Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài
8
Mùa hè đỏ lửa
Tính đến tháng Giêng 1972, Huê Kỳ đã nhượng bộ phía cộng sản
hầu hết những điểm chánh, kể cả điều mặc nhiên không nói trắng
ra là "ngừng bắn tại chỗ". Như vậy, quân Bắc Việt cứ ở lại
miền Nam nếu họ đã "trót" ở đó rồi! Người ta có thể thấy trước
những "đoạn phim" sẽ chiếu ra. Bắc Việt không mượn được bàn
tay "lông lá" của Mỹ để hất cẳng ông Thiệu. Bắc Việt không có
ý định gác kiếm, rửa tay, ngưng chiến đấu, nếu chưa lấy lại
được miền Nam, cái "vú sữa" của miền Bắc. Thế là, Bắc Việt cho
thấy đã có một chiến lược hiển nhiên là cản trở hòa bình, đưa
quân vào Nam, và chỉ dàn xếp khi nào "ngưng bắn tại chỗ" đã
gần thành "chiến thắng tại chỗ".
Tháng này qua tháng nọ, Lê Đức Thọ cứ làm cho Kissinger nuôi hy
vọng là sẽ bắt đầu có thương lượng nghiêm chỉnh, nhưng tất cả
chỉ là những trò gian lận, xảo trá. Ngày lễ Phục Sinh 30.3.1972,
Bắc Việt mở một cuộc tấn công quy mô nhứt trong toàn bộ cuộc
chiến tranh Việt Nam. Một trận đánh theo kiểu chiến tranh cổ
điển, cốt giáng cho quân đội Nam Việt Nam một đòn trí mạng và dự
trù kéo dài sáu tháng.
Tướng
Giáp đưa "con gà" của mình là Văn Tiến Dũng ra chỉ huy "Chiến
Dịch Xuân-Hè 1972" này, theo cách gọi của Việt Cộng. Dũng là bậc
lão thành của Sư Đoàn 320, đã một thời đánh Pháp ở vùng châu thổ
Sông Hồng. Chiến thuật áp dụng trong trận đánh này hoàn toàn
khác biệt với lối đánh xưa nay của cộng quân. Giáp muốn áp dụng
lối đánh biển người với mục đích cướp và giữ đất, kể cả việc
đánh úp những thành phố quan trọng miền Nam như Huế và Đà Nẳng.
Trận đánh xuất phát từ những sào huyệt của cộng quân Bắc Việt ở
Lào và Cam Bốt.
Tài liệu tịch thu của cộng quân, cũng như kết quả điều tra tù
binh Bắc Việt cho biết rằng tướng Giáp muốn tiêu diệt càng nhiều
quân đội Việt Nam Cộng Hòa càng hay. Nếu chiếm được những vùng
đông dân cư sẽ tạo điều kiện cho Việt Cộng đánh úp cả thủ đô Sài
Gòn. Chiến thuật trong trận đánh này hoàn toàn khác biệt với lối
"đánh rồi chạy", kiểu cò con, đã được áp dụng xưa nay. Tướng
Giáp hy vọng rằng, chiến dịch xuân-hè này sẽ lật đổ được chánh
phủ Nguyễn Văn Thiệu. Còn tổng thống Nixon thì tin tưởng rằng
phen này địch quân quyết tâm đánh một trận "được ăn cả, ngã về
không".
Cuộc tấn công lễ Phục Sinh đó nổ ra trong lúc Nixon và Kissinger
đang chuẩn bị cho kỳ thượng đỉnh lịch sử thứ nhì với lãnh tụ
cộng sản Liên Xô, Leonid Brezhnev. Kissinger dự tính âm thầm đi
Mạc Tư Khoa từ 20 đến 25.4.72 để sắp xếp chuyến đi của Nixon.
Ngày
01.4.72, Nixon trả đũa lại cuộc tấn công của quân cộng sản với
trận ném bom Bắc Việt Nam trong vòng 25 dặm của vùng phi quân
sự. Đến ngày 14.4, ông ra lịnh oanh kích đến tận vĩ tuyến 20.
Hậu quả là Bắc Việt lại ngưng hòa đàm. Sau bốn ngày đánh bom
miền Bắc, nhựt ký của ông chánh văn phòng tổng thống Nixon
ghi:"Đây là lần đầu tiên tổng thống cho tập trung một lực lượng
hùng hậu B-52, trong chiến dịch mang tên "Freedom Train" (Con
tàu tự do), dành cho Bắc Việt Nam. Tổng thống nghĩ rằng làm như
vậy, chúng ta sẽ có được cơ hội thuận lợi để thương thuyết, một
dịp may mà trước nay tổng thống chưa thật sự cảm thấy bao giờ.
Tổng thống nghĩ rằng cộng sản tấn công như vậy là một hành động
liều lĩnh và họ sẽ phải điều đình. Kissinger cũng cùng quan điểm
với tổng thống.
Ngày 12.4.72, sau đợt ném bom và hải pháo đánh vào Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, Chu Ân Lai trao đổi với Nguyễn Tiến, đại biện lâm
thời của Hà Nội tại Bắc Kinh:"Huê Kỳ đang mở rộng cuộc ném bom
và nới rộng mặt trận để ngăn ngừa thất bại. Điều đó nhứt định sẽ
không thành công. Nhơn dân Đông Dương đang đoàn kết đứng lên và
tay trong tay chiến đấu. Dẫu cho Huê Kỳ có mang chiến tranh đến
đâu đi nữa thì họ cũng sẽ bị thiệt hại nặng nề. Trung Quốc kiên
quyết ủng hộ lập trường đứng đắn của chánh phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, và sẽ làm hết sức mình để ủng hộ nhơn dân Việt Nam
trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đến cùng."
Ngày 16.4.72, một đợt không kích mới của chiến dịch "Freedom
Train", với năm B-52, tiến đánh các mục tiêu trong khu vực Hà
Nội-Hải Phòng. Có bốn chiếc tàu của Liên Xô bị lạc đạn, nhưng
Liên Xô không có phản ứng gì. Để cho Huê Kỳ ngầm hiểu rằng Liên
Xô không muốn để cho dự án "thượng đỉnh" sắp tới bị ảnh hưởng.
Ngày 20.4.72, Kissinger kín đáo đi Mạc Tư Khoa và được tiếp đón
hết sức hữu nghị. Liên Xô cho Kissinger biết ý định mong muốn
giúp đỡ Huê Kỳ trong chuyện dàn xếp ở Việt Nam và loại bỏ mọi
trở ngại cho thượng đỉnh sắp tới. Kissinger hứa với Brezhnev là
Huê Kỳ sẽ chấp nhận cuộc ngưng bắn tại chỗ, cũng như sự hiện
diện của quân Bắc Việt ở Nam Việt Nam - kể cả số quân xâm nhập
sau cuộc tấn công lễ Phục Sinh. Kissinger yêu cầu Mạc Tư Khoa
nói lại cho Hà Nội biết, vì lập trường đó nay đã chánh thức rồi.
Ngày
24.4.72, trong một điện văn gởi cho Đại sứ Bunker ở Sài Gòn,
Kissinger yêu cầu ông đại sứ xin tổng thống Thiệu đừng tiết lộ
gì về chuyến đi Mạc Tư Khoa của Kissinger, vì Liên Xô không muốn
người ta biết rằng vấn đề Việt Nam đã được bàn với Nga. Thông
cáo chánh thức của Bạch Cung chỉ nói rằng Kissinger đã có mặt ở
Mạc Tư Khoa từ 20.4 đến 24.4 để bàn bạc với Gromyko về những vấn
đề quốc tế quan trọng cũng như những vấn đề song phương, để
chuẩn bị cho kỳ thượng đỉnh giữa Nixon và các lãnh tụ Liên Xô
vào tháng Năm sắp tới.
Qua chuyến đi để chuẩn bị thượng đỉnh, Liên Xô có hứa với
Kissinger là sẽ giúp Huê Kỳ để hòa đàm tiến triển nhanh. Để trắc
nghiệm ảnh hưởng của Liên Xô với Hà Nội, phía Mỹ đề nghị họp
khoáng đại hòa đàm Paris ngày 27.4. Phía Bắc Việt để nghị mật
đàm ngày 02.5. Phía Mỹ định rằng nếu lần này mà chẳng có gì cụ
thể thì sẽ làm mạnh và có thể lại đình chỉ hòa đàm.
Trong khi đó, trưởng ban đối ngoại của Ủy Ban Trung Ương Đảng
Liên Xô, Konstantin Katushev, bay đi Hà Nội thông báo cho Phạm
Văn Đồng biết ý định của Nixon. Chạm tự ái, Đồng nổi nóng:"Ai
cho phép bọn họ đe dọa chúng tôi. Chúng tôi sẽ cho bọn họ thấy
rằng chương trình 'Việt Nam Hóa' của họ nhất định sẽ thất bại.
Bọn bù nhìn chắc chắn sẽ bị quét sạch và không có phương cách
nào làm cho chúng nó sống dậy."
Ấy thế mà tin tức chiến trường Quảng Trị chẳng có gì lạc quan.
Tướng Abrams, tư lịnh chiến trường Việt Nam, điện cho Kissinger
tin Quảng Trị thất thủ và mặt trận Huế cực kỳ sôi động. Với thất
bại ở chiến tuyến cộng với thảm cảnh trên "đại lộ kinh hoàng",
Tướng Abrams cho Kissinger biết rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa
có thể sẽ mất tinh thần, không chiến đấu được và "toàn bộ sẽ
hỏng hết".
Trong nhựt ký, Nixon để lộ sự chán nản và có ý muốn từ chức.
Nhưng Kissinger khuyên lơn "lẽ nào lại để cho Bắc Việt Nam làm
hỏng sự nghiệp của hai tổng thống sao". Trong sổ tay, ông chánh
văn phòng Haldeman ghi:"Hai người (Nixon và Kissinger) đồng ý là
dẫu có ra sao đi nữa thì mình cũng phải kết thúc chiến tranh vào
tháng Tám. Hoặc là chúng ta đánh tan được họ hay là họ sẽ đánh
bại mình, thế là chiến cuộc sẽ chấm dứt."
Bầu không khí của phiên mật đàm ngày 2.5 rất nặng nề và căng
thẳng. Theo ông Lưu Văn Lợi (đại tá, thành viên trong phái đoàn
cộng sản) thì trong phiên họp đó Kissinger "không còn giữ được
dáng dấp của một giáo sư đại học, thích diễn giãi dông dài và
lúc nào cũng bông đùa, mà đã trở thành một con người ít nói, có
vẻ bối rối và trầm tư." Y như rằng, hôm đó phiên họp giữa
Kissinger với Lê Đức Thọ hơi thô bạo vì, với chiến thắng của
cộng quân ở Quảng Trị, Thọ cho rằng Nam Việt Nam sụp đổ đến nơi.
Tin tưởng rằng ảnh hưởng của Liên Xô có thể đem lại hiệu quả,
nhưng phiên mật đàm ngày 2.5 đã làm cho Kissinger vỡ mộng. Với
tin tức chiến trường, phía cộng sản lại hung hăng hơn và còn tìm
cách khai thác tình hình chống đối trong quốc nội Huê Kỳ. Lê Đức
Thọ viện dẫn lời tuyên bố ngày 8.4 của Thượng nghị sĩ Fulbright,
cho rằng "hoạt động quân sự của lực lượng võ trang yêu nước đã
bùng lên cũng là phản ứng tự nhiên để đáp ứng lại chánh sách của
Huê Kỳ nhằm phá hoại Hiệp định Genève 1954." Ngoài ra, Lê Đức
Thọ và Xuân Thủy lại còn đòi Mỹ phải loại bỏ ông Thiệu ngay và
rút quân nhanh chóng hơn nữa. Cuối cùng, khi Kissinger thắc mắc
là Liên Xô không có nói gì với Bắc Việt sao, thì Thọ trả lời
thẳng thừng:"Chúng tôi đã nhiều lần nói với các ông là có vấn đề
gì nên nói trực tiếp với chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ trả lời
thẳng cho các ông. Chúng tôi không nói chuyện qua trung gian.
Nếu như quý ông có gì thì cứ nói ngay, chúng tôi sẵn sàng thảo
luận với các ông." Thế là cuộc mật đàm kết thúc, chẳng đâu ra
đâu hết, mà cũng không có hứa hẹn gì cho phiên họp tới.
Một phiên mật đàm mà những người đối thoại phía cộng sản bị
Kissinger cho là "xấc láo" và "khó chịu".
Trong tờ trình cho Nixon, Kissinger báo cáo:"Hôm nay, tôi đã mất
ba tiếng đồng hồ với Lê Đức Thọ và Xuân Thủy, qua một cuộc mật
đàm mà thực chất hoàn toàn vô tích sự nhưng lại làm cho thời
gian hòa đàm của chúng ta kéo dài thêm... Họ cho thấy rõ là sẽ
không giảm bớt chuyện đánh nhau hoặc đưa ra điều gì mới trong
cuộc dàn xếp."
Rõ ràng là chiến trường tác động mạnh đến bàn hội nghị. Sau khi
cộng sản chiếm được Quảng Trị rồi, Kissinger gặp rất nhiều bực
mình khi mật đàm với Lê Đức Thọ. Một cuộc mật đàm phải vận động
mãi mới được – vì đã bị gián đoạn – nhưng khi nhập cuộc, Thọ chĩ
đọc tin tức trên báo về những diễn tiến ở Quảng Trị cho
Kissinger nghe. Để đáp lại lời của Kissinger nói rằng "đâu phải
tôi lặn lội hàng ngàn cây số đến đây và vận động năm tháng trời
mới được buổi mật đàm hôm nay, rồi chỉ được nghe ông đọc báo
sao" thì Thọ tỉnh bơ nói:"Nếu quả như vậy thì có sao đâu?" Sau
biến cố khó chịu đó, Mỹ chỉ thị cho Đại sứ Porter hủy bỏ phiên
họp khoáng đại tại hội trường Majestic.
Nixon cũng bực mình cao độ. Nhựt ký ngày 2.5.72 của Nixon
viết: "Đây là cơ hội cuối cùng của Hà Nội. Bây giờ tôi quyết
định là phải làm cho cuộc xâm chiếm của Bắc Việt Nam bị thất
bại." Mỹ thấy rằng, Hà Nội ương bướng trở lại vì tin tưởng rằng
mặt trận quân sự sễ đem lại thắng lợi chánh trị cho họ. Nixon có
ý định hành động theo bản năng của mình.
Nixon yêu cầu Kissinger và Haldeman đến gặp Bộ Trưởng Tài Chánh
John Connally, một người bạn thân tín của Nixon. Connally dứt
khoát:"Điều quan trọng nhứt là tổng thống không được thua cuộc
chiến! Và ông ấy không nên hủy bỏ thượng đỉnh. Ông ấy phải có
quyết tâm và phải tỏ ra có tài lãnh đạo trong vụ này." Sau đó,
trong một buổi họp với Kissinger, Haig, Connally và Haldeman,
Nixon tâm sự rằng sai lầm lớn nhứt của ông là không chịu nghe
theo bản năng, oanh tạc Bắc Việt cùng lúc với tấn công qua Cam
Bốt. Nixon kết luận:"Dù sao đi nữa thì chúng ta không thể thua
cuộc chiến này".
Ngày 8.5.72, tổng thống Nixon triệu tập cuộc họp Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia (HĐANQG) để bàn về chuyện đặt mìn cảng Hải Phòng
và tái oanh kích vùng Hà Nội-Hải Phòng. Sau phiên họp với
HĐANQG, Nixon triệu tập hội đồng nội các để loan báo quyết định
hành động mạnh với Hà Nội. Đồng thời Nixon cũng mời cấp lãnh đạo
lưỡng viện Quốc Hội, một hành động cho thấy Mỹ nhứt định làm to
chuyện trong chiến tranh Việt Nam.
Trong bài diễn văn truyền hình phát đi trên toàn quốc, tổng
thống Nixon cho biết:"Chỉ có một cách duy nhứt để chấm dứt cuộc
giết hại lẫn nhau. Đó là đừng để cho bọn tội phạm quốc tế Bắc
Việt nắm võ khí chiến tranh trong tay. Tôi đã ra lịnh những biện
pháp kể sau, hiện đang được tiến hành, trong khi tôi đang thưa
chuyện cùng đồng bào." Sau đó, Nixon trình bày kế hoạch phong
tỏa đường biển Bắc Việt, đồng thời chương trình thương thảo với
Hà Nội. Chủ yếu là Nixon quyết tâm bảo vệ sinh mạng của quân
nhân Mỹ và Nam Việt Nam, cũng như không để cho cộng sản thắng
thế về chánh trị ở Nam Việt Nam. Sau đợt nặng tay của Nixon, hậu
phương của cộng sản có phần nao núng và tiền tuyến Quảng Trị
cũng bị ảnh hưởng không mấy tốt đẹp.
Về
chiến dịch "Mùa Hè Đỏ Lửa", bên nào cũng cho là "phe ta" thắng
lợi và thành công! Thế nhưng, trong đoản kỳ thì rõ ràng là một
thất bại của lực lượng võ trang nhân dân Bắc Việt, lại còn có cơ
làm cho đại tướng "anh hùng Điện Biên" mất chức. Vì phải rải
quân cho ba mặt trận, Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,
lại áp dụng chiến thuật biển người nên không đủ sức tập trung
hỏa lực mà chiếm đất. Thiệt hại quân số Bắc Việt trong chiến
dịch "Mùa Hè Đỏ Lửa" cũng nặng nề, nhiều đơn vị tiêu tan, một
vài tiểu đoàn chỉ còn lại có 50 người. Ngoài ra, chiến dịch
"Linebacker" (Ủng hộ chiến tuyến) của không quân Huê Kỳ cũng làm
cho tuyến "hậu cần" của cộng sản bị tổn thất nặng nề, chi viện
cho tiền tuyến phía Nam không kịp mà cũng không đủ.
Đối với Nam Việt Nam thì "Mùa Hè Đỏ Lửa" đem lại một chiến thắng
"có tiếng nhưng không có miếng". Với hậu thuẩn của không lực Huê
Kỳ, chiến dịch này cho thấy chương trình "Việt Nam Hóa" có lý,
ít ra còn khá hơn ở hành quân Lam Sơn 719. Thế nhưng, điều thực
tế là "Việt Nam Hóa" nhưng vẫn còn phải có hậu thuẫn hỏa lực cửa
Mỹ. Kết hợp với tác dụng của "Linebacker", trận đòn đau đớn của
"Mùa Hè Đỏ Lửa" đã làm cho Hà Nội phải xét lại thái độ của mình
ở hòa đàm Paris.
Ngày
20.5.1972, tổng thống Nixon lên đường đi Mạc Tư Khoa để họp
thượng đỉnh, một cuộc họp được Kissinger cho là một biến cố
ngoại giao chưa từng có. Thượng đỉnh họp chánh thức ngày
22.5.72, như đã dự trù, trong đó chuyện Việt Nam được bàn đến
nhiều nhứt, nhưng quan trọng hơn hết là khi Kissinger tuyên bố
rằng Huê Kỳ sẽ chấp nhận hội đồng bầu cử ba thành phần ở Nam
Việt Nam, gồm có chánh phủ Sài Gòn, Việt Cộng và phe trung lập.
Vậy mà, vẫn như trước kia, ông Thiệu cũng không được Mỹ cho biết
về nhượng bộ đó.
Ông Thiệu nóng lòng muốn biết Mỹ và Liên Xô cam kết những gì?
Mãi đến ngày 17.6.72, đại sứ Bunker mới chuyển lời của Nixon cho
ông Thiệu biết rằng Mỹ không có nhượng bộ gì lớn lao, rằng "Mùa
Hè Đỏ Lửa" đã ép buộc Hà Nội phải nhượng bộ những gì họ không
đạt được ở chiến trường, rằng tổng thống Nixon vẫn hoàn toàn ủng
hộ ông Thiệu. Không biết có phải do áp lực của Liên Xô hay không
mà Hà Nội cho thấy rằng họ tiếp tục mật đàm trở lại.
Ngày 12.7.1972, trên đường trở lại Paris, Thọ ghé qua Bắc Kinh
gặp Chu Ân Lai trở lại. Vào lúc này thì thất bại của cộng sản ở
"Mùa Hè Đỏ Lửa" đã rõ trắng đen nên Chu khuyên Thọ nên nắm lấy
đề nghị mới nhứt của Kissinger. Theo lời Chu thì:"Phe ta không
nhìn nhận Nguyễn Văn Thiệu vì hắn ta là bù nhìn của Mỹ. Thế
nhưng, mình cũng có thể coi hắn ta là đại diện của một trong ba
thành phần của chánh phủ liên hiệp. Chánh phủ này sẽ thỏa thuận
nhau về nguyên tắc căn bản để dựa theo đó mà kiểm soát tình hình
sau khi Mỹ rút quân. Huê Kỳ sẽ theo dõi tư thế của Thiệu trong
chánh phủ đó và như vậy họ có thể chấp nhận một giải pháp chánh
trị hơn. Trong trường hợp cuộc thương lượng giữa ba thành phần
thất bại thì chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu." Nhưng Thọ cứ kiên
quyết là không thể chấp nhận một giải pháp nào có Thiệu trong
đó. Chu khuyên Thọ nên linh động hơn trong hội đàm. Nếu như Bắc
Việt lại tỏ ý chấp nhận giải pháp có Thiệu thì sẽ tạo một sự bất
ngờ lớn lao cho phía Mỹ, với lập luận:"Dĩ nhiên là Thiệu làm sao
mà đại diện cho một chánh phủ liên hiệp được. Nhung, trong
thương thuyết, tạo bất ngờ là điều cần thiết."
Thế nhưng, Thọ cứ nằng nặc nhứt định phải loại bỏ Nguyễn Văn
Thiệu. Thọ cho rằng nói chuyện với ai cũng được trừ Thiệu. Chu
cảnh giác Thọ vì như vậy thì có thể nguy hiểm hơn vì chẳng khác
nào một chánh sách "Thiệu mà không có Thiệu". Chu phân trần với
Thọ là có chánh phủ liên hiêp rồi "phe ta" vẫn tiếp tục chiến
đấu thì lo gì. Vấn đề tạm thời hiện lúc này là kéo dài thời gian
để cho lực lượng võ trang Bắc Việt lấy lại sức và chỉnh đốn đội
ngũ, sau "Mùa Hè Đỏ Lửa". Cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội nghĩ rằng,
Thiệu hay chẳng Thiệu gì, sau khi Mỹ đi rồi thì miền Nam sẽ
không còn.
Cuối cùng, ngày 19.7.1972, mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ
tiếp nối trở lại. Một phiên mật đàm hết sức kỳ lạ và ngộ nghĩnh
trong cả quá trình hòa đàm Paris. Hai bên bỗng nhiên bàn về nhơn
vật Jimmy Hoffa, một chủ tịch công đoàn xe chở hàng lớn của Huê
Kỳ. Đương sự dính líu vào một vụ "rửa tiền" cho Mafia Mỹ-Ý Đại
Lợi, bị kết án 15 năm tù hồi 1967. Khi Nixon lên cầm quyền, có
đợt vận động để ân xá Hoffa. Nixon giảm án cho Hoffa, dĩ nhiên
là sau khi hàng trăm ngàn đô la được đóng góp vào quỹ vận động
tranh cử của Nixon và sau khi Hoffa bảo đảm sẽ ra lịnh cho công
đoàn "Teamster" dồn phiếu cho Nixon, trong cuộc bầu cử năm 1972.
Trước khi đi Paris mật đàm với Thọ, Kissinger có gặp William
Taub, luật sư của Hoffa. Ông này vừa trao thơ của Hoffa cho đức
giáo hoàng và cho Lê Đức Thọ. Trong thơ đó, Hoffa tự cho mình là
có thể thay thế Kissinger vì ông cho biết là Lê Đức Thọ có thể
trao tù binh Mỹ cho ông!? Một chuyện rất khó tin.
Ấy vậy mà, Thọ lại nêu ra với Kissinger trong phiên mật đàm ngày
19.7.72. Cộng sản Việt Nam lại dây mơ rễ má với một tên tội phạm
người Mỹ về một vấn đề quan trọng như vậy?! Có thể Hoffa coi tập
đoàn lãnh đạo ở Hà Nội chẳng khác nào một ổ Mafia. Thọ cho
Kissinger biết rằng, Thọ cứ tưởng Hoffa là một lãnh tụ công đoàn
thôi. Chuyến đi Hà Nội của Hoffa dự tính vào tháng Chín, nhưng
không thành vì Ngoại trưởng William Rogers không chấp nhận thủ
tục xuất cảnh cho Hoffa. Chưa có ai biết được Bắc Việt đã hứa gì
với Hoffa và để đáp lại, Hoffa phải trả lễ ra sao.
Ngoài trường hợp Hoffa như là một chuyện mở đầu cho vui phiên
mật đàm, phía Mỹ còn đưa ra một đề nghị mới, khẳng định ý muốn
chấm dứt chiến tranh của Huê Kỳ. Kỳ mật đàm này Kissinger còn
gián tiếp tiết lộ một điểm đặc biệt khi nói rằng:"Huê Kỳ có thể
sống chung hòa bình với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa thì Huê Kỳ cũng
có thể xử sự như vậy với Hà Nội. Trong tương lai, Huê Kỳ không
phải là mối đe dọa cho Hà Nội... Chúng tôi không gắn bó với một
nhơn vật nào đặc biệt hoặc một khuynh hướng chánh trị nào đặc
biệt ở Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn để cho tình hình ở Nam Việt
Nam diễn tiến tự nhiên, không có sự hiện diện cũng như không có
ảnh hưởng nào mạnh mẽ của chúng tôi."
Lại một phiên mật đàm nữa chẳng đi đến đâu, nếu không muốn nói
là chỉ để ấn định thời gian cho phiên mật đàm kế tiếp. Hai phái
đoàn chia tay nhau và hẹn đến phiên họp ngày 01 tháng 8. Ở kỳ
mật đàm này, Kissinger đưa ra giải pháp mới với 12 điểm, với
nhượng bộ mới là Huê Kỳ chấp thuận giải quyết cùng lúc những vấn
đề quân sự và chánh trị. Như vậy, kể ra cũng có tiến triển về số
điểm đưa ra, trong kế hoạch hòa bình.
Tăng lên số điểm, nhưng đồng thời Huê Kỳ cũng bước thêm những
bước thụt lùi. Với đề nghị mới này, Kissinger cho biết Huê Kỳ
thỏa thuận rút về toàn bộ lực lượng đồng minh, cũng như thiết bị
và tháo gỡ hết mọi căn cứ quân sự. Thời gian rút đi cũng thu
ngắn còn bốn tháng. Mỹ cam kết tôn trọng tiến trình chánh trị,
nhìn nhận trên thực tế bất kỳ chánh phủ mới nào ở Nam Việt Nam
và tổng thống Thiệu sẽ từ chức hai tháng trước ngày bầu cử,
nhưng thời gian từ chức này cũng có thể linh động.
Thế nhưng, Hà Nội vẫn trì hoãn và sau phiên mật đàm ngày 14.8.72
cũng không thấy có tiến triển. Rõ ràng là phái đoàn Bắc Việt cứ
ù lì, chờ xem tình hình bầu cử tổng thống Huê Kỳ và diễn tiến
chánh trị ở Sài Gòn. Hà Nội đứng trước một sự chọn lựa gay go.
Hoặc giả họ có thể thỏa hiệp với một chánh phủ sẽ đem lại cho họ
một cơ hội để len lỏi cướp quyền chánh trị ở miền Nam. Hai là họ
có thể nán chờ, dẫu rằng gần như chắc chắn là họ sẽ phải đối đầu
với chánh phủ đó, qua một nhiệm kỳ bốn năm nữa, trong đó người
dân Mỹ không muốn cứ tiếp tục chịu đựng mười năm hy sinh đầy
nhục nhã (2 năm với Johnson và 8 năm với Nixon). Trong tình hình
đó, Huê Kỳ cảm thấy đã gần đến đích, quá trình thương thuyết tốt
đẹp hơn và vẫn còn hy vọng đạt được một hòa bình trong danh dự.
Thực ra, Hà Nội biết rằng cứ kéo dài thời gian như vậy, bộ đội
miền Bắc càng xâm nhập miền Nam đông hơn và Huê Kỳ càng giảm bớt
ý muốn ủng hộ ông Thiệu. Vậy là ông Thiệu cũng cảm thấy rằng
cuộc chơi sắp tới hồi kết cuộc.
Xem
tiếp
Cố Nhân
|