Điểm tin thời sự ngày 6.4.2014 |
Thời sự 2013:
10 |
9 |
8 |
7 |
6 |
5 |
4 |
3 |
2 |
1
|
Ý tưởng
đối thoại tay ba Ấn-Nhật-Việt
Các tiến trình đối thoại
Trung Quốc-Hàn Quốc-Nhật Bản, Ấn Độ-Nhật Bản- Mỹ, Ấn Độ-Nhật
Bản-Australia nằm trong số những cuộc đối thoại tay ba ở một chừng mực
nào đó đã có hữu ích. Tiến trình đối thoại tay ba mới đây nhất được Ấn
Độ-Nhật Bản-Hàn Quốc khởi xướng, theo đó, Ấn Độ đã đăng cai vòng đối
thoại đầu tiên, tiếp đến Nhật Bản đăng cai, là một tiến trình hữu ích
nhằm tìm kiếm hòa bình. Tiến trình này bắt đầu ở cấp độ kênh II (Track
II) hồi tháng 6/2012 sau một loạt cuộc họp giữa các nhà ngoại giao và
viện sĩ của ba nước.
Những diễn biến mới đây tại châu Á đã gợi lên nhu cầu thăm dò một cuộc
đối thoại tay ba tương tự hoặc theo cấp độ kênh II hoặc kênh 1,5
(Track 1.5) giữa Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam. Điều lý tưởng là sáng
kiến đầu tiên sẽ được tổ chức ở cấp độ Track II song do eo hẹp về tài
chính nên bộ ngoại giao ba nước có thể cấp ngân sách để bắt đầu lộ
trình ở Track 1,5. Vấn đề nổi lên là tại sao lại nên có cuộc đối thoại
tay ba Ấn- Nhật-Việt? Câu trả lời không khó. Ba nước này có nhiều điểm
chung trong quan điểm về an ninh khu vực. Thương mại hàng hải là cân
nhắc quan trọng nhất đối với cả ba nước bởi phần lớn thương mại quốc
tế hiện nay là trên biển; hợp tác hải quân giữa ba nước để bảo đảm an
toàn giao thông liên lạc của các tuyến hàng hải là điều quan trọng
nhất. Có nhiều điểm nóng tại khu vực châu Á, quan trọng nhất là quần
đảo Trường Sa (Spartly) và cả toàn khu vực Biển Đông (South China
Sea), nơi được cho có nhiều nguồn tài nguyên. Nhiều nước tranh chấp
chủ quyền trên vùng biển này và đã xác định các vùng kinh tế đặc
quyền.
Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông đe dọa đến hòa
bình và bình yên của khu vực. Xét trên khía cạnh nhu cầu tài nguyên để
phát triển kinh tế của Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam, việc thăm dò các
nguồn tại Biển Đông trong khuôn khổ hợp tác là điều đáng ao ước. “Liên
doanh hợp tác” này nằm trong phạm vi khu vực Biển Đông mà Việt Nam
tuyên bố chủ quyền, song có vẻ Trung Quốc quyết tâm ngăn chặn điều này
xảy ra. Một tiến trình đối thoại tay ba giữa ba nước sẽ góp phần đáp
ứng những mục tiêu chung của họ. Ngoài vấn đề an ninh hàng hải, có
nhiều vấn đề an ninh không truyền thống khác có thể được thảo luận
trong một diễn đàn như vậy. Những vấn đề như thay đổi khí hậu, nạn phá
rừng, an ninh mạng, nguồn nước, tình trạng môi trường xuống cấp, v.v…
là những lĩnh vực ảnh hưởng đến tất cả các nước và cần tìm bối cảnh
chung để giải quyết.
Tại xuất phát điểm, ba cơ quan nghiên cứu của ba nước có thể được chỉ
định tham gia đối thoại; các quan chức bộ Ngoại giao có thể được mời
tham luận chính; các viện sĩ và chuyên gia phân tích an ninh từ các cơ
quan nghiên cứu được chỉ định và cả ngoài những cơ quan này có thể
tham gia tiến trình thảo luận kín nhằm tìm những vấn đề chung (common
grounds). Cuối tiến trình thảo luận, họ có thể đưa ra những đề xuất để
chính phủ có thể đưa vào chính sách. Điều gì làm nảy sinh ý tưởng đối
thoại tay ba Ấn-Nhật- Việt?
Tầm quan trọng của Ấn Độ Dương
Theo Phó Đô đốc hải quân Nhật Bản Hideaki Kaneda, eo biển
Malacca-Singapore là tuyến giao thông huyết mạch của các nước Đông Bắc
Á, trở thành “gót chân Achilles” trong nền kinh tế thế giới. Do đó,
cần có cái nhìn sắc bén về khái niệm một liên minh tay ba và sau đó là
một liên minh an ninh nhiều bên nhằm bảo vệ các tuyến giao thông đường
biển (SLOCs) và những vấn đề chung toàn cầu trong khu vực châu Á. Tầm
quan trọng chiến lược của eo biển Malacca quá lớn, đến nỗi việc bảo vệ
nó đã nổi lên thành tính toán chính yếu trong chiến lược của những
nước bị đe dọa về lợi ích kinh tế. Nguy cơ cướp biển và chủ nghĩa
khủng bố hàng hải luôn là trọng tâm trong những cân nhắc chiến lược
của họ. Hàng năm có khoảng 50.000 tàu thủy quá cảnh qua eo biển
Malacca và chuyên chở hơn 1/4 lượng hàng hóa của thế giới vận chuyển
bằng đường thủy, đồng thời chiếm 1/2 toàn bộ khối lượng thương mại của
Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Khoảng 50% số tàu chở dầu của thế
giới đi qua Ấn Độ Dương và eo biển Malacca-Singapore là tới ba nước ở
Đông Bắc Á này. Yếu tố quan trọng đó đã nảy sinh sáng kiến đối thoại
tay ba Ấn-Nhật-Mỹ. Mặc dù cuộc đối thoại đã chứng tỏ thành công, diễn
đàn này phải gánh vác thêm trách nhiệm bằng cách tình nguyện tham gia
bảo vệ SLOCs ở khu vực Đông-Tây Ấn Độ Dương. Điều này có nghĩa là sáng
kiến ba bên phải hướng tới giai đoạn tiếp theo về xây dựng một đối tác
hàng hải ba bên nhằm giải quyết vấn đề an ninh hàng hải.
Có sự khó chịu ngày càng tăng tại các nước châu Á về hành động leo
thang hàng hải hiếu chiến của Trung Quốc, do đó, cần khẩn cấp thúc đẩy
sự hợp tác giữa các nước châu Á để đối phó với thách thức từ Bắc Kinh.
Cũng có một số nước khác ở châu Á có thể tham gia sáng kiến này. Các
nước như Việt Nam, Philippines, Singapore, Malaysia, Brunei và các
nước khác có quyền lợi bình đẳng trong bảo vệ thương mại hàng hải của
họ. Tuy nhiên, không cần sự can thiệp tực tiếp của chính phủ và liên
minh này không cần thiết một hiệp định, hiệp ước hoặc công ước quốc
tế. Hệ thống đa phương này dựa trên sự tin cậy lẫn nhau có thể giải
quyết vấn đề chung toàn cầu và do đó vấn đề an ninh hàng hải khu vực
có thể được giải quyết một cách thích hợp.
Thương mại trên biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
của nhiều nước châu Á. Tầm quan trọng chiến lược của Ấn Độ Dương có
thể được giải mã từ thực tế rằng sự phát triển của khu vực gắn liền
với vùng biển này. Các nước ven bờ Ấn Độ Dương có tới 2,6 tỷ người,
chiếm gần 40% dân số thế giới. Ấn Độ Dương là vùng biển lớn thứ ba thế
giới, đồng thời là nơi có nguồn năng lượng và tuyến giao thương hàng
đầu thế giới. Lưu lượng thương mại lớn toàn cầu đi kèm với những vấn
đề nổi lên như hoạt động khủng bố, cướp biển đã trở thành thách thức
an ninh chung của tất cả các nước ven biển. An ninh của Ấn Độ Dương
trở thành trung tâm của các nền kinh tế lớn ở châu Á vốn phụ thuộc vào
an ninh của SLOCs. Do đó, họ phải hợp tác để tăng cường cấu trúc an
ninh khu vực. Sự liên kết kinh tế thúc đẩy các nước lớn phối hợp với
nhau về an ninh hàng hải. Ấn Độ Dương là tuyến hàng hải đường dài quốc
tế quan trọng nhất của thế giới và nằm trong số các tuyến thương mại
toàn cầu nhộn nhịp nhất. Có tới 70% số tàu chở dầu thế giới đi qua Ấn
Độ Dương trên đường từ Trung Đông tới Thái Bình Dương; 50% số tàu
container và 20% khối lượng thương mại của Australia đi qua Ấn Độ
Dương.
Tỷ trọng cung ứng năng lượng thế giới đi qua các điểm giao thông quan
trọng, trong đó có eo biển Malacca, eo biển Hormuz và kênh đào Suez
Canal sẽ tăng trong những năm tới. Các nền kinh tế khu vực châu Á đã
trở nên thịnh vượng nhờ thương mại trên biển, do đó họ cùng chung
trách nhiệm bảo đảm cho các tuyến hàng hải thông thương. Bất cứ mối đe
dọa nào đối với an ninh thương mại tại Ấn Độ Dương đều gây tổn thương
chiến lược. Ấn Độ Dương đã trở thành trung tâm thương mại quan trọng
đối với các nước lớn trên thế giới. Chẳng hạn 85% khối lượng nhập khẩu
dầu mỏ của Trung Quốc đi qua Ấn Độ Dương. Trung Quốc đang tăng cường
quan hệ với nhiều nước ven biển này, coi như cách thức củng cố lợi ích
thương mại, năng lượng và kinh tế của họ trong khu vực. Trung Quốc
đang tăng cường vị trí của mình trong vấn đề an ninh và đẩy mạnh quan
hệ với các nước chủ chốt trong khu vực. Song cách thức đó đã làm nổi
lên những vấn đề khó chịu. Ngoài việc thể hiện tính hiếu chiến về vấn
đề lãnh thổ, Bắc Kinh có vẻ hướng tới mục đích viết lại các nguyên tắc
toàn cầu theo những điều khoản riêng của họ.
Khi các nền kinh tế khu vực tiếp tục phát triển, sẽ có sự cạnh tranh
lớn hơn để giành các nguồn tài nguyên cho sự phát triển bền vững. Do
đó, tầm quan trọng chiến lược của Ấn Độ Dương sẽ tăng thêm nhiều trong
những năm tới. Nhiều thế lực hải quân lớn có thể tăng sự cạnh tranh về
lợi thế chiến lược trong khu vực biển quan trọng này. Tăng trưởng kinh
tế và chi tiêu quốc phòng ngày càng tăng của Trung Quốc là nỗi lo sợ
của những nước nhỏ hơn tại châu Á, khiến họ tìm bối cảnh chung để bảo
vệ lợi ích quốc gia của mình. Nhân tố Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy
các nước khác ở châu Á tìm kiếm sự ổn định khu vực và một trật tự an
ninh dựa trên các nguyên tắc. Điều kiện tiên quyết cơ bản để bảo đảm
trật tự an ninh có nguyên tắc là tôn trọng nguyên tắc về luật thương
mại toàn cầu. Một môi trường hòa bình trên biển đã giúp các nền kinh
tế khu vực phát triển liên kết kinh tế, đóng góp cho sự thịnh vượng
của khu vực.
Vai trò của Ấn Độ
Ấn Độ là thế lực có ảnh hưởng nhất tại Ấn Độ Dương. Sự hiện diện hải
quân của Ấn Độ tại khu vực Ấn Độ Dương sẽ trấn an các nước láng giềng
nhỏ hơn ở châu Á. Là nền dân chủ lớn nhất thế giới, Ấn Độ chia sẻ
nhiều giá trị và hệ thống cơ bản chung với Nhật Bản và các nước khác,
chẳng hạn như vấn đề tự do, dân chủ và kinh tế thị trường. Từ khi
chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường đầu những năm 90
của thế kỷ XX, Ấn Độ đã có những bước nhảy vọt nhanh chóng, liên kết
nền kinh tế của mình với kinh tế thế giới và đạt được tỷ lệ tăng
trưởng cao bằng cách khai thác công nghệ thông tin chất lượng cao và
sức mạnh tri thức. Được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ, Ấn Độ đã tăng cường hoạt động ngoại giao nhiều mặt và do đó tăng
cường sự hiện diện của mình trong cộng đồng quốc tế.
Trong khi theo đuổi chính sách “hướng Đông”, Ấn Độ đã có một kế hoạch
tham vọng về phát triển sự kết nối đường bộ từ khu vực Đông Bắc nước
này tới khu vực Đông Nam Á đi qua Myanmar. Đây là một dự án ưu tiên
của Thủ tướng Manmohan Singh, song không đạt được nhiều tiến bộ trong
nhiệm kỳ thứ hai của ông. Do sự kém hiệu quả của dự án này nên Ấn Độ
ngày càng phụ thuộc vào SLOC để đi tới các nước khác trong khu vực.
Bất cứ sự rối loạn hoặc căng thẳng nào về an ninh hàng hải đều ảnh
hưởng nghiêm trọng đến kinh tế và an ninh của khu vực và Ấn Độ phải có
trách nhiệm ngăn chặn.
Vai trò của Ấn Độ-Nhật Bản -Việt Nam
Với những bối cảnh như đã nêu trên, có nhiều điểm bổ sung trong lĩnh
kinh tế và chiến lược giữa ba nước Ấn-Nhật-Việt và trong bối cảnh
thách thức từ Trung Quốc, bắt buộc ba nước này phải xây dựng một đối
tác chiến lược có mục tiêu mạnh mẽ. Thời điểm đã thích hợp bởi các lực
lượng Mỹ tại Afghanistan và Iraq bắt đầu rút quân và Tổng thống Obama
đã triển khai chính sách “trục châu Á” nhằm tái cân bằng quan hệ với
các đối tác của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc, Ấn
Độ và Nhật Bản hiện là những nước tiêu thụ năng lượng nhiều nhất châu
Á, do đó có sự cạnh tranh và tranh giành về nguồn tài nguyên này và
không có gì bảo đảm rằng cuộc cạnh tranh sẽ lành mạnh. Tại thời điểm
quan trọng này của lịch sử, Mỹ cần phát triển năng lực lớn hơn để thể
hiện vai trò chỉ huy trên các tuyến hàng hải và sẵn sàng hoạt động
trong những khu vực tranh cãi (contested zones) sao cho giảm thiểu
hoặc thậm chí tránh được đối đầu. Sáng kiến đối thoại tay ba
Ấn-Nhật-Mỹ đã được triển khai; đối thoại Ấn-Nhật-Hàn ở cấp Track-2 đã
bắt đầu; hiện cần triển khai sáng kiến đối thoại tay ba Ấn-Nhật-Việt,
Ấn-Việt- Inđônêxia. Những sáng kiến như vậy có thể góp phần thúc đẩy
tiến trình xây dựng lòng tin trong khu vực.
Trung Quốc có cái nhìn hằn học khi quan hệ Ấn-Mỹ được tăng cường.
Tương tự như vậy, khi Ấn Độ và Nhật Bản củng cố quan hệ chiến lược và
kinh tế, Bắc Kinh coi đây như một âm mưu chống lại Trung Quốc. Trong
khi Nhật Bản trước đây và dưới thời Thủ tướng Abe đang đẩy mạnh quan
hệ với ASEAN bằng cách tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại, quan
hệ của Ấn Độ với các nước ASEAN cũng được tăng cường. Liệu sự nổi lên
của Trung Quốc có thúc đẩy Ấn Độ-Nhật Bản và Việt Nam xây dựng một đối
tác ba bên hay không là điều không quan trọng, mà quan trọng là ba
nước này có lợi ích chung để xây dựng một mối quan hệ đối tác góp phần
thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng của châu Á. Đối với Ấn Độ, Việt Nam
là cửa ngõ thích hợp để hướng tới sự can dự chiến lược lớn hơn với các
nước ASEAN.
Trong bối cảnh hàng loạt vấn đề căng thẳng giữa Trung Quốc với các
nước láng giềng nhỏ hơn ở châu Á, và cho dù Mỹ cam kết ủng hộ và bảo
vệ các đồng minh của họ trong thời điểm khủng hoảng, hiện có vẻ một
kiểu Chiến tranh Lạnh bắt đầu hình thành tại khu vực châu Á-Thái Bình
Dương giữa một bên là Mỹ cùng đồng minh của Mỹ và bên kia là Trung
Quốc. Mặc dù phát triển về kinh tế, thậm chí ngay cả khi kinh tế châu
Âu giảm sút, khu vực châu Á chưa đoàn kết về mặt chính trị, do đó
Trung Quốc có thể tìm môi trường thích hợp để khai thác và thực hiện ý
đồ đã được xác định là lợi ích quốc gia của họ. Sự lựa chọn đối với Mỹ
là duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc bởi Bắc Kinh nắm giữ nhiều trái
phiếu Mỹ, do đó có khả năng đẩy nền kinh tế Mỹ vào khó khăn nếu họ
quyết định rút khỏi thị trường trái phiếu hoặc tăng cường quan hệ
chiến lược với các nước như Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam.
Với tình hình căng thẳng tăng lên ở châu Á do tuyên bố chủ quyền lãnh
thổ về các vùng tranh chấp, dù có vẻ không thể xảy ra một cuộc xung
đột ngay lập tức, song tình trạng khó chịu tiếp tục không phải là điều
hay đối với lợi ích của bất cứ nước nào. Khi Ấn Độ tiếp tục hướng tới
sự liên kết kinh tế với các nền kinh tế châu Á thông qua chính sách
“hướng Đông”, thời điểm đã thuận lợi cho Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam
cùng nhau thiết lập một khuôn mẫu hợp tác ba bên vì hòa bình châu Á.
Sức mạnh quân sự của Việt Nam mặc dù không địch được khả năng quân sự
của Trung Quốc, nhưng không bao giờ được đánh giá thấp. Cả hai nước
Việt Nam và Ấn Độ đã từng nổi danh trong đấu tranh chống các nước lớn
và đánh bại các cường quốc. Ấn Độ không chỉ là một nước hạt nhân mà
còn đang hiện đại hóa các lực lượng vũ trang. Hợp tác quốc phòng giữa
ba nước Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam trên cơ sở song phương đã diễn ra.
Trong bối cảnh những thay đổi môi trường chiến lược và an ninh đang
diễn ra tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, “mối quan hệ tam giác”
Ấn-Nhật-Việt là đòi hỏi khẩn cấp. Bắt đầu tiến trình này bằng việc thể
chế hóa cuộc đối thoại tay ba ở cấp độ Track-2 sẽ là một sự khởi đầu
lý tưởng.
Nếu sáng kiến này tạo nên sự khởi đầu tốt thì đây sẽ là một sáng kiến
mạnh mẽ hướng tới việc xây dựng lòng tin trong khu vực. Trong giai
đoạn sau, Mỹ có thể được mời với tư cách là quan sát viên, bởi Mỹ là
nước duy nhất trên thế giới đã từng và sẽ tiếp tục đóng vai trò “bình
ổn” tại châu Á trong những thập niên tới.
Theo
VIETPRESS
|