Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài 3
Nixon và Kissinger nhập cuộc
Sau khi đắc cử tổng thống và ổn định cơ cấu cầm quyền rồi,
Nixon và Kissinger – lúc bấy giờ với tư cách trợ lý tổng thống
về an ninh quốc gia - mới thực sự bắt tay vào chuyện hòa đàm.
Lợi dụng những đầu mối quen biết trong thời kỳ giảng dạy, với
chú tâm đặc biệt vào vấn đề Việt Nam – vì vào thời kỳ đó
chuyện Việt Nam là cái gay độc địa nhức nhối đối với chánh trị
và ngoại giao của Huê Kỳ - Henry Kissinger bắt đầu phát khởi
guồng máy hoạt động bí mật nhằm giải quyết cuộc chiến Việt
Nam. Ngoài hình thức nổi của công cuộc mưu tìm hòa bình tại
hòa đàm Paris, Henry Kissinger, với sự đồng thuận của Richard
Nixon - nếu không muốn nói là khoán trắng - đẩy mạnh công tác
mật đàm qua nhiều ngõ ngách.
Một
trong những đầu mối bí mật của Kissinger là một nhơn vật không
xa lạ gì với Hà Nội, đặc biệt là với Hồ Chí Minh. Lịch sử bang
giao Việt-Pháp làm sao quên được Jean Sainteny, người đã cùng ký
tên với Hồ Chí Minh vào bản Hiệp Định Sơ Bộ 06 Mars 1946, mở đầu
quan hệ Pháp-Việt, trước khi chiến tranh bùng nổ giữa hai bên
ngày 19.12.1946. Cho nên, Sainteny là người trung gian lý tưởng
giữa Nixon và Hồ Chí Minh. Henry Kissinger cũng là chỗ thân tình
với Sainteny vì bà vợ của Sainteny – Claude Sainteny – là một
trong những học trò của Kissinger ở Harvard.
Ngày lễ Quốc Khánh Pháp 14. 7. 1969, Jean Sainteny bí mật đến
Hoa Thạnh Đốn, theo yêu cầu của cặp bài trùng Nixon-Kissinger.
Thế nhưng, đây không phải là lần đầu tiên Sainteny được vời đến
thủ đô Huê Kỳ. Trước đó, Nixon đã có yêu cầu ông kín đáo đến Hà
Nội để trao thơ cho Hồ Chí Minh. Qua đề nghị của Hoa Thạnh Đốn,
Sainteny cũng có tiếp xúc với đại diện của Hà Nội tại Paris,
nhưng mật đàm vẫn không nhúc nhích được chút nào hết vì Hà Nội
không biết Sainteny có thật sự là người của Nixon hay không.
Chuyến này Nixon-Kissinger mời Sainteny trở qua Hoa Thạnh Đốn là
để đánh giá lại tình hình Việt Nam và nhứt là để "thu xếp cuộc
họp tay đôi giữa Kissinger và Lê Đức Thọ", theo như Kissinger
tiết lộ. Kissinger nói trắng ra với Nixon là "Tôi nghĩ rằng tôi
có thể trao bức thơ cho Hồ Chí Minh qua Lê Đức Thọ... Tổng thống
nên cho Sainteny biết rằng tổng thống quyết tâm đạt được một sự
dàn xếp trong danh dự..." Kỳ đó, Sainteny rời tòa Bạch Ốc với
hai bức thơ, một là thơ ủy nhiệm của Nixon giới thiệu Sainteny
với Hồ Chí Minh và hai là mật thơ mà Nixon gởi cho Hồ Chí Minh.
Sau
khi tiếp xúc với Xuân Thủy và Mai Văn Bộ ở Paris, Sainteny báo
cáo ngay cho Kissinger là hai người này sẵn sàng gặp Kissinger,
dĩ nhiên là với những sự dè dặt thông thường của những con người
cộng sản. Sainteny cho Kissinger biết:"... Họ luôn luôn nghi ngờ
thiện chí của phía các ông. Dường như họ tin tưởng rằng Huê Kỳ
chẳng bao giờ chịu rút trọn quân lính ra khỏi Việt Nam vì Huê Kỳ
đã thiết lập nhiều căn cứ quân sự ở đó thì họ sẽ duy trì bất cứ
giá nào. Cuối cùng, họ trách các ông là cứ dung dưỡng một chánh
phủ không được quần chúng nhân dân tin tưởng và không có khả
năng đoàn kết dân chúng."
Phiên họp đầu tiên giữa Kissinger và Xuân Thủy (với sự hiện diện
của Mai Văn Bộ) được diễn ra ngày 4 tháng Tám 1969, tại tư thất
của Sainteny ở Paris. Phía Mỹ, cùng đi với Kissinger có ông trợ
lý Tony Lake và tuớng Vernon Walters, với tư cách là tùy viên
quân sự. Phía Việt Nam, ngoài Xuân Thủy và Mai Văn bộ, còn có
thông dịch viên Nguyễn Đình Phương. Phiên họp kéo dài trên ba
tiếng đồng hồ vì phải qua hai lượt chuyển ngữ, từ tiếng Mỹ sang
tiếng Pháp rồi từ tiếng Pháp ra tiếng Việt. Vào phiên họp,
Kissinger hỏi ngay phía Hà Nội là Hồ Chí Minh đã trả lời thơ
ngày 15 tháng Bảy của Nixon chưa. Xuân Thủy đáp rằng:"Chúng tôi
có nhận được từ tay ông Sainteny bức thơ không đề ngày của Tổng
Thống Nixon gởi Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Bức thơ đã được chuyển về
Hà Nội."
Sau đó, Kissinger trình bày là từ ngày Nixon nhậm chức đến lúc
bấy giờ, Huê Kỳ đã có nhiều hành động đáng kể để tiến tới hòa
bình, kể cả việc rút về 25.000 lực lượng chiến đấu. Theo
Kissinger thì Huê Kỳ hy vọng sẽ có sự dàn xếp vào ngày 1 tháng
Mười Một năm 1970 (ngày kỷ niệm một năm ngưng ném bom). Trong
tinh thần đó, Huê Kỳ sẽ sẵn sàng rút tất cả binh lính ra khỏi
Việt Nam và sẽ sẵn sàng chấp nhận kết quả của một tiến trình
chánh trị tự do.
Theo Kissinger thì ông Nixon muốn sao Bắc Việt Nam biết rằng
Kissinger sẽ được chỉ định làm đại diện cá nhơn của tổng thống
để bắt đầu các cuộc hòa đàm cấp cao, đưa chiến tranh đến hồi kết
cuộc. Thế nhưng, nếu như đến ngày 01 tháng Mười Một mà không có
tiến triển thì, Kissinger cảnh giác Xuân Thủy là Huê Kỳ "sẽ có
những biện pháp đem lại những hậu quả trầm trọng". Ngoài ra,
Kissinger cũng nói thêm là Bắc Việt không nên cứ tiếp tục cho
rằng cuộc chiến Việt Nam là "Chiến tranh của Nixon", vì nếu như
vậy thì Tổng Thống Nixon không được phép thua trận.
Hậu quả là sau đó hòa đàm tiếp tục nhì nhằng, lang thang trong
vòng bốn năm kế tiếp. Những phiên họp khoáng đại tại hội trường
Majestic là những buổi lên lớp về lịch sử và tuyên truyền không
ngừng nghỉ của Hà Nội. Sau này, Kissinger kể lại:"Họ dài dòng và
lắm lời để nhồi nhét cho chúng tôi những bài giảng về lịch sử
oai hùng của Việt Nam và cái lẽ thất bại đương nhiên của Mỹ."
Trong khi đối với Mỹ thì "time is money" (thì giờ là tiền bạc)
còn Bắc Việt cộng sản coi thời gian là một phương tiện để thắng
lợi mà chẳng mất tiền mua. Như vậy là trong ba bốn năm trường Hà
Nội cứ kiên trì đòi hỏi nầy kia, kia nọ, toàn những cuyện khó
lòng cho Mỹ như rút hết quân về - quân Mỹ cũng như quân đồng
minh của Mỹ không phải người Việt Nam – như hạ bệ Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Rút quân ngoại lai không khó đối với Mỹ nhưng
dẹp ông Thiệu thì không thể được. Vì Nixon phải đền ơn đáp nghĩa
ông Thiệu đã giúp để đắc cử năm 1968 chăng? Hay vì phải tôn
trọng quyền tự quyết của nhơn dân Việt Nam Cộng Hòa? Cứ kéo dài
hòa đàm như thế trong khi hàng chục ngàn người phải hy sinh trên
chiến trường.
Mặt
nổi của hòa đàm Paris thì cứ "ầu ơ dí dầu" như vậy để làm bình
phong cho chuyện đi đêm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Nên chi
chuyện dài của hội nghị Paris phải được hiểu trên hai mặt. Một
là hòa đàm chánh thức qua khoáng đại, gồm có bốn bên - Nam Việt
Nam, Bắc Việt, MTGP và Huê Kỳ. Hai là mật đàm, mà cũng là đối
thoại thực sự và có chất lượng, giữa Hà Nội và Huê Kỳ mà thôi.
Quá chú trọng đến hình thức "đi đêm" – vì có phần nào đạt được
tiến triển cụ thể - hai ông Nixon và Kissinger đã gây ra nhiều
hậu quả tai hại. Ngoài một vài trợ lý thuộc hội đồng an ninh
quốc gia ra, chỉ có tổng thống, Kissinger và ông đại sứ Bunker
biết đến đường dây ngoại giao song hành này. Cho đến ngày 25
tháng Giêng 1972, bộ Ngoại Giao, Tham mưu trưởng liên quân, CIA,
và bộ Quốc Phòng đều bị cho ra rìa hết. Tồi tệ hơn hết là mặc
dầu Nixon và Kissinger bảo đảm sẽ tham khảo và báo cáo cho Tổng
Thống Thiệu những vấn đề liên quan đến mật đàm, đặc biệt những
chuyện liên quan đến vấn đề chánh trị nội bộ Nam Việt Nam, vậy
mà ông Thiệu chỉ được "thông báo" chớ chẳng khi nào được "tham
khảo" hết. Nixon có lối xử sự đặc biệt để dàn xếp trực tiếp với
Hà Nội mà chánh phủ của ông và thậm chí đồng minh Việt Nam của
ông chẳng hay biết gì hết. Rồi sau đó, ông tha hồ mà thuật lại
cho mỗi phe phía một dạng khác nhau của cùng một vấn đề.
Nhứt định là chiến lược của Nixon đối với Hà Nội có vẻ hợp tình
hợp lý hơn chiến lược của Lyndon Johnson vì ông đưa ra những mối
đe dọa rõ ràng hơn và có ý định sử dụng nhiều phương tiện để
thực thi hơn. Thế nhưng, đối với kẻ điếc không sợ súng thì hăm
dọa cũng không ăn thua gì. Hơn nữa càng ném bom, dân chúng càng
khổ, còn tập đoàn lãnh đạo vẫn phây phây. Xuyên suốt mấy năm hòa
đàm, Hà Nội cứ âm thầm lẳng lặng thử thách Hoa Thạnh Đốn bằng
thời gian, lâu lâu tìm cách chọc giận Mỹ, như tìm cách chia rẽ
nội bộ Huê Kỳ, chia rẻ Huê Kỳ với đồng minh ở Sài Gòn và làm cho
dư luận thế giới chống lại Mỹ.
Khi Nixon nhậm chức hồi tháng Giêng năm 1969, Huê Kỳ đã dấn thân
vào chuyện đánh nhau ở Việt Nam gần bốn năm. Quân số Mỹ ở Việt
Nam lên trên 540.000, phần lớn là quân bộ chiến. Trên 30.000
người Mỹ đã hy sinh và chiến tranh làm cho tài khoản 1969 phải
gánh chịu 30 tỷ đô la. Riêng trong năm 1968, đã có trên 14.500
quân lính Mỹ phải hy sinh. Theo nhận định của Kissinger thì cuộc
chiến ở Việt Nam dường như bị bế tắc, nghĩa là không thể thắng
bằng quân sự. Nhưng Nixon cũng nhứt quyết không để cho chiến
tranh Việt Nam làm hư nhiệm kỳ tổng thống của ông.
Khi Nixon chuẩn bị nhậm chức thì Hà Nội đã cho thấy rõ là lập
trường hòa đàm của hai bên còn quá xa. Vào cuối tháng Mười Hai
năm 1968, Mai Văn Bộ nói với Sainteny:"Ban đầu, tôi nghĩ rằng
vấn đề là để biết Huê Kỳ có mong muốn hòa bình không, có thật sự
muốn rút quân lính ra khỏi Nam Việt Nam không, hay là họ chỉ
muốn nói về chuyện đó để rồi chẳng làm gì cả. Điều còn lại, hiển
nhiên là chánh phủ Sài Gòn không muốn có hòa bình. Thay vì vậy,
họ mong sao Mỹ vẫn ở Việt Nam để họ có thể tiếp tục sống nhờ
chiến tranh. Chừng nào chánh phủ Thiệu còn nắm quyền thì khó mà
giải quyết những vấn đề nói trên."
Với quyết tâm giải quyết cho xong và một cách nhanh chóng vấn đề
Việt Nam – Nixon muốn sao nổ lực hòa bình của ông phải có kết
quả trong vòng sáu tháng - vậy mà khi Nixon vừa xong lễ đăng
quang cặp bài trùng Nixon-Kissinger đã gặp một viễn ảnh hòa đàm
không mấy tươi sáng.
Tháng
Ba năm 1969, Nixon bắt đầu cho áp dụng kế hoạch hành động của
ông. Ông phái bộ trưởng Quốc Phòng, Melvin Laird, đi Việt Nam có
Tướng Wheeler tháp tùng, với một lời căn dặn rõ rệt:"Nhân dân
Huê Kỳ mong muốn chánh phủ mới lên đưa cuộc chiến tranh đến hồi
kết cuộc thỏa đáng... và, đối với đông đảo người Mỹ thì như vậy
có nghĩa là nên rút quân lính ra khỏi cuộc chiến." Tại hiện
trường, ông Laird nói với những cấp chỉ huy Mỹ là họ có nhiệm vụ
tìm cách chuyển công việc chiến đấu một cách "nhanh chóng" và
"có phương pháp" lại cho người Việt Nam. Thế là kế hoạch rút Mỹ
ra khỏi chiến tranh Việt Nam của Nixon biến thành biện pháp nổi
tiếng "Việt Nam Hóa", qua đó Huê Kỳ phải tăng cường lực lượng võ
trang Nam Việt Nam cùng với việc đưa thêm thiết bị và võ khí cho
Nam Việt Nam. Như vậy, hai hướng chánh của Nixon là Việt Nam hóa
chiến tranh và thương thuyết để tìm hòa bình.
Việt
Nam hóa chiến tranh trên bộ, nhưng Nixon vẫn còn nghĩ tới chuyện
chận đứng nguồn tiếp tế chiến cụ kín đáo của Việt Cộng, một
hướng "hậu cần" từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trong chương
trình đó, kho chứa võ khí thuận tiện nhứt của cộng sản là lãnh
thổ Cam Bốt, giáp ranh với Nam Việt Nam. Chiến dịch B-52 để tiêu
diệt sào huyệt Việt Cộng bên đất Miên bắt đầu hoạt động ngày
18.3.1969, dưới tên gọi mã hóa là MENU và được giấu kín. Chiến
dịch này kéo dài 14 tháng, đến ngày 26.5.1970 mới kết thúc
(3.875 phi xuất và sử dụng 180.823 tấn bom đạn), đã được giữ tối
mật, thậm chí những lịnh hành quân cũng như những báo cáo kết
quả đều được ngụy trang là được thực hiện trên những mục tiêu
nằm bên trong lãnh thổ Việt Nam.
Trong khi chiến dịch MENU đang được tiến hành, Tổng Thống Nixon
lên truyền hình toàn quốc ngày 14.5.1969, đưa ra sáng kiến hòa
bình tám điểm nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Sáng kiến hòa
bình này là để đáp ứng lại chương trình mười điểm ngày 8.5.1969
của MTGP. Nội dung chánh của sáng kiến hòa bình Nixon là đề nghị
hai bên cùng rút quân chiến đấu ra khỏi Nam Việt Nam và duy trì
chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Qua sáng kiến đó, ông Nixon nhắn
với Bắc Việt là "Một nước lớn không thể chối bỏ những lời cam
kết của mình. Một nước lớn phải đáng được tin tưởng... Như vậy
là rõ ràng bên nào đã có tiến bộ trên hành trình đi đến hòa
bình. Chúng ta đã làm hết khả năng của mình để mở cánh cửa hòa
bình, bây giờ là lúc bên kia phải đáp ứng."
Ngày hôm sau, có đáp ứng ngay của Hà Nội, cho rằng:"Kế hoạch của
nhà cầm quyền Nixon không phải để kết thúc chiến tranh, nhưng để
đem chiến tranh xâm lược do quân đội tay sai của Huê Kỳ tiến
hành thay thế chiến tranh xâm lược của Mỹ." Tóm lại, Bắc Việt
vẫn giữ nguyên lập trường, mặc dầu phía Huê Kỳ - từ Johnson cho
đến Nixon – có đưa ra bao nhiêu sáng kiến cũng mặc.
Vào khoảng nửa năm đầu của nhiệm kỳ, ông Nixon thấy cần phải gặp
tổng thống Thiệu, và trong lần thượng đỉnh này hai bên Việt Mỹ
cũng gặp những cái lủng củng đâu chẳng ra đâu về địa điểm gặp
nhau. Việt Nam đòi gặp nhau ở Hoa Thạnh Đốn, Mỹ sợ biểu tình
phản đối, đề nghị Honolulu. Vì thể diện quốc gia, Việt Nam không
chấp thuận họp nhau trên những hòn đảo vui chơi của Huê Kỳ, Mỹ
bèn chọn đảo Midway, Việt Nam nghe ra hữu lý vì "midway" là giữa
đường, như vậy là mỗi nước đi một bước. Giao dịch với da vàng,
đôi khi Mỹ cũng bực mình vì những thứ nhỏ nhặt chẳng hiểu nổi!
Ở
thượng đỉnh Midway, Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận chương trình
"Việt Nam Hóa" chiến tranh của Nixon. Biết sao bây giờ, Tổng
Thống Thiệu đành gắng gượng:"Tôi biết là Mỹ phải ra về, nhưng
trước khi đi, Mỹ phải để lại chút gì cho chúng tôi trong tình
thân hữu. Để lại chút gì để giúp đỡ chúng tôi." Nixon cũng cho
ông Thiệu biết là Mỹ và Hà Nội có mật đàm với nhau và cam kết sẽ
thông báo Sài Gòn và tham khảo Dinh Độc Lập, mỗi khi có vấn đề
thuộc nội bộ của Nam Việt Nam. Nixon hứa là một chuyện, nhưng
đối tượng đi mật đàm là Kissinger,
nên ông Thiệu mù tịt những gì Mỹ và Bắc Việt trao đổi nhau qua
các cuộc "đi đêm".
Trong thời gian thượng đỉnh Mỹ-Việt ở Midway, MTGP loan báo tại
Paris sự ra đời của cái gọi là "Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam"
(CPLT). Trần Bữu Kiếm tuyên bố CPLT sẽ thay thế MTGP tại hòa đàm
Paris và bà Nguyễn Thị Bình, nay là bộ trưởng Ngoại Giao của
CPLT sẽ đảm nhiệm chức trưởng phái đoàn hòa đàm, thay Kiếm. Như
vậy là, trên bình diện chánh trị, phía cộng sản đang có một âm
mưu mới để đưa ra trên bàn hòa đàm. Họ có thêm yếu tố để kéo dài
thời gian, thử thách thêm nữa lòng kiên nhẫn của phía Mỹ.
Với kỳ hạn 1.11.1969 cho Hà Nội, từ mùa hè năm đó, nghĩa là
trong nửa năm đầu của nhiệm kỳ, Huê Kỳ đã lo thiết lập kế hoạch
để dứt khoát với chiến tranh Việt Nam - kế hoạch "Duck Hood" -
với một "trận đánh dã man", nếu như Hà Nội cứ tạo ra bế tắc tại
hòa đàm. Kế hoạch này dự kiến nhiều hành động mà Kissinger cho
là "để đánh Bắc Việt một trận tàn bạo và dứt khoát".
Một tài liệu tối mật, đã được giải tỏa, mang tên "Kế Hoạch Hành
Quân" trong hồ sơ "Dự Thảo Kế Hoạch về Việt Nam", đề ngày
16.9.1969 và định thi hành vào ngày 1.11.1969 dư tính sẽ "... sử
dụng mọi lực lượng cần thiết để đạt được mục tiêu căn bản của
Huê Kỳ ở Đông Nam Á. Hành động như vậy nhằm tác động mạnh mẽ về
mặt chánh trị, quân sự và tâm lý." Chương trình hành động sẽ kéo
dài 9 ngày: 4 ngày tấn công đầu tiên gồm có gày mìn bến tàu và
hải cảng Bắc Việt và Cam Bốt và không kích 29 mục tiêu quân sự.
Sau đó ngưng 1 ngày để chờ phản ứng của Hà Nội. Nếu như Hà Nội
vẫn không khoan nhượng ở hòa đàm thì tiếp tục 4 ngày ném bom
nữa, và như vậy đến chừng nào Bắc Việt chịu hòa đàm nghiêm
chỉnh. Ngoài ra, kế hoạch cũng dự trù gia tăng áp lực kể cả việc
phong bế Sihanoukville, đánh phá đê sông Hồng và đổ bộ qua vùng
phi quân sự.
Thế nhưng, trong nội bộ chánh phủ có những bất đồng ý kiến về kế
hoạch này vì không chắc gì Hà Nội lùi bước trước những sự đe
dọa. Ngoài ra, sử dụng B-52 ném bom thì tổn thất dân sự nhứt
định sẽ nặng nề và do đó sẽ đổ thêm dầu cho ngọn lửa phản chiến
ở trên đất nước Huê Kỳ. Cuộc biểu tình phản chiến trên toàn quốc
ngày 15.10.1969 đã làm cho Nixon càng thêm ngần ngại nên kế
hoạch đã bị hủy bỏ. Hơn nữa, ngày 14.10.1969, đài phát thanh Hà
Nội loan đi một bức thơ nặng tính tuyên truyền của Thủ Tuớng
Phạm Văn Đồng, ca ngợi "những người Mỹ yêu chuộng hòa bình và
công lý, đã tung ra một chiến dịch rộng lớn và quyết liệt trên
toàn quốc để đòi chánh phủ Nixon chấm dứt chiến tranh xâm lược
Việt Nam và đưa ngay quân lính Mỹ về." Một hành động trắng trợn
can thiệp vào nội bộ của Huê Kỳ.
Về sau, những hồ sơ bạch hóa cho thấy rằng Nixon, Kissinger và
Haig đều tiếc đã không thi hành kế hoạch như dự tính. Sau khi
hiệp định Paris đã được ký kết, Kissinger buột miệng tâm sự với
Bill Safire (người thảo diễn văn cho Nixon):"Lẽ ra chúng ta nên
ném bom cho tiêu tan bọn chúng, ngay từ khi mới nhậm chức... Bắc
Việt bắt đầu tấn công hồi tháng Hai năm 1969. Lẽ ra chúng ta
phải đánh trả quyết liệt ngay, bắt chẹt phe bồ câu ngay lúc bấy
giờ, bắt đầu ném bom và cài mìn hải cảng. Chiến tranh có lẽ đã
kết thúc hồi 1970."
Ông
Alexander Haig, trợ lý quân sự cho Kissinger, cằn nhằn:"Tôi hoàn
toàn và dứt khoát tin rằng nếu như hồi 1969 chúng ta đã làm
những gì chúng ta thi hành hồi cuối năm 1972 thì cuộc chiến đó
đã xong lúc bấy giờ, chúng ta đã đem được tù binh về và mình đã
đạt được mục tiêu rồi... Chúng ta lẽ ra phải quyết liệt hơn
trong việc đem sức mạnh của mình đánh vào nguồn gốc của vấn
đề... Tôi nghĩ hồi năm 1969, khi tổng thống mới nhậm chức, ông
ấy bắt đầu cho ném bom Hà Nội ngay, huy động lực lượng của mình
tại quê nhà, báo cho Liên Xô hay... và thi hành những việc lẽ ra
chánh phủ Johnson phải làm và như vậy khỏi mất ba năm chiến
tranh nữa, để có hòa đàm và tống cổ bộ đội Bắc Việt xâm lược
miền Nam ra khỏi Nam Việt Nam."
Năm 1969 sắp qua đi, nghĩa là sau một năm cầm quyền, Nixon vẫn
chưa nhổ được cái gai nhức nhối "Việt Nam"! Hòa đàm Paris vẫn
còn ì à ì ạch, tiến triển theo bước đi của nghêu sò ốc hến.
Những phiên họp khoáng đại ở trung tâm hội nghị quốc tế được nổi
tiếng là chỉ bàn về hình dáng của cái bàn họp. Phe thì đưa ra
kiểu bàn vuông, bốn cạnh cho bốn phái đoàn, phía thì quan niện
chỉ có hai phái đoàn nên đưa ý kiến bàn hình chữ nhựt, và còn
bao nhiêu là mẫu mã nữa! Vậy mà vẫn chưa bên nào vừa lòng. Phải
đợi đến ông đại sứ Liên Xô tại Paris đưa ra hình dáng chiếc bàn
tròn thật rộng lớn, ở hai đầu đường kính là hai bàn nhỏ hình chữ
nhựt dành cho thơ ký và trên bàn không có quốc kỳ nhỏ hay bản
tên gì hết. Người ta cứ nhỏ nhen li ti cho một vấn đề trọng đại
là chấm dứt chiến tranh và mưu tìm hòa bình. Đến nỗi danh xưng
của hội đàm cũng được gọi khác nhau. Mỹ thì gọi là "Hòa Đàm
Paris" còn Hà Nội thì cho là "Đàm Phán Paris", toàn là chơi chữ.
Huê Kỳ thì cho là hội nghị hai bên, trong khi Hà Nội lại nói là
hòa đàm bốn phe. Cứ như vậy mà kéo dài từ tháng Năm 1968, mỗi
tuần chỉ họp có một ngày. Chỉ có những cuộc đi đêm giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ mới có thực chất, nhưng cũng từ từ thôi.
Thời gian chẳng là gì hết đối với những con người của xã hội
chậm tiến.
Xem
tiếp...
Cố Nhân
|