Huyền thoại rắn
Hàng
ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh
thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.
Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn
là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài
thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân
Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh
thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không
thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo
nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay
bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm
chực chờ bước chân người.
Trong số rắn độc lấy mạng nhiều thổ dân Dravidian nhất là loài mãn xà
hung bạo. Chúng không những ở trên mặt đất mà còn ở dưới nước của
sông, suối, khe, lạch, ao, mương. Người Dravidian còn cho rằng loài
mãn xà có khả năng gọi mưa, thổi gió để trừng phạt con người. Thổ dân
sợ loài rắn đó lắm. Họ không biết làm sao để đối phó hay trốn tránh
chúng. Họ chỉ biết cầu nguyện. Và rồi họ nghĩ rằng cách hữu hiệu nhất
là lập đền thờ rắn để cầu khẩn thần rắn tha mạng cho họ. Thần Nàga
xuất hiện từ đó. Nàga không đơn giản là tên gọi một loài rắn bình
thường mà còn biểu đạt sức mạnh siêu nhiên của thần linh có khả năng
tàn hại hay cứu mạng con người. Huyền thoại Ấn Độ cổ thời cho rằng
Thần Brahma rất sủng ái và tin tưởng hoàng tử rắn là Sesha nên giao
nhiệm vụ cưu mang và bảo hộ thế giới cho hắn.
Không những thế, huyền sử cổ thời của các dân tộc khác cũng có tục thờ
thần rắn, như tại vùng sông Nile của Ai Cập, vùng lưỡng hà của Ba Tư,
hay tại lãnh địa của dân tộc Cam Bốt, v.v… Đặc biệt tại Trung Quốc
nàga đã hóa thân thành rồng với sắc thái đặc dị và linh thiêng mà các
vị vua Trung Quốc đều lấy đó làm biểu tượng cho vương triều của họ.
Rồng Trung Quốc về hình thức thì có khác với thần rắn Nàga của Ấn Độ
nhưng về đặc tính siêu nhiên và thần thoại thì không khác mấy.
Sử thi Mahabharata (xuất hiện vào thế kỷ thứ 9 trước tây lịch) của Ấn
Độ kể chuyện làm sao rắn và diều hâu trở thành kẻ thù truyền kiếp để
từ đó xảy ra các cuộc thiêu sống loài rắn. Chuyện kể rằng, ngày xưa
vua diều hâu Garuda và rắn Nàga vốn là anh em họ. Nhưng đến đời thánh
Kasyapa thì chuyện xục đục giữa hai nhà bắt đầu phát sinh. Lý do là vì
ông thánh Kasyapa này có tới 13 bà vợ. Một trong 13 bà vợ đó có 2 bà
tên là Kadru và Vinata. Kadru muốn có nhiều con, ngược lại Vinata thì
chỉ muốn có ít con nhưng đứa nào cũng phải đầy quyền lực. Rồi thì cuối
cùng cả hai bà đều được toại nguyện. Kadru đẻ ra một ngàn con rắn, và
Vinata đẻ hai người con mà một người là Surya, thần mặt trời và người
con kia là Garuda, con chim diều hâu mang nửa cốt người nửa cốt chim
mà thần Vishnu thường cỡi trên lưng bay đi. Trong một cuộc đánh cá mà
cổ thi gọi là ngu xuẩn, Vinata bị bắt làm nô lệ cho chị mình là Kadru.
Nhưng oái ăm thay, nợ mẹ mà con phải gánh. Do đó, Garuda là con của
Vinata đã bị buộc làm theo mệnh lệnh của rắn. Garuda bực tức và đã thề
rằng không bao giờ buông tha. Khi Garuda hỏi con rằn làm sao để cứu
được mẹ, Vinata bảo Garuda phải mang linh đơn, thần dược bất tử tới.
Garuda bèn ăn cắp thần dược từ vị thần và mang tới cho các con rắn để
hoàn thành yêu cầu của chúng, nhưng những con rắn đã không thực hiện
lời hứa. Từ đó về sau, Garuda xem những con rắn là kẻ thù và bắt để
ăn.
Trong cuộc cá độ, để giành phần thắng, Kadru, thủy tổ của rắn, yêu cầu
con cháu bà phải tìm mọi cách để cho bà thắng. Nhưng con cháu rắn của
bà đã không chịu làm thế, cho nên Kadru nổi giận và thề bắt chúng phải
bị chết thiêu trong lễ tế rắn của Vua Janamejaya. Vua Janamejaya sinh
ra mang theo mối hận vua cha bị rắn giết nên thề không đội trời chung
với loài rắn. Do vậy ông thực hiện lễ thiêu sống rắn gọi là Sarpa
Satra. Các cuộc tế lễ thiêu sống rắn được thực hiện bên bờ sông Arind
tại Bardan, ngày nay là Parham. Và ngôi đền do Vua Janamejaya xây lên
để tế sống rắn ngày nay vẫn còn tại vùng Mainpuri, ở Ấn Độ. Sau đó vị
vua rắn Vasuki tỉnh thức trước lời thề và biết rằng những anh em của
ông phải cần đến một vị anh hùng để giải cứu. Vasuki bèn đến vị đạo sĩ
Jaratkaru với đề nghị kết hôn với nữ thần rắn là Manasa, chính là em
gái của Vasuki. Cặp vợ chồng đạo sĩ Jaratkaru và nữ thần rắn Manasa
sinh ra người con trai Astika chính là cứu tinh của rắn. Astika đến
khuyên can Vua Janamejaya để chấm dứt cuộc tàn sát loài rắn và Vua
Janamejaya làm theo.
Khi văn hóa Ấn Độ lan truyền sang vùng Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 3
trước tây lịch đi theo đó là làn sóng truyền bá của Bà La Môn Giáo hay
Ấn Độ Giáo. Trong số những quốc gia vùng Đông Nam Á hấp thụ nền văn
hóa Bà La Môn của Ấn Độ sâu đậm và lâu dài nhất là Cam Bốt.
Rắn Nàga của Ấn Độ khi đến Cam Bốt đã hóa thân thành người. Huyền
thoại này kể rằng, người con gái của Vua Rắn Nàga trong một tình cờ đã
gặp được chàng thanh niên giòng dõi Bà La Môn của Ấn Độ có tên là
Kaundinya. Hai người yêu nhau và lấy nhau, rồi sau đó sinh ra những
người con để tạo thành dân tộc Cam Bốt tồn tại cho đến ngày nay. Trong
nền văn hóa Cam Bốt, Rắn Nàga được tạc thành tượng 7 đầu để thờ trong
các đền thờ như Đền Đế Thiên Đế Thích. Theo văn hóa Cam Bốt, 7 đầu
tượng trưng cho 7 màu của cầu vòng. Người Cam Bốt còn giải thích Rắn
Nàga có số đầu lẻ tượng trưng cho phái nam với năng lực, vô hạn, vô
biên, và bất tử. Rắn Nàga có số đầu chẵn tượng trưng cho nữ giới với
thể lực, hữu hạn, tạm bợ và trái đất.
Dân tộc Thái Lan và Lào cũng tôn thờ thần rắn nàga vì họ cho rằng thần
rắn nàga là chúa tể cai quản dòng sông
Mekong. Hàng năm người dân Thái Lan và Lào đều tổ chức lễ cúng tế thần
rắn nàga. Người dân Thái và Lào sống dọc theo sông Mekong tin rằng
cúng tế thần rắn nàga sẽ được thần rắn bảo hộ tai qua nạn khỏi lúc làm
ăn trên sông, trên nước. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 11 theo lịch Lào,
một buổi lễ cúng tế thần rắn nàga được tổ chức trọng thể tại quận
Phonephisai thuộc tỉnh Nong Khai của Thái Lan với pháp bông rực rỡ vào
ban đêm.
Rắn nàga hóa thành người ở Cam Bốt và được tôn làm thần linh ở Ấn Độ,
Thái Lan, Lào là huyền thoại đầy bí nhiệm, nhưng vẫn chưa bằng huyền
thoại rắn nàga thành Phật trong kinh Phật. Tuy nhiên, trước khi kể
chuyện rắn nàga thành Phật, xin kể về chuyện rắn nàga giữ kinh Phật ở
thủy cung hay long cung.
Chuyện là thế này, lịch sử Phật Giáo Ấn Độ có một nhân vật mà sau này
được tôn xưng là đệ nhị Thích Ca, tức là chỉ đứng sau đức Phật Thích
Ca mà thôi. Nhân vật đó là Bồ Tát Nàgarjuna (xuất hiện vào thế kỷ 2
sau tây lịch tại miền nam Ấn Độ) mà các nhà Phật học Trung Quốc dịch
là Long Thọ. Bản thân của ngài Long Thọ chứa đầy những huyền thoại ly
kỳ mà cho đến nay các nhà sử học cũng không có cách lý giải. Ngài Long
Thọ là người truyền bá tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa mạnh mẽ và hữu hiệu
nhất tại Ấn Độ đặc biệt là hệ thống giáo nghĩa về Bát Nhã Tánh Không.
Chuyện kể rằng khi chưa xuất gia đầu Phật, ngài Long Thọ là người bác
học tinh thông mọi thứ từ triết lý tư tưởng, tôn giáo đến y học, thuật
số và phép tắc thần thông. Ngài đã từng chữa lành bệnh nan y cho nhiều
người. Sau khi xuất gia ngài thông suốt khắp các kinh luận của những
bộ phái Tiểu Thừa và biện tài vô ngại. Tiếng đồn thấu tới tận long
cung của vua rắn Nàga. Vua rắn Nàga mới cho người thỉnh ngài Long Thọ
xuống long cung để trao kinh Phật. Nguyên là khi đức Phật còn tại thế
đã giao cho vua rắn cất giữ bộ Kinh Bát Nhã ở long cung chờ đến khi có
đủ duyên và người xứng đáng để trao lại. Ngài Long Thọ xuống long cung
và được vua rắn Nàga dẫn vào thư phòng chứa bộ Kinh Bát Nhã để giới
thiệu. Ngài Long Thọ ở lại mấy tháng để đọc bộ Kinh Bát Nhã này và nằm
lòng trong bụng. Sau khi trở về nhân gian, ngài Long Thọ chép lại Kinh
bằng tiếng Phạn và viết nhiều bộ luận để xiển dương giáo lý Bát Nhã
Tánh Không của Đại Thừa. Trong số các bộ luận do ngài Long Thọ sáng
tác có nhiều bộ rất phổ biến và còn lưu truyền đến ngày nay như Trung
Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận, v.v…
Bây giờ xin kể chuyện con gái của vua rắn nàga thành Phật. Chuyện này
được kể trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa – Mahayana Saddharma
Pundarika Sutra, phẩm Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) thứ 12 theo bản dịch
Hán ngữ của ngài Cưu Ma La Thập – Kumàrajìva -- từ bản tiếng Phạn vào
năm 406 sau tây lịch tại Trung Quốc. Bộ Kinh này cũng đã được dịch
sang tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Trí Quang và Hòa Thượng Thích Trí
Tịnh. Bản dịch sau được phổ biến rộng rãi trong các Chùa Việt. Kinh kể
rằng trong Hội Pháp Hoa, Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù (Manjusri)
lâu nay ở trong thủy cung của vua rắn đã độ được bao nhiêu con rắn. Bồ
Tát Văn Thù nói rằng ngài đã thuyết Kinh Pháp Hoa và độ vô số chúng
sinh trong loài rắn. Khi ngài Văn Thù nói như vậy thì có vô số bồ tát
từ dưới biển vọt lên và đến núi Linh Thứu nơi đức Phật đang nói Kinh
Pháp Hoa. Bồ Tát Trí Tích hỏi lại Bồ Tát Văn Thù rằng Kinh Pháp Hoa là
vua trong các Kinh nội dung cao sâu vi diệu không phải ai cũng có căn
cơ đủ để tu hành mà thành Phật mau được. Ngài Văn Thù liền kể rằng có
người con gái của vua rắn ở long cung mới có 8 tuổi mà “căn tính lanh
lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tính hành nghiệp của chúng sinh,
được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có
thể thụ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na
phát tâm Bồ Đề được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ
chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm
mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có
thể đến bồ đề.”
Khi ngài Văn Thù kể đến đó thì Bồ Tát Trí Tích không tin, nên ông phát
biểu cảm nghĩ rằng đức Phật Thích Ca cũng đã trải qua vô lượng vô số
kiếp tu hành khổ hạnh thì mới thành Phật được, lẽ nào một con rắn con
mới có 8 tuổi lại có thể mau thành Phật như thế. Trong lúc Bồ Tát Trí
Tích còn đang giải thích suy nghĩ của mình cho ngài Văn Thù nghe thì
con gái của vua rắn hiện ra trước pháp hội đến đảnh lễ đức Phật và
đứng qua một bên. Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất là đệ tử có trí tuệ đệ
nhất của đức Phật Thích Ca còn nghi ngờ chuyện con gái vua rắn thành
Phật nên hỏi người con gái của vua rắn rằng, việc đó có đúng như vậy
chăng. Con gái vua rắn không nói gì mà đem hột minh châu đắt giá tặng
cho đức Phật Thích Ca. Đức Phật tức thì hoan hỷ nhận hạt minh châu của
cô bé con vua rắn. Cô bé rắn quay qua ngài Xá Lợi Phất và Trí Tích Bồ
Tát hỏi rằng việc cô tặng hạt minh châu và Phật nhận có mau không? Cả
hai vị đều nói là rất mau. Cô bé rắn giải thích với 2 vị này rằng việc
cô thành Phật còn mau hơn nhiều. Và rồi cô bé con vua rắn tức thì biến
thành thân con trai và bay qua cõi nước Vô Cấu ở phương nam, ngồi lên
tòa sen và thành Phật với ba mươi hai tướng tốt không khác gì các đức
Phật. Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá Lợi Phất chỉ còn biết im lặng và tin
là thật mà không nói được lời nào.
Truyền thuyết về con rồng cháu tiên của dân tộc Việt có phải cũng từ
huyền thoại rắn nàga mà ra và người Việt
Nam phải chăng cũng là con cháu của nhà rắn thần linh này? Dẫu sao thì
dòng dõi Lạc Hồng cũng hơn các dân tộc khác ở chỗ có một nửa cốt cách
là tiên.
Huỳnh Kim Quang |