Gạo chợ, nước sông
"seul l'amour est plus fort que la violence"
Sc. Chân Không.
Vào
những buổi sáng sớm mùa Hè, một làn sương mù trắng mỏng nhẹ nhàng
bao phủ những ngọn đồi xung quanh làng Mai. Trở về từ buổi thiền
hành sáng nay, tôi gặp bé Thơ đang xách một xô nước tưới cho ba cây
mận của bé, thêm chút xíu cho những cây khác trong vườn. Kim Trang
và Thục Hiền đang kéo vòi nước tưới cho những cây mận của các cô.
Đất ở vùng tây nam nước Pháp giữ độ ẩm ướt tốt nên các cây mận nẩy
nở xum xuê hiếm khi cần tưới nước. 1.250 cây mận gợi nhớ lại vào năm
1982, 1983 rất nhiều trẻ em ở phương Tây đã gửi tiền mua cây trồng,
biết rằng một ngày nào đó, mứt mận sấy khô sẽ được bán để mua thực
phẩm và thuốc men giúp trẻ em đói ở Việt Nam. Ngày nay giấc mơ này
đã trở thành sự thực.
Tôi giúp Thơ tưới cây “Thơ cưng, con có nhớ lần đầu tiên khi con đến
làng Mai. Cô đưa con xem hình những em bé ở “vùng kinh tế mới” Việt
Nam, con và các chị của con đã quyết định để dành tiền giúp các thầy
cô trồng mười cây mận. Những cây mận của các con đã nặng trĩu trái
ngay từ lúc các con có ước nguyện giúp đỡ các trẻ em khác, con thấy
không?” Thơ ngước mặt nhìn tôi, miệng nở một nụ cười e thẹn. Bé xinh
đẹp làm sao trong chiếc áo bà ba mầu hồng và chiếc quần lãnh đen,
giống y như một cô bé ở Việt
Nam vậy. Mẹ Thơ đã mua bộ quầo áo đậm nét quê hương này từ
tiệm bán tặng phẩm làng Mai. Thơ về làng Mai mỗi mùa Hè với toàn thể
gia đình từ khi bé mới bốn tuổi. Cả gia đình thực tập chánh niệm với
nhau trong một tháng, và trẻ em được học về văn hoá Việt Nam. Bây
giờ Thơ đã có thể đọc và viết tiếng Việt, nhưng Thơ khác với tôi
thời tôi bằng tuổi bé, và ngay cả cũng khác với các em thiếu niên
mới từ Việt
Nam sang. Mỗi khi Thơ cầm một cuốn sách Pháp văn, bé đọc tự nhiên
như uống một ly nước. Nhưng khi tôi đưa bé một cuốn sách bằng Việt
ngữ, bé liếc nhìn vài trang rồi đặt xuống. Khi Thơ viết thư cho tôi
bằng tiếng Việt, thư rất ngắn, chỉ viết để làm vui lòng tôi. Nhưng
khi bé viết cho bạn bằng tiếng Pháp, thư dài liên tục hàng mấy
trang. Nhìn nụ cười thẹn thùng của Thơ, tôi thấy rõ Thơ không thể
nào là người Việt Nam một trăm phần trăm như Châu được.
Châu là con gái một gia đình ở miền nam Việt Nam tôi giúp đỡ nhiều
năm qua. Ba Châu ở trong trại cải tạo hơn mười năm, và mẹ Châu, một
cán sự y tế, đã bị mất việc khi họ khám phá ra chồng chị làm việc
cho chế độ quốc gia. Khi Châu chỉ mới hai tuổi và anh của bé, Khang,
lên sáu; cả gia đình bị đuổi đi “vùng kinh tế mới“ tận trên rừng
sâu. Một đêm Châu ngã bệnh sốt rét. Mẹ bé cột bé địu trên lưng và
Khang ngồi ở đòn ngang trước xe đạp, chị còng lưng đạp chở cả hai
con đến bệnh viện. Nửa đường, mẹ Châu gặp một người bạn cũ là Thanh,
chị của tôi. Chị Thanh viết thư cho tôi về hoàn cảnh gia đình Châu
và chúng tôi đã gửi một trợ cấp khiêm tốn, đủ để giúp họ sống còn.
Mẹ con Châu về thuê một căn nhà nhỏ ở vùng nghèo nàn của Sài gòn,
chỉ vừa đủ để một cái gường, một cái bàn và một cái lò nhỏ. Mỗi
sáng, mẹ Châu bán cháo và buổi chiều bán chè dạo trên đường phố. Làm
việc quần quật như thế ngày đêm, chị không còn thì giờ để chăm sóc
các con nữa. Nhưng với sự trợ giúp của chúng tôi, Khang đã có thể
đến trường. Tôi thường nhìn đăm đăm tấm hình mẹ Châu gửi sang. Gương
mặt Châu gầy nhỏ, buồn xanh xao và chân bé ốm tong teo như hai cây
sậy. Những thùng thuốc tây tôi gửi về để bán mua gạo và sinh tố cho
Khang và Châu, dường như không giúp hai bé lên được ký lô nào, nhưng
ít ra chúng không bị ngã gục, chết vì bệnh tật như rất nhiều trẻ em
khác ở Việt
Nam.
Từ suy ngẫm về đời sống ngặt nghèo của Khang, Châu; tôi lại nghĩ đến
những người mẹ Việt Nam ở Âu châu. Như những cây tùng bị bứng gốc và
trồng rất xa vùng đất mẹ, họ phải phấn đấu hết sức để bắt rễ vững
chắc vào quốc gia mới. Như mẹ Thơ bị tràn ngập bởi đống công việc
giấy má đơn từ không bao giờ hết mà chị phải hoàn tất bằng một thứ
ngôn ngữ chị không hiểu rõ lắm. Chị làm việc toàn thời để nuôi gia
đình, nấu ăn, giặt giũ, cho các con ngủ, rồi đến trường ca đêm học
Pháp văn. Khi về nhà, dù mệt mỏi rã rời chị lại thu dọn nhà cửa
trước khi đi ngủ. Mỗi sáng, chị thức dậy trước 6 giờ, sửa soạn bữa
ăn sáng và trưa cho các con, rồi mặc bốn năm lớp áo len dầy cộm và
xỏ đôi ủng nặng nề như thách đố với sương tuyết để đón xe buýt đến
sở làm. Chị và chồng chị dùng khoảng thời gian ít ỏi có được vào
cuối tuần để dạy con học tiếng và văn hoá Việt. Bất kể sự cố gắng
của ba má, Thơ đọc tiếng Việt một cách dụ dự, chẳng thích thú gì.
Thơ sẽ không bao giờ trở thành một cô con gái Việt Nam đích thực như
Châu.
Mẹ Châu mỗi sáng gánh hai nồi cháo lớn kĩu kịt trên vai, bán dạo
trên các đường phố Sài gòn, và buổi chiều chị bán chè. Nhưng cho dù
chị bán hết hàng, cũng chỉ vừa đủ tiền để mua gạo muối, than củi và
rau. Chẳng bao giờ chị có một ngày nghỉ “xa xỉ” cuối tuần. Một ngày
không làm việc cùng nghĩa là một ngày không có ăn. Châu và Khang
suốt ngày không ai trông coi. Nhưng chúng sống và lớn lên trong
chiếc nôi của nguồn cội văn hoá Việt Nam, và mẹ chúng không cần làm
gì để dạy bọn trẻ, chúng tự học hỏi mọi thứ. Giống như sông có nước
và chợ có gạo, bọn trẻ tiếp nhận văn hoá của chúng mỗi ngày.
Căn nhà nhỏ của Khang và Châu ở kế bên ngôi nhà lớn của một vị giáo
sư1 trường đại học Sài gòn, và ông cũng bị đưa đi tù cải
tạo giống như ba của Khang và Châu vậy. Tuy nhiên những người con đã
lớn của ông đã có thể giúp đỡ mẹ họ được, và họ cùng nhau cất dấu
những sưu tập, sách vở tài liệu của ông một cách bí mật. Tôi không
thể tưởng tượng nổi bằng cách nào họ đã xoay sở được để dấu những
sách vở đó khỏi mắt của nhà cầm quyền. Nhưng một lần Khang viết thư
cho tôi, nói rằng, “Thưa Cô, con mới đọc Bông hồng cài áo
của Thích Nhất Hạnh, sách thật hay! Con cảm thấy thương má con
hơn sau khi đọc sách đó. Sau đó vài tháng, tôi nhận một thư khác của
Khang “Cô ơi, con vừa đọc Rừng Mắm và Hương vị của Đất.
Cả hai cuốn đều hay quá! Con không hiểu tại sao những sách này lại
bị kiểm duyệt và thiêu hủy.
Ít lâu sau, tôi nhận một lá thư với nét chữ đẹp sắc sảo và nắn nót
của Châu. Bé bảo tôi, “Cô ơi, má con bịnh nặng lắm. Anh Khang phải
đi bán cháo thay má, không thì mất hết khách. Đáng lẽ con đi bán phụ
anh ấy, nhưng Má đau nặng lắm, con không dám để Má ở nhà một mình.
Cô ơi, Mẹ già như chuối chín cây. Má con yếu lắm và
các con rất lo sợ!“. Có thật sự lá thư này đã được viết từ một em bé
sáu tuổi xanh xao gầy ốm, mà đôi mắt kinh ngạc của bé dường như
không thể hiểu thấu được những đắng cay tàn nhẫn của cuộc đời? Bằng
cách nào mà bé biết được câu ca dao thắm thiết “Mẹ già như
chuối chín cây. Gió lay mẹ rụng con mồ côi một mình”? Các
em bé ở làng Mai có viết được như vậy không? Chúng chưa bao giờ nhìn
thấy một cây chuối. Nhưng bé Châu khi nhìn mẹ bệnh nặng, mỏi mòn
kiệt sức, ngay tức khắc bé thấy hình ảnh của trái chuối chín rục và
sắp rớt khỏi cây. Không ai dạy bé điều này. Ý tưởng này đã nẩy sinh
bởi kinh nghiệm và tuệ giác của bé.
Châu viết tiếp, “Mỗi lần Má ho, con lại nghĩ đến ngọn đèn lụi dầu,
chập chờn sắp tắt. Tim con nhỏ lệ, Cô ơi!“. “Ngọn đèn dầu lụi"
– Trẻ em Việt nam ở Âu châu làm sao mà cầu xin tha thiết đến thế
với hình ảnh này? Các em chưa bao giờ sống dưới ánh sáng của một
ngọn đèn dầu và không biết bóng tối hoàn toàn dần bao phủ khi cả dầu
và bấc đèn đều cháy lụi. Trẻ em Việt
Nam ở phương Tây đâu biết rằng, những buổi tối của trẻ em ở Việt Nam
chỉ được thắp sáng bằng một cây đèn dầu tù mù, chập chờn, dễ dàng bị
gió thổi tắt? Vâng, thực vậy, sức khỏe của mẹ bé Châu – với không
tiền, không thuốc men, không bệnh viện – đã như một bấc đèn cạn dầu,
leo lét lụi tàn. Cho dù đã được học tiếng Việt từ mẹ, nhưng Thơ có
thể đọc được thư Châu và hiểu ý nghĩa sâu sắc hình ảnh “ngọn đèn dầu
lụi" này không? Tôi nghĩ rằng không thể nào giảng giải cho Thơ hiểu
nổi cái bóng tối khủng khiếp đe dọa Châu và Khang nếu “ngọn đèn” của
các em phụt tắt.
Thư Châu viết tiếp, “Mỗi ngày khi đi học về, con vo đậu và nạo dừa.
Anh Khang bán cháo về là các con cùng nhau nấu chè. Con vắt nước cốt
dừa đến tối mới xong. Sáng ra, con dậy sớm nấu cháo và xắt cải muối
để anh Khang đi bán. Khi anh về, các con lại bắt đầu nấu thêm cháo
và chè. Chúng con không có thì giờ để học bài. “Trước khi Má bịnh,
các con học bài buổi chiều, sau đó giúp Má nạo dừa và đãi đậu. Khi
xong việc, các con sang nhà chị Hương hàng xóm hỏi mượn một cuốn
sách của ba chị ấy. Sau khi đọc Hương rừng Cà Mau, con thương
mảnh đất miền Nam nước Việt quá và muốn đọc hết các sách của ông Sơn
Nam. Trong thư viện của chị Hương, con tìm thấy cuốn sách mới nhất
của ông, tựa là Cảng Bến Nghé. Nhưng mà con chỉ đọc được đến
trang ba mươi. Lời văn a dua, khô khan như rơm rạ. Con không thể nào
nuốt thêm nổi nữa. Thảo nào mà nó được mở rộng trên kệ sách ở phòng
khách nhà chị Hương. Khi con đọc Thương nhớ mười hai của Vũ
Bằng, cảm tình đối với miền Bắc rất đẹp trong con. Con không giống
các bạn của con, ghét hết những gì từ miền Bắc, chối bỏ hết, vì
những hành vi xấu của một số người miền Bắc; điều này dường như
không đúng lắm, cô có đồng ý với con không? Nhưng mà, thỉnh thoảng
con tự hỏi, miền Bắc đáng yêu của ông Vũ Bằng có còn không? Hay là
miền Bắc chỉ đầy những trại cải tạo với những người tù như Ba?“.
Châu đã dám viết thẳng tuột làm tôi sợ hãi. Nếu bức thư này bị mở ra
khám xét, bé Châu tội nghiệp có thể bị đưa vào trại học tập cải tạo!
Những trẻ em Việt Nam cùng tuổi với Châu ở Âu châu có thể đọc được
những sách như vậy và có nhận xét sáng suốt như thế không?
Tôi nhớ lại lần nữa thành ngữ “Gạo chợ, nước sông”. Cho dù bé Châu
không được học văn hoá từ sách vở như những bài học của Thơ, nhưng
nước và gạo thiên phú của quê hương đã nuôi dưỡng bé. “Nước” và
“Gạo” là văn hoá. Những sách như Bông hồng cài áo, Rừng Mắm, và
Thương nhớ mười hai, ngày nay khó có được ở Việt Nam, vẫn được
tìm hiểu và yêu thích bởi những trẻ em như Khang và Châu. Các em có
sự say mê và được nuôi dưỡng bởi những sách như thế. Mẹ bé Thơ cũng
có Hương rừng Cà Mau, nhưng làm sao Thơ có thể đọc với cùng
một sự thích thú như vậy? hay cô bé thích xem TV và phim video hơn?
Nước sông và gạo chợ phong phú hơn là văn hoá từ sách vở; chúng là
những bài đồng dao bọn trẻ hát ngoài đường, những câu hát ru con ầu
ơ ngọt ngào của bà mẹ quê, và ngay cả những chuyện ngồi lê đôi mách
của các chị ba, chị bảy ở chợ. Bất cứ nơi đâu, trẻ em Việt Nam cũng
gặp gỡ gạo chợ nước sông. Văn hoá bao quanh bọn trẻ. Nước và gạo ở
Việt Nam ngày nay không còn trong sạch nữa mà lẫn lộn với sạn cát.
Nước và gạo tinh sạch, như những cuốn sách hay, đã bị cấm đoán để
nhường chỗ cho những loại nước gạo làm bé Châu cảm thấy như nhai rơm
trấu vô vị khô khốc. Sách của Sơn Nam giờ đây, không còn như khi ông
viết một cách tự do về miền đất dấu yêu của ông trong Hương rừng
Cà Mau. Nếu Châu muốn thưởng thức nước trong và gạo thơm ngon,
bé phải cẩn thận lựa nhặt bỏ sạn, trấu và những hạt gạo mủn mốc.
Những nét đẹp thơm của quê hương chúng ta – chuối chín cây, hoa mai
vàng, và những bài hát ru con – đã bị xen lẫn bởi những gương mặt
gờm gờm lạnh lùng, khó đăm đăm của bọn cán bộ cộng sản trong đồng
phục vàng. Họ nói cùng một thứ tiếng, nhưng giọng nói cộc cằn thô lỗ
của họ như từ một ngôn ngữ nước ngoài nào lạ hoắc. Những người này
đã đối xử với một bậc tài năng học vấn lỗi lạc, hiền lành như ba của
Hương còn tàn tệ hơn một thằng móc túi, thế thì làm sao nước và gạo
không bị nhiễm ô?
Khang viết kể lại lần thứ hai vị giáo sư hàng xóm của cậu bé bị truy
nã: “Mười hai tên cán bộ lùng sục khắp nhà giáo sư vào lúc 2 giờ
sáng, hai tên khác đứng canh trước cửa. Con có thể nghe thấy tiếng
chị Hương nói với bọn chúng, trong khi giáo sư ngồi trong tư thế
ngồi thiền, tĩnh lặng như Bụt với nụ cười nhẹ trên môi. Ngay cả khi
bọn họ áp tải ông ra xe với tay bị còng vào lúc 8 giờ sáng, nét mặt
ông vẫn bình thản, yên lặng. Con chưa bao giờ được nhìn một cảnh
tượng đẹp như thế. Tim con ngập tràn lòng kính thương và ngưỡng mộ.
Ba của con cũng dũng cảm như giáo sư. Ba con cũng sẽ không bao giờ
cúi đầu trước bạo lực. Con đã hiểu vì sao sau mười hai năm, ba vẫn
bị tù“. Việt Nam vẫn còn rất nhiều những cây “Bách hương” xanh tươi
đẹp đẽ như vị giáo sư và ba của Khang. Ta chỉ cần mở to đôi mắt nhìn
chợ vẫn nhiều gạo và những dòng sông vẫn tuôn chảy với nước trong
sạch. Cho dù gạo có bị lẫn nhiều sạn cát, trong đó vẫn còn những hạt
gạo nguyên chất thơm ngon, đủ để nuôi dưỡng những ai biết cách chọn
lựa gạo sạch và sống với sự tỉnh giác hoàn toàn tại quê hương.
Tôi thở vào thật sâu. Ít nhất tôi có vài tấm hình của các trẻ em đói
ở vùng kinh tế mới, để tôi có thể chia sẻ niềm thương xót đó với các
em nhỏ đến làng Mai. Và đã có 1.250 cây mận giúp nối kết các em với
các bạn đồng trang lứa ở Việt Nam. Nhìn vào hình, các em sẽ thấy là
cho dù trẻ em ở Việt Nam ốm o gầy còm và sống trong những mái nhà tranh,
nhưng chúng giống với các em hơn là các bạn chung lớp. Mỗi mùa Hè,
trẻ em Việt Nam từ khắp Âu châu, Mỹ châu và Úc châu có thể đến làng
Mai để khám phá sự giàu có phong phú và sâu sắc của ngôn ngữ, thơ
nhạc và văn hoá gốc của cha mẹ. Những hạt giống bồ đề ở Ấn độ đã và
đang được gieo trồng khắp nơi trên thế giới. Vì những điều kiện của
đất và nước khác nhau, những cây bồ đề vươn mọc hơi khác nhau, vài
cây cao, vài cây thấp. Nhưng mỗi cây đều có chứa tinh chất của cây
bồ đề nguyên thủy. Giờ đây tôi hiểu rằng, nếu trẻ em Việt
Nam sống ở hải ngoại may mắn có được cha mẹ biết sống một cách có ý
thức, các em sẽ lớn mạnh vững vàng, cho dù dưới một hình thái mới.
Các em sẽ là những cây xanh Việt Nam xinh tươi với di sản gốc giàu
có, đóng góp cho khu vườn nhân loại; đang phát đạt ở Pháp, ở quốc
gia Hà lan đất thấp, giữa những rặng núi Thụy sĩ, vùng đất tuyết Đan
mạch, Thụy điển, Na uy và Phần lan; tại nước Đức tài năng và giàu
mạnh; ở Mỹ và Úc những miền đất mới nhiều cơ hội… Lần đầu tiên tôi
có thể quán chiếu để thấy rõ, Việt nam không chỉ là một quốc gia nhỏ
bé mang hình dáng con rồng uốn cong trên biển Trung Nam Hải. Mà hiện
tại là trên toàn thế giới, mở rộng từ Mỹ châu đến Âu châu, và cả
trên đường xuống đến Úc châu.
Sự thách đố, khó khăn ở đây là làm sao để khuyến khích được các bậc
cha mẹ Việt Nam giữ gìn những nét hay đẹp của văn hoá quê hương và
truyền trao cho con cháu. Các bậc phụ huynh cũng nên thích thú với
những gì bọn trẻ học được từ trường và chia sẻ với các em những tập
tục, truyền thống tốt đẹp của miền đất mới. Ta và con em có thể học
hỏi, trân trọng những gì tốt đẹp nhất của phương Tây và tránh xa
những thói hư tật xấu. Chia sẻ như thế sẽ giúp các em tiếp nhận và
yêu mến văn hoá của quê nhà, và vun trồng nền văn hoá ấy một cách
thông minh vào miền đất mới giàu có. Các bậc cha mẹ và trẻ em có thể
nhìn sâu để thấy tại sao tổ tiên ta dành thì giờ để đón chào một
bông hoa mới nở và mừng đón trăng lên. Các em có thể cảm nhận được
trong mình chính là sự tiếp nối của tổ tiên. Các em có thể tìm ra
những phương cách để tiếp xúc được, và chia sẻ tình thương với những
người đói khổ, những người không có tự do. Cũng như những phương
cách để biểu lộ lòng tri ơn thầy cô, ông bà cha mẹ, bạn bè và tất cả
chúng sinh trong những lễ hội truyền thống tại làng Mai. Sống trong
sự tỉnh thức, cha mẹ sẽ không nói hoặc làm gì để các em mất lòng tin
vào dân tộc gốc của mình. Và rồi sẽ có hy vọng là các em sẽ muốn kế
thừa di sản của mình, học ngôn ngữ Việt, cũng như là học Pháp, Đức
và Anh ngữ. Bằng cách này, trẻ em Việt Nam ở hải ngoại sẽ thấu hiểu
được những niềm hạnh phúc tự hào, cũng như những thao thức khổ đau
trong dòng lịch sử 4.000 năm của dân tộc. Không thành vấn đề nữa sự
cố gắng lớn lao của mẹ Thơ. Thơ sẽ khác Châu. Mỗi bé có nét đẹp độc
đáo riêng. Thực tình là Thơ nhìn giống như một cây tùng thanh nhã từ
Thụy sĩ, nhưng đôi mắt đen láy, nụ cười e thẹn và mái tóc tơ huyền
óng mượt của bé như gạo dừa ngọt thơm của quê hương cha mẹ Việt Nam.
Cách nói năng, đi đứng và chào đón bạn của Thơ là những hoa trái của
thương yêu dạy dỗ mà bé đã tiếp nhận được từ ông bà, cha mẹ, cậu dì
và trao truyền từ tổ tiên.
Xin cám ơn sự hiện diện của làng Mai, thế hệ trẻ Việt
Nam đã có cơ hội để thu góp và giữ gìn những hình ảnh của quê hương.
Thật nhiều hy vọng, ở bất cứ nơi nào có người Việt, những nơi chốn
như làng Mai sẽ được thành lập, để trẻ em Việt nam có thể đến và
trao tặng sự sống mới cho những hình bóng của quê hương các em đã
nhạt nhoà dần theo năm tháng. Trân trọng, giữ gìn, học hỏi và đặt
nền tảng vững chắc trên cả hai nền văn hoá cũ và mới, thế hệ trẻ
Việt Nam có thể cùng chúng ta xây dựng sáng tạo khu vườn nhân loại
xanh tươi đẹp mát cho thế kỷ nối tiếp.
Chân Không
Đã đăng trên: PHẬT GIÁO DẤN THÂN - ENGAGING BUDDHISM Issue 05 / 2008
------------------------------
[1] Giáo sư Doãn
Quốc Sỹ.
- Bé Thơ bây giờ
là một thiếu phụ ba mươi đã có chồng, con, hiện là bác sĩ y khoa tại
Hoa Kỳ.
- Anh, em Khang
và Châu hiện đang định cư tại Hoa Kỳ cùng ba mẹ theo diện HO.
|