Mỹ
sơn vang vọng tiếng dân Chàm
Lời đầu: Được các bạn trong nước cho hay ngày họp mặt bạn bè
năm nay được tổ chức tại Đà Nẵng, sẽ có cơ hội tham quan Thánh địa
Mỹ Sơn. Tôi cũng muốn dịp này tản mạn đôi điều mình nghĩ về một quá
khứ không may của một dân tộc. Và dựa theo sử liệu may ra biết được
đôi điều mà lâu nay phần lớn có những cảm nghĩ không hay về dân tộc
đó. Các sử liệu trích đăng trong bài tản mạn này rút ra từ Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Di Tích Chiêm Thành tại Quảng Nam
của Trần Gia Phụng, Oxford Dictionary of World Religion của John
Bower, Việt Sử Đàng Trong của Phan Khoang…
Đây chỉ là cái nhìn hoàn cá nhân, nó không nhất thiết là đúng hay
sai. Hãy nhìn vào những ngôi tháp cổ có lẽ chúng nói nhiều hơn trong
ngôn ngữ của im lặng.

Tháp Dương
Long - Bình Định (photo Đào Tiến Đạt) |
Tôi biết rất ít về người Chàm. Một dân tộc cùng một nước với tôi. Tổ
tiên tôi bị mang tiếng là đã xâm chiếm nước họ và đồng hoá dân tộc
họ. Tôi nghĩ không riêng gì tôi, phần lớn người Việt mình cũng biết
rất ít về người Chàm. Sử ký cũng chỉ ghi lại những nét thật đại
cương: Người Chàm (Champa hay Chiêm Bà) lập quốc năm 192 từ vùng đất
phía nam dãy Hoành sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) đến đất Bình
Thuận ngày nay. Ngày xưa Trung Hoa gọi Chàm là Lâm Ấp (Lin Yi) kinh
đô ở Trà Kiệu, Quảng
Nam.
Đó là kinh thành Simhapura. Đến năm 758 sử Trung Hoa không còn gọi
nước này là Lâm Ấp mà đổi tên là Hoàng Vương (Huan Wang). Tôi không
hiểu người Tàu lại đổi tên nước trong khi họ đã có cái tên của họ là
Champa, mà đúng ra là Champadura. Đó là một danh từ có gốc Phạn ngữ,
một ngôn ngữ cổ Ấn Độ thời Đức Phật (năm 560 trước công nguyên).
Champapura, Champa hay Chàm người Việt phát âm trại ra, là đúng nhất
vì văn hoá của dân tộc Chàm là văn hoá ảnh hưởng Hồi Giáo về sau là
Phật Giáo Ấn Độ sau này. Các công trình kiến trúc đền tháp, những
điêu khắc còn đến bây giờ mang dấu ấn của một nền văn hoá lấy tiếng
Phạn làm quốc ngữ.
Cuộc đụng độ đầu tiên giữa Việt
Nam
và Chiêm Thành xảy ra vào năm 982. Nguyên vào năm 979 tướng Lê Hoàn
đảo chánh lật đổ nhà Đinh, tự lên làm vua. Vua Lê trị vì từ năm 980
– 1005 sai Từ Mục và Ngô Tử Cảnh đi sứ sang Chiêm Thành giao hảo.
Vua Chiêm là Paravemecvaravarman lại bắt sứ giả. Lúc đó Lê Hoàn còn
bận đối phó với quân nhà Tống sang xâm lăng nên chưa hỏi tội Chiêm.
Sau khi đẫy lui quân Tống, Lê Hoàn tự thân chinh sang phạt Chiêm năm
982. Vua Chiêm bị giết ngay trong lần giao tranh đầu. Lê Hoàn vào
thành Indrapura đốt phá rồi rút quân. Khởi từ đó Việt-Chiêm có sự
xích mích. Nước Việt ngày càng hùng mạnh, đất đai cần được mở mang
cho nên không tránh khỏi chuyện lấn đất.
Các vua Chiêm đời sau dời kinh đô về phía
Nam
để bớt áp lực của người Việt. Từ kinh đô Indrapura họ dời xuống vùng
Vijaya (Đồ Bàn) năm 1000. Như thế từ thế kỷ thứ 10 trở về trước
Quảng
Nam
là kinh đô của Chiêm Thành, và kinh thành là Simhapura. Simha nghĩa
là Sư Tử, Pura là kinh thành. Kinh thành này nằm ở Trà Kiệu, thành
lập vào hậu bán thế kỷ thứ 4 dưới triều đại vua Bhadrabarman. Trà
Kiệu thuộc huyện Duy Xuyên, cách Đà Nẵng 40 km về phía tây nam. Và
gần kinh đô Simhapura (Trà Kiệu) là một quần thể kiến trúc của thánh
địa Mỹ Sơn, nay còn khá nhiều hiện vật và những đền tháp. Mỹ Sơn
cách Đà Nẵng về phía tây nam 68km, một vùng thung lũng thuộc huyện
Duy Xuyên, từ Simhapura đi sâu về phía tây dưới 30km. Tại đây trước
có khoảng 70 đền tháp, nay bị tàn phá hiện còn khoảng 20 tháp có thể
nhận dạng kiến trúc nguyên thủy.
Chiêm Thành có hai thánh địa chính; thánh địa Mỹ Sơn thuộc tộc Cây
Dừa, thánh địa Po Nagar (Tháp Bà Nha Trang) thuộc tộc Cây Cau. Thánh
địa Mỹ Sơn cũng do vua Bharavarman xây dựng vào hậu bán thế kỷ thứ
4, thờ thần Siva Bhadresvana, một cái tên đã nhắc nhở đến người sang
lập ngôi đền. Thần Bhadresvana trong thánh địa được tiêu biểu bằng
một lingam (dương vật) tượng trưng cho thần Siva. Các đền tháp ở đây
bị tiêu huỷ phần lớn do trận hỏa hoạn xảy ra vào thế ky thứ 6.
Mỹ Sơn là thánh địa nên mỗi khi lên ngôi các vua mới Chiêm Thành
thường về đây làm lễ “thánh tẩy”, cúng dâng lễ vật cho thần linh phù
hộ nhà vua và vương quốc. Các tác phẩm điêu khắc tượng trưng cho các
thần linh được tập trung về cổ tàng viện Chàm ở Đà Nẵng.
Ủy Ban Di Sản thế giới của tổ chức Unesco Liên Hiệp Quốc đã công
nhận thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
Đó là những nét đại cương mà tôi tìm hiểu Mỹ Sơn qua các tài liệu
lịch sử như Xứ Việt Đàng Trong của Phan Khoang và những tài liệu tôi
đã trình bày ở phần đầu. Trong bài tản mạn này tôi không có ý “chép
sử” mà muốn gởi gắm đôi cảm nghĩ về quá khứ sáng lạng của một dân
tộc có một nền văn hoá rất nhân bản, nhưng không may đã đang đi dần
vào lãng quên. Cái nhìn phần lớn của người Việt mình với người Chàm
như không mấy công bằng và có khuynh hướng kỳ thị. Như cuộc tình
duyên giữa Huyền Trân Công Chúa với Chế Mân, trong dân gian mình có
câu thơ:
Uổng cho cây quế giữa rừng
Để cho thằng Máng thằng Mường nó vin.
Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308) lên ngôi năm 20 tuổi. Ở ngôi vua 21
năm, nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia đi tu lập nên
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Một minh quân khi ở ngôi trời xây dựng
đất nước Đại Việt cường thịnh, đánh dẹp giặc Bắc phương, ổn định Nam
phương với láng giềng Chiêm Thành. Khi xuất gia lại là một danh
tăng, tạo dựng một thiền phái nỗi tiếng Trúc Lâm Yên Tử. Một ông vua
có tài và có đức như vậy mà đem gả con gái mình cho vua Chiêm không
phải chỉ là việc làm để mưu cầu một nền hoà bình với nước Chiêm
Thành không thôi mà nó có tính chất “môn đăng hộ đối” nữa.

Tháp Cánh
Tiên - Bình Định (photo Đào Tiến Đạt) |
Tháng Ba năm 1301 Trúc Lâm đi Chiêm Thành để quan sát tôn giáo tại
đây. Vua đi với tư cách một du tăng chứ không phải là một Thái
Thượng Hoàng của nước Đại Việt, có một số tăng sĩ tuỳ tùng. Vua đã
lưu lại kinh đô Trà Bàn đến mười một tháng. Trong thời gian lưu lại
Chiêm Thành Trúc Lâm đã đàm đạo với vua Chiêm là Chế Mân (Harijit)
và Chế Mân đã tiếp đón ngài như một Thượng hoàng của một nước giàu
mạnh láng giềng. Chế Mân muốn thỉnh ngài về dinh Quốc khách nhưng
ngài từ chối cho rằng mình đã là một sơn tăng nên chỉ ở chùa. Và Chế
Mân thỉnh ngài về quốc tự ở kinh đô Trà Bàn. Ngài đã tìm hiểu về nếp
sống văn hoá, phong tục của vương quốc này và đem lòng yêu mến ông
vua Chàm còn trẻ tuổi và can trường ấy. Chế Mân lúc bấy giờ đã ba
mươi bảy tuổi, vương hiệu là Jaya Simhavarman Đệ Tam. Chính nhờ vào
đảm lược của chàng mà Chiêm Thành đã phá vỡ được âm mưu xâm lăng của
Hốt Tất Liệt.
Mười một tháng ở đất Chiêm chắc chắn ngài chu du nhiều nơi trong
vương quốc và tìm hiểu sâu sắc một nền văn hoá đậm màu sắc văn minh
Ấn mà ta còn tìm thấy trong các công trình kiến trúc chạm trổ ở các
đền tháp và điêu khắc. Kinh đô Trà Bàn lúc bấy giờ chắc là phồn
thịnh chẳng kém gì Thăng Long. Cho nên trước khi về nước, ngài Trúc
lâm đã hứa gả con gái cho Chế Mân, nhưng với điều kiện Chế Mân phải
chờ đến năm năm nữa, vì lúc bấy giờ Huyền Trân mới mười ba tuổi.
Sính lễ của vua Chàm là hai châu Ô Lý.
Cuộc tình duyên giữa vua Chiêm và công chúa Huyền Trân tiếc thay lại
rất ngắn ngủi. Bà về với vua Chiêm tháng 6 năm 1006 đến tháng 5 năm
1007 vua Chiêm mất. Tục lệ nước Chiêm vua băng hà thì Hoàng hậu phải
lên hỏa đàn để chết theo. Vua Anh Tông liền sai Trần Khắc Chung sang
lấy cớ làm lễ viếng tang rồi tìm cách cứu công chúa về. Mối ban giao
Chiêm-Việt cũng dứt từ đây với mối tình Huyền Trân-Chế Mân.
Biểu tượng văn hoá Chàm còn đầy dẫy di tích từ Quảng Nam (Mỹ Sơn,
Trà Kiệu) Bình Định (tháp Bánh Ít) Nha Trang (tháp Bà Po Nagar) Phan
Rang (tháp Chàm) và dọc quốc lộ 1 ta còn thấy nhiều tháp khác đứng
riêng rẽ bên đường. Những đường nét điêu khắc ảnh hưởng đậm nền văn
hoá Cổ Ấn Độ. Các cổ tháp xây dựng từ những thế kỷ thứ 4 và thứ 5.
Đến nay nhiều ngôi tháp còn đứng vững với thời gian, qua không biết
bao nhiêu tàn phá của con người. Cái dáng đứng và những nét nghệ
thuật tuyệt mỹ nói lên một nền văn minh cao, kỹ thuật cao của người
Chiêm đâu có thể gọi là “thằng Mán thằng Mường” được.
Tháng 11 năm 2004 nhân chuyến hành hương Ấn Độ qua các thánh tích
Phật giáo như Bồ Đề Đạo Tràng, Tu viện và bảo tàng Lộc Uyển, đại học
cổ Nalanda… tôi đã được nhìn thấy nghệ thuật điêu khắc tượng gần
giống như các tượng được trưng bày ở Cổ tàng viện Đà Nẵng bây giờ.
Có khác nhau là thời gian. Tại bảo tang viện Lộc Uyển (Vasarnath) có
những tượng Phật hay các vị Bồ Tát từ thời vua Ashoka (hơn 300 năm
trước Tây lịch) trong khi nước Chiêm Thành thành lập từ cuối thế kỷ
thứ 2 sau Tây lịch. Kinh đô Simhapura ở Trà Kiệu, các đền tháp và
các công trình kiến trúc có thờ ba vị thần của Bà La Môn là Brahma
Siva và Vishnu và nhiều tượng sư tử. Sư tử là biểu tượng ở thời
Ashoka. Vua Ashoka đã xây nhiều trụ đá ghi khắc những lời giáo huấn
của Đức Phật. Trên mỗi trụ đá luôn luôn có tượng đầu sư tử. Nỗi
tiếng nhất là tượng sư tử bốn đầu dựng ở Vườn Lộc Uyển để đánh dấu
nơi Đức Phật thuyết kinh đầu tiên Bốn Sự Thật (Tứ Diệu Đế) cho ba
anh em ông Kiều Trần Như, là những người đồng tu khổ hạnh với Ngài
những năm trước khi thành Phật. Cho nên khuynh hướng khắc tượng đầu
sư tử là dấu hiệu chứng tỏ người Chiêm chịu ảnh hưởng nhiều văn hoá
Ấn.
Thánh địa Đồng Dương không xa Mỹ Sơn và Trà Kiệu, cách Đà Nẵng 53km
về hướng
Nam.
Nhiều tài liệu cũ cho rằng một thời gian là kinh thành Indrapura.
Dựa vào một tấm bia phát hiện tại đây cho thấy rằng đền tháp Đồng
Dương được đặt tên là Laksmindra Lokesvara, do vua Indravarman II
xây dựng năm 875 để thờ Dharma (Phật pháp). Vì vậy thánh địa Đồng
Dương được xem là một Phật học viện của người Chiêm Thành.
Indravarman II là vương hiệu, tên thật của vua là Laksmindra
Bhumisvara. Nhà vua còn có tên thụy là Parabuddhaloka. Các danh từ
này cho thấy sự hiện diện tên của hai vị thần Bà La Môn là Indra và
Laksmi và hai vị Phật (Buddha) và Lokesvara chữ tắt của
Avalokitesvara: Bồ Tát Quán Thế Âm. Các tượng Phật và Bồ Tát bằng
đồng và sa thạch phát hiện tại đây cho thấy Đồng Dương đúng là Phật
Đường của các vua Chiêm.
Tổng thể kiến trúc Đồng Dương là một Phật Đường chính lớn, chung
quanh có những đền nhỏ thờ các vị vua Chiêm đã hiển thánh, các tăng
viện, các bảo tháp. Năm 1978 tại đây người ta phát hiện một pho
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát bang đồng cao 1m14 với đôi mắt long lanh
bằng ngọc trên gương mặt phúc hậu. Đây là một nguyên bản hiếm quí,
trong lần tham quan năm 2004 tôi được chiêm ngưỡng.
Theo những sử liệu trên đây cho thấy nền văn hóa Chiêm Thành chịu
ảnh hưởng văn hoá cổ Ấn Độ qua hai nguồn tâm linh Bà La Môn và Phật
Giáo. Người dân đã tiếp nhận một nguồn tâm linh nhân hậu và cao siêu
của đạo Bụt, ở hiền gặp lành, nhân quả. Giới vua chúa là những người
sùng bái đạo Bụt thì ta có thể hình dung một dân tộc sống chuộng hoà
bình. Trong lịch sử Đại Việt chỉ có triều vua Trần Nhân Tông có
khuynh hướng sống chung hoà bình với nước láng giềng phương
Nam
lâu dài. Khuynh hướng đó thấy rõ trong việc gả con gái mình cho vua
Chế Mân. Tiếc thay mối tình Chiêm Việt quá ngắn ngũi chưa đầy một
năm, tình “sui gia” chưa được bền chặt. Chế Mân chết Huyền Trân được
giải thoát khỏi hoả đàn. Sau khi Trúc Lâm Đại Sĩ (Trần Nhân Tông)
tịch lức 53 tuổi, vua Trần Anh Tông với sự cố vấn của các thượng
quan Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung đã bỏ chính sách giao hảo mà
theo đuổi con đường xâm chiếm đất đai. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
nói rằng sở dĩ có cuộc chinh phục vì vua Chiêm là Chế Chí phản trắc.
Hai quốc gia có cùng một truyền thống tâm linh, lịch sử cho thấy các
nhà sư Ấn Độ đã vào nước ta từ thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch và các
Thầy đã đi vào phía
Nam
để truyền đạo. Một chứng tích sử liệu còn ghi lại rằng năm 1069 vua
Lý Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành, chiếm các châu Địa Lý
(phủ quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) và Bố Chánh (các huyện Bình Chánh,
Minh Chánh và Bố Trạch thuộc Quảng bình ngày nay). Sách An Nam Chí
Lược của Lê Tắc nói rằng khi quan quân Đại Việt rút về nước có bắt
về một số tù binh. Những tù binh này được phân phối trong các phủ bộ
để làm phục dịch, sai bảo, quét dọn. Một tù binh được chia cho một
vị tăng lục, một chức vụ trông coi về tăng sự. Một hôm vị tăng lục
đi vắng, người nô bộc vào quét dọn trong phòng vị quan này, lật xem
thử những bản ngữ lục thiền học chép tay trên bàn chủ, thấy nhiều
chỗ sai chịu không được, cầm bút chữa lại. Khi về vị tăng lục khám
phá ra bản chép tay của mình có ai chữa nhiều chỗ. Rất lấy làm ngạc
nhiên và đem tự sự tâu lên vua. Vua cho dẫn tên nô tộc lên hỏi mới
khám phá ra đó là thiền sư Thảo Đường, nhân đi qua Chiêm Thành
truyền giáo mà bị bắt. Khâm phục về sức học và đạo đức của thiền sư,
vua liền phong Thảo Đường làm Quốc Sư. Thiền học của Thảo Đường cũng
có những giác sắc lạ, do đó một thiền phái được thành lập ở nước ta
lấy tên là thiền phái Thảo Đường. Thiền sư Thảo Đường trú trì ngay
tại chùa Khai Quốc ở kinh thành Thăng Long. Thiền phái này có ảnh
hưởng sâu đậm trong giới trí thức và vua chúa kinh đô.
Cuộc chiến Nam Tiến chẳng đặng đừng, ông cha ta cảm thấy đất đai nhỏ
hẹp, phương Bắc luôn luôn bị giặc gây hấn, không còn lối thoát nào
hơn là bành trướng về
Nam.
Người Chiêm âm thầm ra đi, mòn dần. Cho đến ngày nay không biết còn
bao nhiêu, nhưng họ vẫn âm thầm, âm thầm như những bóng tháp đổ dài
cùng năm tháng. Một ngày nào đó xin được đứng dưới những toà cổ tháp
để chúng ta được nghe kể chuyện tiếp.
Nguyễn Thế Hà |