Ðất đai Việt Nam bị
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Xâm Chiếm
Không
ai có thể phủ nhận một sự thực: quốc gia tự nhận là Trung Hoa Nhân
Dân Cộng Hòa Quốc [Zhonghua Renmin Gongheguo] đã kiên nhẫn
xâm chiếm và cướp đoạt đất đai của các lân bang hơn 2000 năm qua để
lập nên đế quốc hiện nay.
[Trung Hoa có lẽ đã trở thành quốc gia từ đời nhà Shang (Thương,
khoảng 1500-1000 TTL). Chính quyền thống nhất đầu tiên ở miền Bắc
sông Dương tử là Ch’in Shih Huangti (Tần Thủy Hoàng (246-210 TTL).
Chế độ bắt đầu xâm lăng các tiểu quốc miền Nam là Tây Hán hay Tiền
Hán (206 TTL-5STL, 25-220)]
Ngoài những phần lãnh thổ của dân Mongols, Tibet và Manchu bị cưỡng
ép sát nhập vào lãnh thổ, THNDCHQ còn tự nhận chủ quyền trên đảo Ðài
Loan và cả vùng biển Nam, nơi có dầu hỏa và nhiều tài nguyên thiên
nhiên khác dưới thềm lục địa, mà họ mệnh danh là “vùng chiến lược
sinh tồn.”
[Xem Vũ Ngự Chiêu, “From Embargo to Normalization” tiểu luận J.D.
5/1999, University of Houston Law School, Houston, TX; unpublished]
Việt Nam là một trong những nạn nhân trường kỳ của tham vọng đế
quốc, thực dân Hán tộc [Hanism].
Những người cầm quyền ở Bắc Kinh hay các thủ đô chính trị khác luôn
tự nhận “chủ quyền thượng quốc” trên Việt Nam. Năm 1407, dưới danh
nghĩa [pretext] “phù Trần, diệt Hồ” Chu Lệ (Yên Vương Lệ,
Minh Thành Tông, 1403-1424) xâm lăng và cướp đoạt chủ quyền Việt
Nam, đặt ra “Giao Chỉ” rồi “An Nam đô hộ.” Sau 20 năm kháng chiến -
do con cháu nhà Trần cầm đầu, hay những lãnh tụ địa phương khác, đặc
biệt là Lê Lợi - quân Minh phải triệt thoái khỏi nước ta. “Bình Ngô
Ðại Cáo” của Lê Lợi - do Nguyễn Trãi soạn thảo - là tuyên ngôn độc
lập hùng hồn nhất của người Việt với cường quốc phía Bắc. Tuy nhiên,
thực tế chính trị – trong thế giới luật kẻ mạnh – khiến Ðại Việt
phải chấp nhận hệ thống quan hệ ngoại giao thông hiếu qui tâm về Yên
Kinh; nhận sắc phong và triều cống định kỳ vua Trung Hoa. Hệ thống
“thông hiếu” [tributary network] này khiến có thể ngộ nhận về
chủ quyền chính trị thực sự ở Ðại Việt. Thực tế, vua quan Việt luôn
tự giữ một khoảng cách vừa phải theo luật kẻ yếu – mềm dẻo, uốn cong
mà không gãy. Ái Tân Giác La Hoàng Lịch (1736-1794) – thường được
biết như Càn Long hay Cao Tông – là vua Trung Hoa cuối cùng nếm mùi
thất bại trong cuộc xâm chiếm Ðại Việt bằng võ lực năm 1788-1789.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, mang quân xâm chiếm, chia ra quận huyện để
đặt dân Việt vào “vòng lễ giáo” Hán tộc [kiểu cho đào mộ tổ tiên
Lê Lợi năm 1418; Thông sử, 208 [truyện Trịnh Khả], chỉ là một
trong những biện pháp lấn đất giành dân.
Vua quan Trung Hoa không bỏ qua bất cứ cơ hội rối loạn chính trị,
hay tranh chấp quyền lực nào trong nội địa Việt Nam để mở rộng bờ
cõi. Mặc dù lên giọng giả đạo đức như chẳng xá gì một thôn động
trong núi, hay ví thử có vàng mọc trên mặt đất cũng chẳng tham,
Trung Hoa đã cướp đoạt của Ðại Việt nhiều vùng quặng mỏ dài theo
biên giới. Mỏ vàng Quảng Nguyên, hay những mỏ sắt, mỏ đồng, mỏ bạc ở
Tây Bắc Bắc Việt. Ðiển hình nhất là vào thời nhà Hồ (1400-1407), nhà
Mạc (1527-1593, 1593-1677), và thời Lê-Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn
(1769-1802). Các vua đầu nhà Nguyễn, từ Gia Long tới Thiệu Trị, cũng
chấp nhận “bỏ quên” 6 châu Hưng Hóa mất vào tỉnh Vân Nam. Năm 1882,
dưới áp lực thực dân Pháp, Tự Ðức và những “Hán nhân” khác, còn xin
nội phụ nhà Thanh – một việc làm khó giữ bí mật ngàn đời!
[Sử quan Nguyễn chép vào Thực Lục đời Minh Mạng “Hán nhân” thay vì
người Việt. Diễn giải Hán nhân là người thấm nhuần văn hóa Hán là
một ngụy biện lố bịch]
“La vérité sur les relations sino-vietnmiennes;” La Chine et le
Monde [“Sự thật về quan hệ Trung Hoa-Việt Nam,” trong Trung
Hoa và Thế Giới] (Beijing: Beijing Information, 1982), tr.
102-141;
Nếu người Pháp không chiếm đóng Việt Nam – “đặt lại quận huyện, mở
cửa cho dân An-na-mít vào thế giới văn minh” Ðại Pháp [tiêu biểu
bằng việc cho Nguyễn Thân-Ngô Ðình Khả-Lê Tựu Khiết đào mộ lãnh tụ
kháng chiến quân Phan Ðình Phùng năm 1896, trộn với thuốc súng mà
bắn đi, hay treo đầu Hoàng “Ba” Thám ở Nhã Nam suốt 3 ngày
năm 1913] – chẳng hiểu tình trạng biên giới Việt Nam biến hóa ra
sao dưới sự khuynh đảo của bọn thổ phỉ và hải tặc Trung Hoa, cùng
lính đánh thuê cho Pháp. (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà
Nguyễn, tập III).
Nhưng ngay sau khi cuộc nội chiến Quốc-Cộng (1945-1975) còn đang
tiếp diễn, THNDCHQ lại bắt đầu một chu trình tằm thực mới.
Hai hòa ước về biên giới đất liền và lãnh hải vịnh Bắc Bộ năm 1999
và 2000 mới chỉ là khởi đầu. Ðầu thiên kỷ 2000, lãnh đạo THNDCHQ bắt
chước Mao Trạch Ðông tới tắm bãi biển Ðà Nẵng, tuyên bố muốn thấy
thanh thiếu niên Hoa-Việt vui cười an bình sống bên nhau, nhưng
thỉnh thoảng lại sai chiến hạm tới bắn giết thanh niên Việt chỉ để
giành độc quyền những túi vàng đen ở khu vực quần đảo Trường Sa mà
THNDCHQ đặt tên là Nansha! [Ðó là chưa kể đưa hàng mạo hóa [“nhái”]
vào lũng đoạn thị trường Việt Nam; thu mua quặng thô từ những tỉnh
biên giới; thường trực áp lực Việt Nam trong nhiều lãnh vực, kiểu
trúng thầu với giá rẻ mạt những công trình tái thiết do viện trợ
quốc tế bảo trợ].
Trong khi đó, một viên chức Lai Châu tiết lộ (năm 2005) rằng thổ dân
và thổ quan THNDCHQ ở vùng biên giới tiếp tục xâm lấn lãnh thổ Việt
Nam. Họ tuyên bố “ở đâu có chuối xanh là lãnh thổ Trung Quốc.”
Phương cách tằm thực này – tạo nên những cuộc va chạm ở các tỉnh
biên giới – nhiều khi không do chính quyền trung ương chủ xướng,
nhưng kết quả cuối cùng vẫn là làng bênh làng, “Thiên triều” bắt ép
“bồi thần.”
Những vùng đất bị TH xâm lấn nhiều nhất nằm ở phía Tây Bắc hơn phía
Ðông Bắc – như Trấn Nam Quan (ải Pha Lũy, nay là Hữu Nghị Quan) hay
Thác Bản Giốc. Vài địa danh lịch sử như “ải Lê Hoa” trong trận chiến
đánh đuổi quân Minh của Lê Lợi, đã “vào bản đồ” Mông Tự, Vân Nam, từ
năm nào không rõ.
Nhiều “chuyên viên Trung Hoa” trong nước – vì một lý do nào đó – vẫn
nuôi ảo tưởng về lòng thành thực của Mao Trạch Ðông và tinh thần
“quốc tế vô sản” của Mao, đổ mọi trách nhiệm cho Ðặng Tiểu Bình.
Không nhận hiểu dã tâm của Mao khi sử dụng xương máu người Việt củng
cố trận tuyến chiến lược Ðông Nam, trong cuộc đương đầu sắt máu với
Liên Bang Mỹ. Nếu còn sống và đủ tỉnh táo, những “chuyên viên” này
nên đọc lại hồi ký Vũ Ðình Hoè, đoạn nói về cảnh Mao tiếp phái đoàn
VNDCCH ở Di Niên Ðường. Mao thỉnh thoảng ném kẹo táo, trái cây cho
Tôn Ðức Thắng, Vũ Ðình Hoè và các đại diện Việt, ân cần nói: Ăn đi,
ăn nhiều đi, rồi đánh giặc cho khoẻ! (Vũ Ðình Hoè, Hồi ký,
2004:938) Cũng nên đọc lại những bài viết của Trường Chinh, v.v...
trên tờ Tạp Chí Cộng Sản, trước khi chết không nhắm mắt vào
năm 1988.
Vì tư liệu về việc cắt đất, cắt lãnh hải cho Trung Cộng của nhóm Lê
Công Phụng, do lệnh từ Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, chưa được bạch hoá –
nhưng là một sự thực lịch sử, giống như lá thư Phạm
Văn Ðồng gửi cho Chu Ân Lai năm 1958 mà chúng tôi đã công bố cách
đây hơn 20 năm [Xem Chính Ðạo, 55 Ngày & 55 Ðêm, in lần thứ 5
(Houston: Văn Hóa, 1987, 1999), tr. 20; Việt Nam Niên Biểu, I-C:
1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000), tr. 120] khiến không thể
không nghĩ đến quặng uranium ở mỏ Tĩnh Túc, Pia Ouac, mà
chuyên viên Nhật tìm ra trong khoảng 1946-1947 – chỉ ghi lại những
trường hợp mất đất tiêu biểu nhất trước thời Pháp thuộc:
I. GIA ÐÌNH HỒ QUÍ LY:
Tháng 3/1405, Hồ Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh cắt đất Lộc Châu (59
xã thôn) của Lạng Sơn cho nhà Minh. (CM, XII:7; (1998), I:720-721;
ÐVSKTB, 1997:518).
Hoàng Quảng Thành, thổ quan Tư Minh, tâu lên rằng nhà Trần đã cướp
đất Cổ Lâu [Lộc Châu] (Lạng Sơn). Chu Lệ cho lệnh Quí Ly trả lại đất
trên. Nay sứ nhà Minh lại qua. Hán Thương sai Hối Khanh làm “cát
địa sứ.”
Quí Ly không hài lòng việc Hối Khanh cắt nhượng quá nhiều đất. Ngầm
cho lệnh đầu độc các thổ quan do nhà Minh bổ nhiệm. Tuy nhiên, châu
Tây Long và huyện Tây Lâm này ngày nay nằm trong lãnh thổ đạo Ðiền
Nam, tỉnh Quảng Tây, của THNDCHQ. (CM XII:7, 1998, I:721).
Tháng 9 Bính Tuất (1406), Chu Lệ (Thành Tổ 1403-1424) [con thứ tư
Nguyên Chương; cướp ngôi của cháu là Doãn Văn (Kiến Văn hay Huệ Tông
1399-1402). (ÐVSKTB, 1997:515)] sai quân tràn sang xâm chiếm Ðại
Việt, dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ.
Ngày 20/1/1407, quân Minh chiếm Hà Nội. Tháng 6/1407, Hồ Quí Ly,
Hồ Hán Thương và toàn gia bị Liễu Thăng bắt sống ở cửa biển Kỳ La,
Thanh Hoa [Hà Tĩnh].
(CM, q. XII:17-19, 21; (1998), I:731-732, 734-735).
II. GIA ÐÌNH MẠC ÐĂNG DUNG:
Vì nhà Mạc (1527-1593) – giống như nhà Tây Sơn (1778-1802), chỉ còn
ghi lại trong “quốc sử” phong kiến như “Ngụy” và “nghịch thần
truyện” (Xem, Lê Quí Ðôn, Thông sử, 1978, III:253-397) – xin
ghi lại những chi tiết sau theo “quốc sử”:
A.
Ngày 30/11/1540, Mạc Ðăng Dung giao cho Mạc Phúc Hải (1540-1546) giữ
chính quyền, rồi cùng Minh Văn và hơn 40 thuộc hạ qua Trấn Nam Quan
tạ tội với quan tướng Minh.
Nguyên bọn Tướng nhà Minh là Cừu Loan và Mao Bá Ôn đã tới Quảng Tây,
tập trung quân lính chuẩn bị đánh Ðại Việt. Ðạo quân nhà Minh, kể cả
chính binh và kỳ binh (quân lưu động), dự trù lên tới 220,000, chia
làm ba cánh xâm phạm Ðại Việt theo ngả Bằng Tường, Long Châu và Tư
Minh. Vân Nam cũng được lệnh mang ba đội tiễu binh, mỗi đội 21,000,
từ ghềnh Liên Hoa (Mông Tự, phủ Khai Hóa nhà Thanh [nguyên là đất
của Việt, mất vào dịp nào không rõ]) tràn vào Ðại Việt.
Lại truyền hịch hạch tội Ðăng Dung diệt nhà Lê, ai bắt được một tội
nhân sẽ thưởng 2 nén vàng và ban quan tước. (CM,CB, 27:31-32; 1998,
II:114-115).
Mặt khác, dụ bảo cha con Ðăng Dung tự trói mình đợi tội, dâng nạp sổ
sách đất đai, dân đinh, sẽ được tha tội chết.
Ðăng Dung bèn sai sứ sang gặp bọn Bá Ôn dàn xếp. Bá Ôn đồng ý ngày
30/11/1540, Ðăng Dung phải làm lễ đầu hàng tại Trấn Nam Quan. Ngày
này, Ðăng Dung cùng cháu là Văn Minh và hơn 40 tùy tùng quấn giây
thao vào cổ, đi chân đất đến phủ phục ở doanh trướng quân Minh.
“Mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp
ở mạc phủ nước Minh, giập đầu quì dâng tờ biểu xin hàng, biên hết
đất đai quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động
Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương của châu Vĩnh
Yên, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc lệ vào Khâm Châu.” Rồi sai
cháu vào Yên Kinh dâng biểu đầu hàng. (ÐVSK, BKTB, XVI:132-133).
[Thông sử của Lê Quí Ðôn thiếu đoạn này; Thông sử, 272
(truyện Mạc Ðăng Dung)]
Theo sử quan nhà Nguyễn, Khâm châu chí của nhà Thanh chỉ chép
là “năm Gia Tĩnh nhà Minh” (Chu Hậu Tổng [hay Minh Thế Tông], 1522-
1566), Ðăng Dung nạp trả 5 động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát,
La Phù, không có An Lương.
Quảng Yên sách
thì chép động An Lương nay là phố An Lương thuộc châu Vạn
Ninh, phủ Hải Ninh, tỉnh Quảng Yên. KÐVSTGCM cho rằng không
cắt động An Lương. (CM,CB, 27:34; 1998, II:116).
Nam Quan ở về phía Tây Nam châu Bằng Tường, phủ Thái Bình, tỉnh
Quảng Tây nhà Thanh.
(CM,CB, 27:34-35; 1998, II:116-117).
Minh sử thông sự (q.32)
chép là mãi tới năm 1538 Ðăng Dung mới cử sứ qua nhà Minh vì đường
ra biên ải bị bọn Trần Cung ngăn chặn.
Bọn Bá Ôn cho Ðăng Dung về nước đợi lệnh. Văn Minh và Nguyễn Văn
Thái lên Yên Kinh yết kiến vua Minh.
Dịp này Chu Lệ sát nhập Ðại Việt vào Trung Hoa, đặt An
Nam đô thống sứ ti,
cho Ðăng Dung chức quan tòng nhị phẩm (đô thống sứ). (CM :36-37;
1998, II:118-120).
B.
Về Lạng Sơn-Nam Quan:
Ðịa danh Trấn Nam Quan – mà nhiều người dưới thời Pháp thuộc gọi là
“Ải Nam Quan” – xuất hiện lần đầu tiên trong đoạn sử nói về việc họ
Mạc cắt đất cho nhà Minh nói trên.
Vì không tìm được dấu vết ngày khai sinh của cửa quan này trong cả
tài liệu Hoa và Việt, sử quan nhà Nguyễn chú thích rằng “Cửa quan
Nam Giao” hay Trấn Nam Quan chỉ được ghi vào sử từ đời Mạc Ðăng Dung
[1540]. (ÐNNTC, IV:384-386) Ðây là cửa ải chính thức cho các sứ
đoàn, chỉ có một cánh cổng bằng gỗ, có khóa. Những dịch vụ khác –
như giao giải tù nhân – dùng “Ải Du Thôn,” cách tỉnh Lạng Sơn 30 dặm
về phía Bắc, nằm về phía hữu của Trấn Nam Quan. Ði đường núi mất
khoảng 2 canh giờ rưỡi [5 tiếng đồng hồ tới Trấn Nam Quan].
Khi đi sứ Trung Hoa năm 1760 để báo tang Lê Thuận Tông, Bảng nhãn Lê
Quí Ðôn ghi chép được hai bản văn bia của quan lại Trung Hoa về vấn
đề quan ải.
Bia thứ nhất do Tuần phủ Quảng Tây Lý Công Phất dựng khoảng năm
1725, sau khi tu bổ lại Trấn Nam Quan từ tháng 3/1925 tới cuối năm
mới xong.
(Lý Công Phất, “Trùng tu An Nam ký;” (1725), Lê Quí Ðôn, Vân Ðài
Luận Ngữ, bản dịch Phạm Vũ, Lê Hiền (Sài Gòn: 1972), tr.
160-162.
Bia thứ hai, “Tuần duyệt An Nam biên ải ký” của Án sát Quảng Tây
Hoàng Nhạc Mục. (VÐLN, 1972:162-165) Theo Nhạc Mục, ngày 13/3/1746,
Mục đến Ðiền Châu, cách Bách Sắc chừng 100 dặm. Ngày 22/3/1746, đi
từ phủ Thái Bình tới quận Bằng Tường. Từ Bằng Tường tới Trấn Nam
Quan mất 4 ngày.
Khu vực Lạng Sơn-Cao Bằng này vừa cũ, vừa mới có 116 cửa quan dài
theo biên giới, quân biên phòng 1935 tên, quân thổ dân 1170 người.
(VÐLN, 1972:165).
Ở Thủy Khẩu quan, có một con sông nước trong, rộng hơn 10 trượng từ
Cao Bằng chảy tới. (VÐLN, 1972:164).
Ngày 3/5/1746, về lại Liễu Châu. Ngày 19/5/1746, về tới tỉnh Quảng
Tây.
Ngày 27/6/1746, trở lại Liễu Châu vẽ bản đồ và khắc bia đá. (VÐLN,
1972:165) [Lịch Thanh ghi tháng 3 nhuận. Lịch Lê-Trịnh ghi tháng
12 Ất Sửu nhuận].
Lạng Sơn:
Ðại Nam Nhất Thống Chí
của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (q. 24); bản dịch Phạm Trọng
Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học, (NXB Thuận Hóa, 1997), 5 tập,
IV:365-400.
Gồm 2 phủ Tràng Khánh (châu Lộc Bình, châu Ôn, huyện Yên Bác) và
Tràng Ðịnh (châu Vân Uyên, huyện Văn Quan, Thất Khê, châu Thoát
Lãng). [368-373].
Phủ lị thành Lạng Sơn cách châu lị Tư Minh (nay là Ninh Minh) 10 dặm
về phía Tây Nam. [375]
Một cách tổng quát, việc kiểm soát biên giới rất lỏng lẻo. Dân địa
phương cũng vượt biên giới dễ dàng – nhất là những toán thổ phỉ, xạ
phang, và/hay những đoàn buôn thuốc phiện và gạo muối lậu.
C.
Ðời Hậu Lê, con cháu nhà Mạc được nhà Minh can thiệp cho giữ 4 châu
thuộc Cao Bằng.
Theo Phan Huy Chú, tác giả Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí,
“Dư Ðịa Chí,” (1819), bản dịch Viện Sử học (Hà Nội: 1992), 3 tập,
quyển 4, 151-154. Cao Bằng trước kia, thuộc trấn Thái Nguyên. Từ
cuối đời nhà Mạc, nhà Thanh áp lực Lê-Trịnh phải cắt cho nhà Mạc 4
châu: Thạch Lâm (22 xã), Quảng Uyên (38 xã), Thượng Lang (32 xã), Hạ
Lang (22 xã) [tới 1677].
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,
năm 1677 mới đặt tên Cao Bình. Tây Sơn đổi làm Cao Bằng. Năm 1826,
Minh Mạng đổi làm phủ Trùng Khánh. Năm 1831, đổi thành tỉnh. Ðặt 2
phủ Hòa An và Trùng Khánh. Chia Thạch Lâm làm 2 huyện Thạch An và
Thạch Lâm. Ðặt tuần phủ Lạng-Bằng. Tự Ðức bỏ phủ Hòa An. [(q. 25;
bản dịch Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học, (NXB Thuận
Hóa, 1997), 5 tập, IV: 402-403 [401-430.]
Năm 1677, Ðinh Văn Tả dẹp được họ Mạc. Nhưng một phần đất trong các
châu này bị thổ quan châu Tư Minh và Quảng Tây lấn chiếm. Sử quan
nhà Nguyễn, chẳng hạn, không thể khảo cứu được “Ðương Châu” phủ Bắc
Bình dưới đời Lê Thánh Tông. (ÐNNTC, 1997, IV:419).
III. ẢI LÊ HOA (MÔNG TỰ NGÀY NAY):
Tháng 10/1427, đại quân của Liễu Thăng và Mộc Thạnh kéo vào lãnh thổ
Ðại Việt. Trần Nguyên Hãn, Lê Sát và Lê Nhân Chú giữ ải Chi Lăng
[ngăn chặn Vương Thông]; Phạm Văn Xảo và Lê Khả giữ ải Lê Hoa ở Mông
Tự [ngăn chặn Mộc Thạnh]. (Thông sử, 64-65, 191-192 [truyện
Phạm Văn Xảo], 209 [truyện Trịnh Khả]).
Ngày 8/10/1427, Liễu Thăng kéo quân qua ải Pha Lũy. Trần Lựu lui
quân về Ải Lựu, rồi ải Chi Lăng. Hai ngày sau, 10/10/1427, Trần
Nguyên Hãn và Lê Sát phục binh giết chết Liễu Thăng tại núi Mã Yên
(Chi Lăng). (Thông sử, 66).
Ngày 15/10/1427, viện binh Lê đến Chi Lăng. Giết thêm Lương Minh.
Ngày 18/10/1427, từ Chi Lăng, Thôi Tụ và Hoàng Phúc tiếp tục tiến
binh. Nhưng Thái úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, Thiếu úy Lê Lý
chiếm được thành Xương Giang. Tri phủ nhà Minh Lưu Tử Phu tử trận
cùng Kim Dận, Lý Nhậm. Vòng vây quanh Ðông đô xiết chặt hơn. Rồi
ngày 3/11/1427, Lê Vấn và Lê Khôi phá tan quân Minh ở Xương Giang.
Bắt sống Thôi Tụ cùng Hoàng Phúc và hơn 3,000 quân. Giết chết 50,000
quân Minh.
Quân Mộc Thạnh được tin tan rã. Trịnh Khả chém chết hơn 10,000, bắt
hơn 1000 tù binh “giặc Ngô,” hơn 1000 ngựa ở Lãnh Câu, Ðan Xá. Mộc
Thạnh một mình thoát thân. (Thông Sử, 67, 209 [truyện Trịnh
Khả]; CM XIV, 1998, I:820).
[Theo Ngô Thì Sĩ, Lê Lợi mật chỉ cho các Tướng là Tổng binh Vân Nam
Mộc Thạnh đã già. Chỉ có ý cầm cự với quân Phạm Văn Xảo, chờ tin
Liễu Thăng. Khi quân Lê đưa tù nhân và cờ xí tới nơi, quân Thạnh
chưa đánh đã tan. Mộc Thạnh một mình thoát thân. Quân Lê bắt được vũ
khí, xe cộ nhiều gấp 2 lần thành Xương Giang; ÐVSKTB, 1997:562)].
Tháng 11 Ðinh Mùi [19/11-17/12/1427], hai thành Tây đô và Cổ Lộng
đầu hàng.
Từ Ðông Quan, Vương Thông đưa thư xin hòa. Lê Lợi chấp thuận. Sai
Hành khiển Nguyễn Trãi viết thư cho Chu Chiêm Cơ, xin sắc phong cho
Trần Cảo, nhờ Mộc Thạnh ở Vân Nam và Cố Hưng Tổ ở Quảng Tây chuyển
về triều. Tha cho Hoàng Phúc về nước. (Thông sử, 68).
Ngày 10/12/1427, Lê Lợi và Vương Thông định hòa ước. (Thông sử,
69) Ngày 29/12/1427, quân Minh rút lui. (ÐVSKTB, 1997:563).
Trước đó, Lê Lợi cũng sai Nguyễn Trãi viết hai lá thư nhân danh Trần
Cảo xin hòa. (ÐVSKTB, 1997:563).
Tháng 12/1427, sau khi nghe tin Liễu Thăng tử trận và Vương Thông bị
vây khốn ở Ðông Quan, Chu Chiêm Cơ đồng ý bãi binh. [Trương Phụ
không đồng ý; quan nội các Kiến Nghĩa và Hạ Nguyên Cát cũng vậy.
Dương Vĩnh Kỳ và Dương Vinh muốn hòa. Theo họ, 20 năm chiến tranh đã
quá dài. Chiêm Cơ đồng ý, sai La Nhữ Kính mang chiếu phong Trần Cảo
làm An Nam Quốc Vương. (Thông sử, 70; ÐVSKTB, 1997:563).
Ngày 29/12/1427, Vương Thông dẫn quân về nước. Mười phần khi đến chỉ
còn lại hai. La Nhữ Kính tới Long Châu đã gặp Vương Thông. Thông sau
bị tống giam, tước đoạt tài sản. (ÐVSKTB, 1997:564).
[20/1/1407 (12/12 Binh Tuất): Quân Minh chiếm Hà Nội. (ÐVSKTB,
1997:523, 564). Ngày 29/12/1427 [12/12 Ðinh Mùi], Vương Thông dẫn
quân về nước. Phan Phu Tiên: số trời; ÐVSKTB, 1997:564)].
[Ngô Thì Sĩ: Vài vạn người Minh ở lại; ÐVSKTB, 1997:564].
Tuy nhiên, sau đó ải Lê Hoa bị mất vào Trung Hoa. Trong lời chú, sử
quan KÐVSTGCM cho rằng có tin quân Mộc Thạnh kéo tới châu Thủy Vĩ
[ranh giới Tuyên Quang].
IV. LÊ-TRỊNH: “HƯNG HÓA”
A.
Năm 1728 [đời Huỳnh Hoa (1662-1735), niên hiệu Ung Chính thứ 6, quan
Việt và Thanh đặt bia đá giới mốc “châu Vị Xuyên, Tuyên Quang” trên
bờ sông Ðổ Chú, huyện Vĩnh Tuy. Năm 1831, Minh Mạng cho lệnh làm lại
bia, khắc thêm văn bia nhà Thanh như sau: Ngày 11/10/1728 Ngô Sĩ
Côn, Tri phủ Khai Hoá và Vương Võ Ðảng, Du kích trung dinh trấn Khai
Hóa, bàn định biên giới với đại diện “Giao Chỉ” là Nguyễn Huy Nhuận
[tả thị lang bộ Binh, và tế tửu Nguyễn Công Thái]. Hai bên đồng ý
dựng bia biên giới ngày 22/10/1728, lấy sông Ðỗ Chú làm căn cứ.
(ÐNNTC, 1997, 4:353-354].
Tháng 2/1769, Ðoàn Nguyễn Thục chiếm được động Mãnh Thiên (huyện
Thanh Châu) của Hoàng Công Chất. Chất đã chết. Con là Công Toản chạy
thoát qua Vân Nam. (CM 43:21-22, 1998, II:684-685; CM, 43:20-22,
1998, II:691-692) 7 châu dưới quyền Công Toản [Tung Lãng (Mường La),
Lễ Tuyên, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu] đều
xin qui phụ nhà Thanh [nay là 6 trại thuộc huyện Kiến Thủy, phủ Lâm
An, Vân Nam]. (LTHCLC, q.IV, “Hưng Hóa,” Dư Ðịa Chí, 1992,
I:142-143)
B.
Năm 1780, nhà Thanh xâm lấn thêm 4 châu Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp
Phì, và Lễ Tuyên thuộc phủ An Tây (Hưng Hóa, nay thuộc Lai Châu),
vào phủ Khai Hóa, Vân Nam. Cuối năm đó, Trịnh Sâm viết thư cho quan
Thanh ở Vân Quí, họ chỉ im lặng. Sau Sâm bệnh, phải bỏ qua. (CM
XLV:23; 1998, II:754-755)
Quảng Lăng, Khiêm Châu thành lãnh thổ huyện Kiến Thủy, phủ Khai Hóa.
(CM 45:23; 1998, II:754-755)
C.
Tháng 6-7/1806, dân Thanh lấn chiếm một số động ở biên giới Hưng
Hóa. Ðây là cuộc tranh chấp lãnh thổ và dân cư từ đời Lê-Trịnh.
Không những không trả lại 6 châu thuộc phủ An Tây, quan lại địa
phương Vân Nam còn lấn chiếm dân hai châu Chiêu Tấn và Lai Chính vào
trại Mãnh. Châu Quảng Lăng hay Tung Lăng (Mương La) có mỏ vàng. Quan
Thanh đưa dân Hồ Quảng tới, mở 3 phố. Tổng trấn Nguyễn Văn Thành làm
sớ yêu cầu Gia Long cho người bàn luận việc biên giới với Tổng đốc
Vân Quí. Gia Long tuyên bố mới dựng nước, chưa tiện bàn luận với nhà
Thanh. Bởi thế 6 châu mất vào nhà Thanh. (ÐNTLCB, I, 3:286; ÐNNTC,
1997, IV:288-289).
D.
Năm 1831, nhàThanh lại định xâm lấn một phần lãnh thổ Hưng Hóa. Mục
luyện phủ Lâm An đưa 600 lính tới đòi chiếm đồn Phong Thu. Nói Phong
Thu là lãnh thổ Thanh. Minh Mạng sai Hộ tào Ðặng Văn Thiêm và thống
quản Nguyễn Ðình Phổ đem 1000 quân và 10 thớt voi lên đóng giữ trấn
Hưng Hóa. Tới Hưng Hóa, trích giao trấn thủ Vũ Văn Tín 300 biền
binh, trấn binh và thổ binh cùng 5 thớt voi tới Chiêu Tấn phòng ngự.
Rồi viết thư cho chỉ huy người Thanh, khẳng định Phong Thu là đất
Việt.
Tháng 7/1831, trấn thủ Hưng Hóa Vũ Văn Tín và tham hiệp Ngô Huy Tuấn
đi kinh lược Chiêu Tấn. Mục Luyện Thanh bèn tấn công Phong Thu. Thủ
đồn Chử Ðình Thông rút về động Bình Lư.
Minh Mạng tăng viện cho Ðặng Văn Thiêm thêm 200 biền binh và 2 thớt
voi cho theo Vũ Văn Tín tới Phong Thu.
Ðến nơi, quân Thanh đã triệt thoái vì bệnh tật, bỏ lại súng, cờ.
Giao cho Chánh xuất đội Bùi Văn Lương giữ đồn với 100 lính. Sau đó
viết thư cho nhà Thanh. Nhà Thanh muốn giảng hòa, hẹn ngày bàn thảo.
(ÐNTLCB, II, 10:284-285).
Tháng 9/1831, sau khi bắt được Ðiêu Doãn An – một thổ tù thân nhà
Thanh, đã xúi quan Thanh chiếm Phong Thu – Vũ Văn Tín rút quân về
Hưng Hóa. Dọc đường, Tín ốm chết. Ngô Huy Tuấn bị bệnh. Hơn 300 biền
binh cũng bị bệnh, ốm chết dọc đường. Dẫn bọn Ðiêu Doãn An, Ðiêu
Doãn Kiên và Ðiêu Doãn Võ về kinh. Dùng Ðiêu Quốc Long, con Quốc
Thuyên, quản trị 2 động Phong Thu và Bình Lự. Nhưng muốn giữ tình
hữu nghị với nhà Thanh, bỏ qua việc 6 châu mất từ đời Lê-Trịnh.
(ÐNTLCB, II, 10:325-327).
Tháng 11/1831, Minh Mạng bỏ tổ chức Bắc thành và 11 trấn. Ðặt tỉnh
hạt từ Quảng Trị trở ra. Hiệu lực từ ngày 2/2/1832. (ÐNTLCB, II,
10:355-73, 394).
Tỉnh Hưng Hóa mới gồm 3 phủ [Qui Hóa, Gia Hưng, An Tây], 5 huyện, 16
châu. [Phủ Gia Hưng là huyện Tam Nông, phủ Sơn Tây cũ].
Tuyên Quang: 1 phủ [Yên Bình], 1 huyện [Hàm Yên], 5 châu [Vị Xuyên,
Thu Châu, Ðại Man, Lục Yên, Bảo Lạc].
Tháng 6-7/1841, Thiệu Trị chấp thuận việc lập phủ Ðiện Biên, kiêm lý
cả châu Ninh Biên, lấy Lai Châu và Tuần Giáo làm thống hạt. (ÐNTL,
CB, III, 23:263-265) Tháng 7-8/1852, Tự Ðức cắt thêm châu Quỳnh Nhai
và châu Luân vào phủ Ðiện Biên. Phủ An Tây chỉ còn 1 châu Chiêu Tấn
[Mường So hay Mường Thu]. (ÐNNTC, IV:285-291 [265-332]).
Dịp này, ranh giới Tuyên Quang cũng định lại: Ðịa phận xã Bình
Di/làng Ðông An (Khai Hoá). Tuần phủ Khai Hóa bí mật sai người tràn
sang lập nhà cửa, đuổi dân cư chạy đi. Phó Kinh lược sứ Ngụy Khắc
Tuần mang quân tới người Thanh mới rút đi. (ÐNTL, CB, IV,
27:349-350).
Từ năm 1848, thổ phỉ và hải tặc Thanh bắt đầu lộng hành ở miền
thượng du. Tình hình nghiêm trọng đến độ sau này Tự Ðức sẽ phải mời
quân Thanh vào tiếp tay diệt phỉ. Ðồng thời “nuôi vỗ” những nhóm thổ
phỉ mạnh, “dĩ phỉ trị phỉ.” Giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng, chẳng hạn,
được giao quyền cai trị và thu thuế ở các tỉnh Hưng Hóa, Tuyên
Quang.
Houston, 20/2/2009
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
|