻ
thống trị để bẫy nhũng kẻ có tâm mà trí không đủ, chỉ thấy gần
mà không thấy xa. Càng hướng thiện bao nhiêu, càng cựa quậy để
tìm Đạo đức bao nhiêu thì càng rúc sâu vào bẫy bấy nhiêu. Kẻ
thống trị chỉ cần nắm cái bẫy Đạo đức giơ lên là xỏ mũi được cả
đàn. Không biết đến bao giờ Nhân dân mới nhận ra điều ấy, lúc ấy
người ta sẽ tìm Pháp trị.
Xin nối lại một chút cái mạch suy nghĩ về ĐỨC và TÀI. Khởi đầu
có vẻ như đây là hai giá trị song song. Nhưng không, ý thức hệ
Đức trị buộc phải coi Đức là gốc, Tài là ngọn. Rồi cái gốc Đức
ấy lại phải mang nội dung số 1 là "trung với Đảng". Chỉ cần
thuyết giảng hai bước ấy thôi là TÀI (Trí thức) đã tụt xuống
thân phận đầy tớ cho sự nghiệp Chính trị của Đảng. TÀI mà
không phục vụ được sự nghiệp Chính trị của Đảng thì cũng "không
bằng cục phân". Đừng nghĩ rằng điều quá quắt này là ở bên
Tàu những năm về trước. Chính ở Việt nam đây, ngày hôm nay, giữa
lúc "sự nghiệp đổi mới" rất "thành công" này, điều ấy càng đúng
hơn bao giờ hết !
Đảng ta đang trọng trí thức và càng ngày càng trọng trí thức,
điều ấy xin đừng ai nghi ngờ. Vì Đảng ta thừa biết nếu chỉ dùng
mấy anh bất tài thì dẫu có giữ độc quyền sở hữu đất đai để độc
quyền mua bán với nước ngoài cũng không thể hòa nhập được vào
thế giới đầy trí tuệ hôm nay. Nên mọi tài năng ắt được sử
dụng, nhưng... với một điều kiện: phải phục vụ cho sự nghiệp
"chính trị" của Đảng (chú ý rằng "Chính trị" Mác xít thì
bao giờ cũng có Kinh tế trong đó rồi! Mác Lê chỉ dạy "Kinh
tế-Chính trị học" Économie politique, mà không dạy Khoa học
Chính trị Science politique!). Sự nghiệp của Đảng thì luôn đồng
nghĩa với sự nghiệp của đất nước, nên ở Việt nam này, dù nói "vì
đất nước" hay "vì Đảng" thì ý nghĩa chính trị công khai của câu
văn cũng không có gì thay đổi (nhưng trong chốn lương tri thầm
kín thì hai câu văn kia lại có nghĩa đạo đức trái ngược hẳn,
người ta biết anh vì đất nước thì người ta trọng, chứ biết anh
là kẻ vì Đảng thì người ta lánh xa đấy, không "là một" được
đâu!).
Vừa ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN, trái ý Đảng thì chữ
TÀI liền với chữ TAI ! Chọn đường nào thì chọn !
Trí thức Việt nam nhạy bén, họ hiểu ý Đảng nên chẳng dại gì mà
chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình Bác Hồ chỉ lối, để "Bác
vẫn cùng chúng cháu hành quân" ...thì "đánh đâu thắng đấy!".
"Cứ có Bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, Chuyên chính
Vô sản chỉ nghe lời Bác Hồ"! Người Việt thời nay nói về đồng
tiền cách mạng một cách rất đạo đức như thế !
Muốn có công bằng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình
cảm luôn luôn dẫn đến mất công bằng.
Muốn có dân chủ mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm
luôn dẫn đến quân phiệt.
Muốn được giải phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc vì Đạo
đức là cái bẫy của kẻ thống trị để bẫy nhũng kẻ có tâm
mà trí không đủ, chỉ thấy gần mà không thấy xa.
|
|
Đấy là bài Đạo đức mà xã hội Mác-Lê đã dạy cho họ. Trong thâm
tâm họ thừa hiểu những bài Đạo đức của lãnh tụ Vô sản thuyết
giáo, vô tình chỉ để tạo ra một tầng lớp Cường hào mới giầu
có gấp vạn lần bọn Cường hào phong kiến khi xưa.
Thời cực thịnh của Đức trị là Phong kiến, ngày nay cứ ham Đức
trị là rơi vào Phong kiến, mà Phong kiến ngày nay thì đâu
còn cái nét đẹp của phong kiến cực thịnh ngày xưa ? Thế nhưng,
về ý thức hệ, Việt nam vẫn đang nằm trong vòng Ý thức hệ Phong
kiến nên đối với đa số dân chúng, việc ca ngợi Đức trị nghe
dễ thuận tai hơn.
Phân tích như trên tôi không có ý gì muốn xúc phạm đến tấm lòng
của cụ Hồ chí Minh, cụ Phạm văn Đồng là những vị có công Cứu
nước (*), cũng như không dám xúc phạm đến tấm lòng cụ “Các Mác
thánh thiện”. Trái lại tôi muốn khẳng định rằng tấm lòng
dù thánh thiện đến đâu cũng không thoát khỏi cái
vòng Kim cô của Ý thức hệ.
Đối với những người điều hành xã hội, vấn đề là phải
giải phóng Ý thức hệ trong cái đầu,
chứ chủ yếu không phải là khổ
công rèn luyện để "chính cái Tâm ".!
Đứng trong ý thức hệ ấy thì cái Tâm cũng chẳng "chính" mãi được
đâu ! "Chính" thật thì ra rìa !
Hà
Sĩ Phu (1995)
---------------------
(*) Xin xem lời dẫn ở đầu bài |