Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài
11
Quanh quẩn đi tìm
Ngày
7.11.1972, Richard Nixon đắc cử nhiệm kỳ hai, chiếm nhiều phiếu
hơn George McGovern tại 49 tiểu bang trên 50. Một kết quả hơi
khác thường làm cho McGovern phải có ý kiến, phần nào hoài nghi:
"Hồi 1968, nếu như ai đó nói rằng chiến tranh sẽ kéo dài bốn năm
nữa, và những người tiến hành cuộc chiến đó sẽ thắng phiếu ở 49
trên 50 tiểu bang thì tôi cho đương sự khùng điên rồi." Quả
thật, khi đông đảo quần chúng Huê Kỳ ngao ngán với chiến tranh
Việt Nam mà người đứng đầu một chánh phủ mang tiếng là "diều
hâu" lại dẫn đầu số phiếu ở đa số tiểu bang thì tình hình đó
không tréo cẳng ngỗng là gì? Nhưng thật ra cũng có nhiều lý lẽ.
Gần như dân chúng cả nước cảm thấy rằng Nixon đã kiểm soát được
một số vấn đề tệ hại của đất nước, kể cả chiến tranh Việt Nam,
dẫu cho hòa bình có lấp ló, nhưng chưa xuất hiện.
Thế
nhưng, nhiệm kỳ hai của Nixon không vì vậy mà được vẻ vang, vì
chuyện tai tiếng chánh trị vừa bị lộ tẩy, khi nhiệm kỳ thứ nhì
của Nixon chưa qua được nửa năm. Vụ "Watergate" nổ ra giữa bầu
không khí hoan ca chiến thắng của tập đoàn Nixon, làm tiêu tan
sự nghiệp chánh trị của tổng thống tái đắc cử, đồng thời cũng
đưa vấn đề Việt Nam vào cõi mịt mù của thiên hạ sự! Xuyên suốt
tháng Mười Một 1972, mối liên hệ giữa hai ông Thiệu và Nixon,
giữa Thọ và Kissinger, giữa MTGP và Hà Nội, và thậm chí giữa
Kissinger và Nixon đều không mấy tốt đẹp. Nguyên nhơn của tình
huống đó đã được đề cập đến trong bài trước.
Chấp nhận những điều kiện như đã ghi trong bản dự thảo kế hoạch
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình mang nhãn hiệu "Thọ-Kiss"
chẳng khác nào Việt Nam Cộng Hòa cam chịu bó tay đầu hàng cộng
sản. Nên chi, Tổng Thống Thiệu chẳng còn cách nào khác hơn là
đem nỗi sợ cộng sản, lòng ngờ vực Huê Kỳ và niềm âu lo cho tương
lai bản thân của nhơn dân Nam Việt Nam để làm nhơn tố kết hợp
các đoàn thể chánh trị và tôn giáo chống lại mọi kẻ thù, than
ôi, giờ đây có cả Mỹ, người bạn đồng minh thân thiết năm xửa năm
xưa!
Còn Nixon, nhờ đã rảnh tay với chuyện tranh cử nên tự cho mình
có rộng đường hành động, trước tiên là để mổ xẻ cái ung bướu
chiến tranh Việt Nam trên thân xác Hiệp Chúng Quốc Huê Kỳ. Ông
không muốn nhượng bộ cộng sản thêm nữa. Đã đến lúc phải có thái
độ "diều hâu" đến đâu hay đó. Để điều đình với Tổng Thống Thiệu,
kỳ này Nixon phái Tướng Alexander Haig du thuyết, chớ không đưa
Kissinger đi nữa vì, với ông Thiệu thì con bài Kissinger đã bị
cháy.
Tướng Haig đến Việt Nam ngày 9.11.72, trước đó Đại Sứ Bunker đã
diện kiến Tổng Thống Thiệu để loan báo kỳ mật đàm sắp tới giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ, được dự trù vào ngày 15.11.72. Theo ông
Bunker thì trong lần mật đàm này, Kissinger sẽ nói với phía cộng
sản bằng một luận điệu khác và cải tiến hơn về những thắc mắc
của dinh Độc Lập, liên quan tới dự thảo hiệp định.
Trước khi Tướng Haig gặp ông Thiệu thì ông Trần Kim Phượng, đại
sứ Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn, và Hoàng Đức Nhã có tiếp xúc với
Haig để bàn qua những điểm thiếu sót của bản dự thảo. Nhã có đưa
ra một số thắc mắc và đưa đề nghị cho Haig. Nhưng điều quan
trọng trước tiên của Tướng Haig là một bức thơ của Nixon, cần
phải trao cho Tổng Thống Thiệu.
Cũng là một bức thơ hết sức xã giao, ca ngợi tinh thần hợp tác
hữu nghị của hai chánh phủ trong bốn năm qua. Nhưng nhứt định là
không quên khen ngợi tính hoàn chỉnh của dự thảo, mà Tổng Thống
Nixon đề nghị Tổng Thống Thiệu nên chấp nhận. Sau khi dài dòng
để o ép ông Thiệu bằng lòng với bản dự thảo, bức thơ kết luận.
"Tôi cả quyết tin tưởng rằng nhơn dân, quân đội của Tổng Thống
và cá nhơn Tổng Thống đã thành công vỹ đại, một thành công đã
được bản dự thảo công nhận. Tôi nhứt quyết tin tưởng ở những
thành tựu này. Tôi muốn hợp tác với Tổng Thống và chánh phủ của
Tổng Thống trong nhiệm kỳ hai của tôi để bảo vệ tự do cho Nam
Việt Nam trong hòa bình, cũng như chúng ta đã hợp tác trong
nhiệm kỳ đầu của tôi để bảo vệ đất nước này trong chiến tranh."
"Trong bốn năm qua, Tổng Thống và tôi đã là những người bạn đồng
minh chánh trị và quân sự gắn bó rất thân thiết. Mối giao hảo
của chúng ta đã đưa chúng ta đến một vị thế, khiến kẻ thù phải
chấp nhận những điều kiện của chúng ta, mà bất kỳ một nhà quan
sát khách quan nào cũng cho là không làm thế nào đạt được hồi
bốn năm trước đây. Thế liên minh của chúng ta và những thành tựu
của nó là hậu quả của niềm tin tưởng lẫn nhau. Nếu như Tổng
Thống còn tiếp tục tin tưởng ở tôi thì cùng nhau chúng ta sẽ
thành công."
Với lời lẽ như vậy, người đọc lương thiện nào mà không thấy
"nhột", đối chiếu với thực tế? Nên chi, cái gọi là "chiến thắng
trong tầm tay" chẳng có ý nghĩa gì với ông Thiệu hết. Ngày
11.11.72, Tổng Thống Thiệu nói với Tướng Haig: "Ông Haig này,
ông là một tướng lãnh cũng như tôi. Có khi nào ông thấy một hiệp
ước hòa bình trong lịch sử thế giới cho phép quân xâm lược ở lại
trên đất đai mà họ đã chiếm đóng không? Ông có thể nào để cho
quân Nga ở trên đất nước Huê Kỳ rồi nói rằng Mỹ đã ký hiệp ước
hòa bình với Nga không?"
Ông
Haig đành cứng họng, chẳng biết nên trả lời như thế nào. Ngày
hôm sau, Haig báo cáo với Nixon: "... chúng tôi gặp phải một
tình thế hết sức gay go." Haig cố gắng giải thích cho Tổng Thống
Thiệu thấy rằng Thượng Viện vừa được bầu lại rất là "bồ câu" hơn
Thượng Viện trước kia. Cho nên, nếu Tổng Thống Thiệu được coi
như là người cản trở hòa bình thì chắc chắn Quốc Hội sẽ cắt hết
mọi viện trợ cho Nam Việt Nam.
Tối hôm đó, Tổng Thống Thiệu phúc đáp lại thơ của Nixon. Dĩ
nhiên là trước tiên có những lời mừng và khen ngợi người tái
thắng cử, nhưng sau đó không khỏi phản bác điều mà Nixon cho là
ông Thiệu đã bóp méo bản dự thảo hiệp định. Ông chỉ muốn minh
xác lại một số điểm của dự thảo để cho Việt Nam Cộng Hòa không
bị thiệt thòi qua một nền hòa bình danh dự và công bằng.
Ngày 15.11.72, Bunker lại trao cho ông Thiệu thơ của Nixon hồi
báo thơ ngày 11.11.72 của Tổng Thống Thiệu. Cứ thơ đi, tin lại
để tìm cách thuyết phục ông Thiệu về tính hợp lý của bản dự thảo
hiệp định. Đại để là Nam Việt Nam đừng có lo chuyện cho phép bộ
đội Bắc Việt đâu ở đó sau khi đã ký kết vì, như Bunker đã cam
kết thì "việc bảo vệ chủ yếu cho Nam Việt Nam là thẩm quyền của
chúng tôi để bắt buộc bên kia phải thi hành và tôn trọng hiệp
định và cũng đã được Tổng Thống Nixon bảo đảm bằng văn bản. Như
vậy có nghĩa là nếu như hiệp định không được tuân hành, nếu như
lịnh ngừng bắn bị vi phạm thì chúng tôi sẽ phản ứng ngay và một
cách mạnh mẽ để hậu thuẫn cho Nam Việt Nam."
Nói gì thì nói, viết sao thì viết, Tổng Thống Thiệu vẫn không
muốn chấp nhận bản dự thảo kỳ quái đó. Việt Nam Cộng Hòa cung
cấp một đề nghị sửa đổi và yêu cầu Kissinger đưa ra cho Lê Đức
Thọ trong kỳ mật đàm tới. Ở giai đoạn này, Tổng Thống Nixon bắt
đầu nhận ra rằng giữa Kissinger và chính ông cũng có điều khác
biệt. Kissinger thì muốn ông Thiệu chiều ý mình trong khi Nixon
thì lại quan tâm đến chuyện bảo vệ Nam Việt Nam. Nên chi, Nixon
khuyên Kissinger nên hòa hoãn với ông Thiệu. Dư luận thắc mắc có
phải Nixon còn nợ ông Thiệu qua kỳ bầu cử tổng thống Huê Kỳ năm
1968 không?
Tình hình căng thẳng giữa Nixon và Kissinger bắt đầu rõ nét khi
ông này trả lời phỏng vấn của nữ ký giả người Ý, Oriana Fallaci.
Nội dung bài báo cho thấy Kissinger đã tham lam quơ hết thành
tích ngoại giao của chánh phủ vào mỗi mình cá nhơn ông. Tự mô tả
mình như là một tên "cao-bồi đơn thương độc mã", Kissinger nặng
lời chỉ trích cho rằng ông Thiệu cố chấp hơn Lê Đức Thọ. Khi kể
lại "mánh khóe để thành công", Kissinger nói với Fallaci: "Tôi
chỉ hành động một mình. Người Mỹ rất thích chuyện đó. Người Mỹ
thích chàng cao-bồi hộ tống một đoàn xe và người, hoặc tiến vào
một thành phố chỉ một thân một ngựa chớ chẳng có gì khác. Thậm
chí cũng chẳng có súng vì anh ta đâu có bóp cò. Anh ta chỉ hành
động, như vậy là quá đủ, khi đã đúng lúc và đúng nơi. Đại khái
như là một chuyện phim cao-bồi Viễn Tây, thế thôi. Nhơn vật đầy
kịch tính và kỳ diệu đó rất hợp với tôi vì cung cách của tôi,
hay đúng hơn là kỷ thuật của tôi là cứ một thân, một mình."
Bài báo của Oriana Fallaci làm cho Nixon bực mình không ít và
ông bắt đầu dè chừng Kissinger. Nixon ra lịnh cho văn phòng hủy
bỏ chuyến đi Bắc Kinh của Kissinger. Nixon càng bực tức thêm nữa
vì có tin Kissinger sẽ được tạp chí "Times" vinh danh là nhơn
vật trong năm.
Càng
ngày chuyện mật đàm đã được báo chí biết nên theo dõi rất sát.
Do đó có nhiều bức hình làm cho Nixon không bằng lòng, nhứt là
các ảnh Kissinger và Lê Đức Thọ nói cười hả hê. Nixon bèn ra
lịnh cho Kissinger không được cười lộ liễu công khai với Thọ.
Cảm thấy đã gần kề mức đến nên Kissinger có những cử chỉ khá
thân thiện với Thọ, thậm chí trong lần mật đàm ngày 20.11.72,
Kissinger còn mời Thọ đến nói chuyện ở trường đại học Harvard.
Vậy mà khi Kissinger trình bày 64 điểm sửa đổi của dinh Độc Lập,
Thọ nổi giận ra mặt: "Chúng tôi đã bị Pháp, Nhựt và Mỹ lừa dối
nhưng chưa có lần nào trắng trợn như kỳ này... Ông nói với chúng
tôi là đã điều đình xong, vậy mà ông lại nuốt lời. Chúng tôi
phải nghĩ ông là người như thế nào đây?" Kissinger chỉ biết ngồi
lặng thinh và nói giả lả, khôi hài tự cho là người đã kết hợp
đuợc hai phía của Việt Nam vì "cả Bắc lẫn Nam Việt Nam đều ghét
tôi." Sau khi Kissinger trình bày những điểm chánh yếu mà Sài
Gòn bắt bẻ, Lê Đức Thọ chỉ còn biết than rằng: "Nếu như đó là
những đề nghị cuối cùng và bất biến của ông thì không thể nào
dàn xếp được." Vậy
là Kissinger đành nói vớt
vát để kết thúc phiên mật đàm: "Đó là những đề nghị cuối cùng
của chúng tôi, nhưng không phải là tối hậu thơ."
Như vậy, mật đàm lại trở về với những cái vớ vẩn mà bên đưa ra
thừa biết là bên kia không thể nào thỏa mãn được. Nên chi, làm
sao nói được là thương thuyết có tiến triển? Người ta cảm thấy
một bầu không khí bế tắc, sau khi Mỹ đã qua được khúc quanh bầu
cử tổng thống. Sau vài phiên mật đàm dậm chưn tại chỗ và tình
hình thương thảo hơi găng, Kissinger hiểu rằng dự thảo hiệp định
đã "chết non". Mật đàm tan vỡ, mặc dầu hai bên có hẹn là họp
tiếp ngày 23.11.72.
Nixon bảo văn phòng đánh điện ra lịnh cho Kissinger ngưng mật
đàm và chỉ thị cho Kissinger nói thẳng cho phía cộng sản biết
rằng Tổng Thống Nixon sẽ có sự chọn lựa khác. Kissinger thấy là
giao hảo giữa Nixon và ông có phần nào hơi tế nhị chớ không được
như trước kia. Kissinger thường nhận được điện của Bạch Ốc nhắc
nhở nên cứng rắn với Thọ và đừng vui cười với Thọ trong cảnh
thanh thiên bạch nhựt.
Nixon chuẩn bị làm mạnh, nhưng với ai đây? Ngày 23.11.72, Nixon
gởi cho ông Thiệu một bức thơ "Tối Mật-Dành Riêng", do Đại Sứ
Bunker đích thân trao tận tay cho Tổng Thống Thiệu, đe dọa làm
tới "bằng mọi giá". Bức thơ đó nói lên nỗi bực tức và lòng e
ngại của Nixon về hành động của phía Việt Nam Cộng Hòa để bác bỏ
dự thảo hiệp định. Nixon còn cho ông Thiệu biết rằng nếu phía Hà
Nội đưa ra một thỏa hiệp có thể chấp nhận được thì Huê Kỳ sẽ
chấp nhận ngay. Nếu Nam Việt Nam có cản trở thì sẽ bị coi như là
muốn phá hoại hiệp định và như vậy sẽ có hại cho khả năng của Mỹ
để mưu tìm hậu thuẫn cho Tổng Thống Thiệu và chánh phủ của ông.
Tổng Thống Thiệu không trực tiếp hồi đáp Nixon mà chỉ thị Hoàng
Đức Nhã viết thơ cho Đại Sứ Bunker, bác bỏ từng điểm một những
lời phê phán của Nixon. Ông gián tiếp phản bác những nhận xét
của Nixon, cho rằng Sài Gòn chống lại hiệp định hòa bình. Nhưng,
một lần nữa, ông xác định là bộ đội miền Bắc không được phép ở
lại trong Nam.
Trong phiên mật đàm 23.11.72, Kissinger và Haig trực tiếp đọc
đoạn thơ của Nixon, chuyển lời đe dọa Bắc Việt, nhưng đã là điếc
không sợ súng thì đe dọa có ăn thua gì, vả lại Mỹ có ném bom hay
cài thủy lôi thì tập đoàn lãnh đạo có chịu đựng đâu. Trong tình
hình hai bên mật đàm đều cứng rắn, không bên nào nhượng bộ bên
nào, nên phiên họp lâu một giờ hai mươi phút hôm đó chẳng đi đến
đâu hết.
Cả Hoa Thạnh Đốn lẫn Hà Nội đều biết rằng thời gian chẳng còn
bao nhiêu nữa đối với Sài Gòn. Bao nhiêu tháng qua, Nixon và
Kissinger đã ngấm ngầm chấp nhận tình trạng ngưng bắn tại chỗ.
Tổng Thống Thiệu đã mất hậu thuẫn của đồng minh, bất cứ về mặt
nào. Thượng Viện Huê Kỳ gần như sắp đi đến quyết định cắt giảm
tài trợ cho những hành động ở Việt Nam.
Tối hôm đó, Kissinger trình bày sự thật đau lòng cho phái đoàn
hòa đàm chánh thức của Nam Việt Nam ở khoáng đại hội nghị, tại
tư gia của đại sứ Mỹ ở Pháp. Ông cho phái đoàn Sài Gòn biết rằng
Bắc Việt tiếp nhận một cách nghiêm khắc những tu chính dành cho
bản dự thảo. Kissinger cho phái đoàn Nam Việt Nam biết phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm nếu hòa đàm bị đổ vỡ.
Vậy là bắt đầu một chiến dịch để làm áp lực Sài Gòn phải chấp
nhận những đề nghị mà Hà Nội và Hoa Thạnh Đốn cho là hợp lý, dẫu
cho có thể thiệt hại cho Việt Nam Cộng Hòa. Mỹ tìm cách trấn an
Sài Gòn là nếu như Hà Nội phản bội và vi phạm thì Mỹ sẽ đưa B-52
ra nói chuyện với họ. Đối cùng, Kissinger còn đe dọa rằng Nixon
sẵn sàng dàn xếp song phương với Hà Nội để rút quân về và để
trao đổi lấy tự do cho tù binh Mỹ.
Cuối tháng 11 năm 1972, Nguyễn Phú Đức đi Hoa Thạnh Đốn để diện
đối diện với Nixon và Kissinger. Dinh Độc Lập không tin rằng
Kissinger hoặc Haig tường trình đầy đủ sự thực về quan điểm của
Việt Nam cho Nixon. Nên chi, nhiệm vụ của Đức trong chuyến đi
này là để phản ảnh trung thực lập trường của Tổng Thống Thiệu
cho Nixon và phải tỏ ra cứng rắn trước những lời của Kissinger
và Haig, nhằm đe dọa cô lập người bạn đồng minh.
Nguyễn Phú Đức mang sang Nixon bức thơ dài 24 trang của Tổng
Thống Thiệu, viện dẫn nhiều lý lẽ để cấp thiết yêu cầu Nixon sửa
đổi và đình hoãn dự thảo hiệp định. Nỗi ưu tư của dinh Độc Lập
về chuyện bộ đội xâm lược mà được quyền ở lại miền Nam, về viễn
ảnh của một chánh phủ liên hiệp cũng như nỗi khổ đọa đày của
nhơn dân miền Nam dưới ách thống trị của cộng sản, một khi Mỹ
rút đi, không nói lên được điều gì với người bạn đồng minh Huê
Kỳ khi lợi ích của họ là trên hết. Một khi người ta đã nhứt
quyết chấp nhận cái ảo ảnh hòa bình thì bất cứ thứ gì cản trở
ước muốn đó đều bị cho là chướng ngại vật, đáng bị trừng phạt.
Vả lại, theo chỗ Tổng Thống Thiệu được biết thì: "Tôi đã được
thông báo là trong trường hợp chúng tôi không thể chấp nhận được
những đòi hỏi phi lý của những người cộng sản thì Huê Kỳ sẽ tìm
cách dàn xếp riêng rẽ với Bắc Việt để rút quân lực Huê Kỳ về và
lấy lại tự do cho tù binh Mỹ. Nếu quả thật vấn đề tù binh chiến
tranh là một trường hợp quan trọng đối với Tổng Thống, tôi nghĩ
là vẫn còn có nhiều cách khác để cho họ được tự do mà không phải
làm nguy hại đến số phận của mười bảy triệu rưởi người Nam Việt
Nam... Không một ai có thể phủ nhận được Nam Việt Nam là nạn
nhơn của một cuộc xâm lăng lộ liễu từ phía Bắc Việt. Vì vậy cho
nên bất cứ ý kiến nào cho rằng nhơn dân chúng tôi và những nhà
lãnh đạo dân cử của Nam Việt Nam gây trở ngại cho hòa bình, vì
từ chối những điều kiện do những kẻ xâm lược áp đặt, là một điều
trớ trêu độc ác nhứt."
Kết thúc bức thơ dài dòng đó, Tổng Thống Thiệu yêu cầu Tổng
Thống Nixon hãy vận dụng khả năng lãnh đạo đầy uy tín để yêu cầu
Thượng Viện Huê Kỳ, vì "Tổng Thống có thể tìm được hậu thuẫn để
đạt được những gì cần thiết mà bảo đảm tự do và an ninh lâu dài
của thế giới tự do."
Thế nhưng, nói gì thì nói, Hoa Thạnh Đốn đã nhứt quyết cho rằng
Sài Gòn nên ưng thuận hiệp định hòa bình trên hình thức đó để
cho Bạch Ốc dễ ăn dễ nói với Thượng Viện. Bằng không thì chánh
phủ Mỹ khó viện trợ cho Sài Gòn. Sài Gòn nên yên chí vì nếu cộng
sản có vi phạm thì Huê Kỳ sẽ mạnh dạn can thiệp với những tiềm
lực quân sự ở Thái Lan, ở ngoài khơi và ở những vùng phụ cận
Việt Nam.
Nói
tóm lại, Nixon khuyên Tổng Thống Thiệu "cứ tin tôi đi". Nixon
nghĩ rằng sau khi đã có hiệp định hòa bình thì dư luận của quần
chúng và Quốc Hội Mỹ sẽ thay đổi, thuận lợi hơn, vì thấy rằng
Huê Kỳ sẽ thoát khỏi cuộc chiến Việt Nam trong danh dự. Như vậy,
giá mà cộng sản phản bội chữ ký, tấn công Nam Việt Nam thì Nixon
có thể huy động quân sự để đánh chặn mà không sợ dư luận Mỹ phản
đối. Huê Kỳ còn đưa trường hợp của Triều Tiên ra làm thí dụ để
trấn an Nam Việt Nam.
Nói chung thì "chuyến đi sứ" của Đức cũng không ăn thua gì,
không làm cho Tòa Bạch Ốc thay đổi ý kiến. Họ cứ tin tưởng rằng
hành động trả đũa bằng quân sự sẽ bảo đảm giá trị của hiệp định.
Đến mức đó thì Sài Gòn cứ mặc cho Hoa Thạnh Đốn thỏa thuận song
phương với Hà Nội để được việc của họ là rút quân "Gi" ra và đem
tù binh chiến tranh về. Nếu như vậy thì Sài Gòn đành phải tiếp
tục chiến đấu một mình. Ông Đức nói với Nixon rằng: "Tổng Thống
Thiệu nghĩ rằng thà chết bây giờ còn hơn là chết lần chết mòn."
Sài Gòn nhứt định không chịu từ bỏ ba nguyên tắc then chốt là:
quân đội cộng sản phải rút về miền Bắc, tôn trọng vùng giới
tuyến phi quân sự và hội đồng hòa hợp hòa giải không thể là
chánh phủ liên hiệp.
Để giải tỏa bế tắc cho chuyến công tác của Đức, Tổng Thống Nixon
tỏ ý muốn gặp Tổng Thống Thiệu ở Midway, hay một nơi nào khác,
để đích thân và trực tiếp đàm đạo mà nói lên sự cam kết ủng hộ
ông Thiệu. Cứ thơ đi tin lại thì không sao giải quyết được
trường hợp quá ư là gay góc. Cần phải hai mặt một lời cho rõ
trắng đen. Hòa bình thì ai mà chẳng thiết tha, nhưng phải có
được hòa bình mà đừng đánh mất danh dự.
Xem tiếp>>
Cố Nhân
|