Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài
9
Kissinger và con đường mòn
Cuối
mùa hè 1972, ứng cử viên George McGovern đã thất bại trong kế
hoạch tạo ra hình ảnh hấp dẫn để hốt phiếu cử tri ở cuộc bầu cử
tổng thống Huê Kỳ vào tháng 11 năm 1972. Y như rằng, khả năng
tái đắc cử của Nixon càng ngày càng tốt đẹp hơn. Không phải như
Tổng Thống Johnson hồi 1968 - khi mà Huê Kỳ đã lún sâu ở Nam
Việt Nam và có vẻ như sắp thua đến nơi - vào giữa hè năm 1972,
Tổng Thống Nixon được coi như là đương cố gắng để đạt được hòa
bình. Quả vậy, đợt cài mìn Hải Phòng và leo thang ném bom Bắc
Việt đã thôi thúc Hà Nội trở lại bàn hội đàm, đã tạo điều kiện
cho quân chiến đấu Mỹ trở về nhà, dẫu là một cách chậm rải,
nhưng chắc chắn là có trở về. Nixon cũng suýt gặp nguy cơ thất
bại trên chiến trường, nhưng sau khi cộng sản bị thua thiệt ở
"Mùa Hè Đỏ Lửa" và chiến dịch "Việt Nam Hóa" gần hoàn tất thì
chuyện đó khó xảy ra.
Còn
tình cảnh của Kissinger thì lại khác. "Hồ hởi, phấn khởi" với
thành tích của mình ở Trung Quốc và Liên Xô, và càng ngày càng
trở nên lừng danh trên thế giới, hơn bao giờ hết, ông muốn đạt
được một hiệp định hòa bình ở Paris trước ngày bầu cử tổng thống
Huê Kỳ. Bằng không thì Kissinger sợ rằng sau khi tái đắc cử,
Nixon có thể càng "diều hâu" hơn nữa và biết đâu càng "điên tiết
lên" mà ăn thua đủ với Bắc Việt (Có dư luận cho rằng, một đôi
khi cáu tiết vì Việt Cộng, Nixon muốn cho Bắc Việt ăn bom hạt
nhân). Ngoài ra, Quốc Hội có khuynh hướng định kết thúc chiến
tranh bằng nghị quyết, mà Nixon lại không hội đủ điều kiện để
phủ quyết.
Năm ba tuần lễ trước ngày bầu cử tổng thống Huê Kỳ, Kissinger và
Alexander Haig năng nổ điều đình với Tổng Thống Thiệu cùng với
hai trợ lý Nguyễn Phú Đức và Hoàng Đức Nhã. Tuy rằng học hành và
tốt nghiệp bên Mỹ, cả hai trợ lý này không nghe theo Mỹ một cách
ngoan ngoãn nhờ hiểu rành Mỹ và nắm được dư luận quần chúng. Hai
nhơn vật này lo ngại là Kissinger cố gắng đạt được hòa bình bằng
mọi giá, nhưng không biết ông ta sẽ nhượng bộ cộng sản đến như
thế nào.
Ngày
17 tháng Tám, Kissinger và Bunker lại vào dinh Độc Lập để gặp
Tổng Thống Thiệu, Nhã và Đức, một cuộc diện kiến mà dư luận cho
rằng Kissinger tới để "áp đặt một giải pháp hòa bình" với ông
Thiệu. Quả thật, hôm đó Kissinger đến để trình bày cho ông Thiệu
một đề nghị mà Kissinger tin tưởng rằng Bắc Việt sẽ chấp thuận.
Kissinger định đưa ra cho phía bên kia vào phiên họp ngày 15
tháng Chín.
Đề nghị mới này gồm có việc hình thành một hội đồng bầu cử hỗn
hợp, ba thành phần, với tên gọi "Hội Đồng Hòa Giải Dân Tộc" về
sau biến thành "Ủy Ban Trung Ương Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc".
Kissinger rất tâm đắc với đề nghị này vì ông nghĩ như vậy sẽ
tránh được cái chánh phủ liên hiệp mà cộng sản cứ đòi hỏi.
Thế nhưng, Tổng Thống Thiệu không chấp nhận đề nghị nào có hội
đồng hòa giải vì, theo ông Thiệu thì đó chỉ là bước đầu để rồi
sẽ đi tới một chánh phủ liên hiệp. Ngoài ra, còn những điểm chưa
được làm rõ như cái thế của ông Thiệu, như số quân Bắc Việt
trong Nam. Như để trấn an Tổng Thống Thiệu, Nixon viết thơ riêng
cho Tổng Thống Thiệu:"Tôi xin nhứt quyết cam kết với tổng thống
là chẳng khi nào chúng tôi giàn xếp gì với phía bên kia mà không
có thảo luận trước với tổng thống." Thế nhưng, nói và làm có đi
đôi không?
Chẳng hạn như mặc dầu nghĩ rằng sẽ có ngưng bắn, nhưng Kissinger
lại nói với ông Thiệu là ông ta không nghĩ rằng chuyện đó sắp
xảy ra vì Hà Nội chưa sẵn sàng. Kissinger nói rằng:"Chúng tôi
muốn thực hiện tối đa những gì được cho là hợp lý, nhưng chúng
tôi cũng phải giữ vững nguyên tắc là Huê Kỳ sẽ không khi nào kết
thúc một cuộc chiến, trong đó 45.000 người của chúng tôi đã hy
sinh, bằng cách đi với kẻ thù mà chống lại bằng hữu, hoặc giả
phá tan một chánh phủ đồng minh với chúng tôi để đổi lấy 400 tù
binh chiến tranh, hay chỉ để thắng trong một cuộc bầu cử, chúng
tôi cũng không muốn thắng cử trên một căn bản như vậy.
Sách vở lịch sử tồn tại lâu dài hơn một cuộc bầu cử."
Đối với ông Thiệu thì những lời nói của Kissinger chỉ có tính
cách xã giao, đầu môi chót lưỡi thôi. Những chuyện quan trọng
hơn - đối với Việt Nam Cộng Hòa – không thấy Kissinger đề cập
đến. Như điểm hai bên cùng rút quân thì Kissinger nói là ông
không đạt được sự đồng ý của Liên Xô. Thế rồi Kissinger lảng
sang chuyện khác bằng cách nói là có thể xua quân vào Bắc Việt,
một giả thuyết mà Hoàng Đức Nhã khôi hài cho là chẳng có nghĩa
gì hết.
Ngày hôm sau, Kissinger lại trở vào dinh Độc Lập để diện kiến
Tổng Thống Thiệu. Cũng để bàn tán những chuyện khơi khơi. Nào là
ngừng bắn, nào là tiếp tục ném bom Bắc Việt qua ngày bầu cử tổng
thống Huê Kỳ, nào là chuyện tù binh Huê Kỳ bị cộng sản giam
giữ,...
Qua trao đổi với Kissinger, ông Thiệu thấy có vẻ Mỹ muốn ngưng
bắn tại chỗ, một giải pháp không có lợi cho Nam Việt Nam.
Kissinger cảm thấy rằng ông Thiệu xử sự gần giống như Lê Đức
Thọ, nghĩa là cho thấy gần như ưng thuận để rồi chẳng đồng ý gì
hết.
Kissinger rời Sài Gòn với một nhận xét chua cay là quan điểm của
ông Thiệu về nội dung hòa đàm hoàn toàn khác biệt với Kissinger.
Ông Thiệu chưa sẵn sàng để chấp nhận hòa bình qua thương thuyết.
Tất cả những gì Tổng Thống Thiệu mong muốn là bộ đội miền Bắc
rút về, sau đó là một cuộc bầu cử trong tinh thần mỗi người một
lá phiếu. Ủy ban hòa hợp hòa giải có thể tổ chức bầu cử nhưng
không có quyền cai trị. Theo tinh thần của điện văn gởi đại sứ
Bunker ngày 19 tháng Tám, liên quan đến nội dung của đề nghị mà
Kissinger sẽ trao cho Hà Nội ngày 15 tháng Chín, người ta thấy
rõ rằng Mỹ và Nam Việt Nam vẫn chưa thỏa thuận nhau trên những
điểm then chốt.
Thành thử ra, Kissinger đứng trong một thế vô cùng khó khăn,
muốn thỏa hiệp với Bắc Việt, nhưng phải được Nam Việt Nam chấp
nhận. Trong khi tình hình giữa ông Thiệu và Kissinger còn đương
giằng co thì ngày 22 tháng Tám, Tổng Thống Nixon được đảng Cộng
Hòa tín nhiệm cho ra tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Nên chi, lại
phải thêm một dữ kiện nữa để thu xếp chuyện hòa đàm cho khớp với
ngày bầu cử.
Trong
bức thơ ngày 31 tháng Tám, Tổng Thống Nixon cố gắng thuyết phục
để cho Tổng Thống Thiệu thuận tình với Bạch Cung. Nixon hứa là
Huê Kỳ không khi nào phản bội đồng minh của mình và sẽ không bán
rẻ Nam Việt Nam để đổi lấy hòa bình một cách dễ dàng. Bức thơ
viết tiếp:"Giờ đây, chúng tôi không làm điều gì mà chúng tôi đã
từ chối trong ba năm rưởi đã qua. Nhơn dân Mỹ biết rằng Huê Kỳ
không thể mua lấy hòa bình hay danh dự, hoặc đem những sự hy
sinh của mình đổi chác, mà ruồng bỏ người đồng minh quả cảm của
mình. Điều đó sẽ không có tôi và sẽ chẳng bao giờ có tôi...
nhưng muốn thành công ở đoạn đường cuối cùng, trên một hành
trình dài đăng đẳng, thì chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng nhau.
Lẽ nào vì bất đồng ý kiến mà chúng ta lại trao cho kẻ thù những
gì chúng ta đã không đưa cho họ trong khi chúng ta đoàn kết."
Đọc vậy thì biết vậy, nhưng Tổng Thống Thiệu cũng không thấy yên
lòng bao nhiêu vì linh tính cho ông thấy rằng Huê Kỳ và Bắc Việt
đã xích lại gần nhau trong chuyện hòa đàm.
Phiên mật đàm ngày 15.9.1972 kéo dài sáu tiếng đồng hồ, một
phiên họp mà Kissinger cho là "khá lý thú, từ trước đến nay".
Theo Kissinger thì trong phiên họp đó Bắc Việt có thái độ dè
dặt, phần nào nôn nóng muốn biết thời điểm dứt khoát cho cuộc
dàn xếp sau cùng và chưa khi nào thấy họ muốn mật đàm kế tiếp
sớm sủa và thường hơn. Kissinger đưa ra đề nghị, trong đó có bầu
cử tổng thống dưới sự giám sát của Hội đồng hòa hợp hòa giải,
một đề nghị mà Kissinger cho Tổng Thống Nixon biết rằng "không
được Sài Gòn hoàn toàn tán thành". Và cũng là một biện
pháp mà Tổng Thống Thiệu ngại nhứt, vì nhứt định là nó sẽ dẫn
tới một chánh phủ liên hiệp.
Trước phiên mật đàm kế tiếp, Kissinger nhận được một giác thơ
của Tổng Thống Thiệu, liên quan đến đề nghị của cộng sản, qua kỳ
họp kín ngày 15.9. Ông Thiệu cho rằng đề nghị kỳ này của Hà Nội
có vẻ trịch thượng hơn đề nghị ngày 1.8.72 trước kia. Cộng sản
chỉ muốn tìm cách bắt chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa phải đầu hàng
vô điều kiện. Hơn nữa, đề nghị kỳ này đã để lộ âm mưu ý đồ đen
tối của Lê Đức Thọ.
Thể
theo yêu cầu của Thọ, kỳ mật đàm này kéo dài hai ngày liền, 26
và 27 tháng Chín. Bắc Việt có vẻ nôn nóng, muốn biết Huê Kỳ định
ký kết trước hay sau ngày bầu cử tổng thống Huê Kỳ (tháng 11,
1972). Vậy mà, sau mười một giờ mật đàm trong hai ngày 26 và 27
với Thọ, cũng chẳng có tiến bộ gì đáng kể. Thọ có đề nghị một
dạng biến thể của Hội đồng hòa hợp hòa giải, mang tên "Chánh phủ
Lâm thời Hòa hợp Quốc gia", một chánh phủ hoàn toàn không có ông
Thiệu. Kissinger cho rằng kế hoạch này của cộng sản cũng không
thể chấp nhận được. Thế nhưng, cộng sản đã xích lại gần lập
trường của Mỹ một cách từ từ. Theo Kissinger dự đoán thì, phiên
mật đàm tới, dự tính vào ngày 8 tháng Mười, sẽ dứt khoát đạt
được một sự dàn xếp hoặc giả sẽ tạo ra một loạt hành động quân
sự mới.
Vậy mà đó không phải là điều mà Mỹ đã cho ông Thiệu biết. Đại sứ
Bunker nói với Tổng Thống Thiệu:"Trong tương lai trước mắt, hầu
như không có khả năng gì sẽ dàn xếp được từ nay cho đến tháng
Mười Một, ngoại trừ Hà Nội thay đổi lập trường. Bây giờ thì
chúng ta phải làm cách nào bảo đảm nắm được tình hình và chuẩn
bị chiến lược cho thời kỳ sau bầu cử, theo đường hướng mà ông
Kissinger đã thảo luận với tổng thống trong chuyến đi Việt Nam
kỳ rồi của ông ấy."
Tổng Thống Thiệu tiếp tục vận động quần chúng, bêu riếu cộng sản
cho rằng Bắc Việt đề nghị một giải pháp bịp bợm. Việt Nam Cộng
Hòa là một chánh phủ hợp hiến và hợp pháp, đứng đầu là ông
Nguyễn Văn Thiệu, một tổng thống dân cử. Vậy thì, Huê Kỳ và Hà
Nội lấy quyền gì để đưa ra giải pháp chánh trị này nọ cho tương
lai Nam Việt Nam chớ? Trong cuộc nói chuyện tại một trường Đại
học của Sài Gòn ngày 29.9.72, ông Thiệu cho rằng đề nghị mới của
Việt Cộng còn "đồi bại và ngoan cố hơn trước" và nhấn mạnh rằng
liên hiệp với cộng sản nghĩa là Nam Việt Nam sẽ thất bại trong
chiến tranh chánh trị. Ông Thiệu đả kích mạnh mẽ "Lực lượng thứ
ba" trong chánh trị Nam Việt Nam, một thành phần tự cho là có
quyền cầm cân nẩy mực giữa Việt Nam Cộng Hòa và Chánh Phủ Lâm
Thời miền Nam trong một chánh phủ ba thành phần. Trong bài diễn
văn đọc tại Huế, Tổng Thống Thiệu cho rằng cái gọi là thành phần
thứ ba đó gồm có "một số ít kẻ hoạt đầu, một nhóm tay sai và bọn
lưu vong chánh trị, tự xưng là lực lượng thứ ba ở Nam Việt Nam."
Theo ông Thiệu thì nhóm này là những người thân cộng.
Tại Việt Nam, luận điểm của Tổng Thống Thiệu càng củng cố thêm
hình ảnh của ông như là một lãnh tụ quốc gia có khả năng kháng
cự lại áp lực và mưu toan xen vào nộ bộ Nam Việt Nam của ngoại
bang. Lập trường đó của Tổng Thống Thiệu cũng làm cho quân đội
Việt Nam Cộng Hòa lên tinh thần. Thế nhưng ở bên Mỹ lại là
chuyện khác rồi. Ngay những người ủng hộ lâu đời chánh sách của
tổng thống Mỹ cũng thắc mắc là tại sao ông Thiệu lại có vẻ như
chống đối lại một giải pháp hòa bình qua thương thuyết.
Kissinger lại than thân trách phận:"Người Việt Nam không biết
hàm ơn."
Thấy cần phải hãm bớt ông Thiệu nên Nixon phái Tướng Haig sang
Việt Nam với hai nhiệm vụ. Một là thuyết trình cho ông Thiệu về
phiên mật đàm ngày 8 tháng Mười sắp tới của Kissinger với Lê Đức
Thọ và hai là khuyên lơn Tổng Thống Thiệu nên bớt chống đối công
khai. Do chỗ cùng là tướng lãnh với nhau, Tướng Haig nghĩ là dễ
nói chuyện với ông Thiệu hơn. Kissinger không được lợi thế như
Tướng Haig. Theo ông Thiệu thì Kissinger là một con người tráo
trở, dễ nghe theo luận điệu của Hà Nội. Chính Tướng Haig còn bảo
là:"Công bình mà nói thì ông Thiệu có lý."
Ngày 2.10.72, Tướng Haig và Đại Sứ Bunker đến dinh Độc Lập.
Tướng Haig xin gặp chỉ một mình Tổng Thống Thiệu trước tiên, vì
lúc ấy có Hoàng Đức Nhã cùng tiếp khách. Với một cung cách đầy
tế nhị ngoại giao và trong tinh thần huynh đệ chi binh, Tướng
Haig chuyển lời của Nixon cho ông Thiệu:"Tổng Thống Nixon yêu
cầu Tổng Thống Thiệu nên thật sự quan tâm đến suy nghĩ thầm kín
của Tổng Thống Nixon liên quan đến tình hình hiện nay của cuộc
chiến. Điều này đặc biệt quan trọng, trong bầu không khí hiện
nay, khi mà những dư luận của giới ngoại giao thông thường và
những bài báo không chính xác và đầy tính suy diễn có thể làm
cho hai nhà lãnh đạo dễ hiểu lầm." Kế đó, Haig trình bày một số
đề nghị mà Kissinger định trao cho Lê Đức Thọ trong phiên mật
đàm ngày 8.10.72. Như thường lệ, ông Thiệu lắng nghe, đặt một
vài câu hỏi và không có vẻ gì bối rối lo ngại.
Trước khi lên đường đi Paris, Tướng Haig, cùng với Đại Sứ Bunker
và John Negroponte (một trợ lý của Kissinger), đến họp với Tổng
Thống Thiệu lần nữa. Lần này có sự tham dự của toàn thể Hội đồng
An ninh Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Ông Thiệu cho rằng Kissinger
bị những đề nghị của cộng sản "phục kích". Hội đồng Hòa hợp Quốc
gia, không phải là chánh phủ nhưng trên thực chất là đã là như
vậy rồi, vì cũng gồm ba thành phần của chánh phủ.
Phó
Tổng Thống Trần Văn Hương kiểm điểm lại những gì Huê Kỳ đã
nhượng bộ cộng sản, như Mỷ chịu để cho Mặt Trận tham dự hòa đàm,
như vậy là công nhận Mặt trận như là một thực thể chánh trị.
Cộng sản đòi Mỹ rút quân về trong khi Bắc Việt chẳng có hành
động tương ứng, như vậy họ coi Mỹ là kẻ xâm lược. Như vậy, người
Việt Nam phải có bổn phận đuổi Mỹ ra khỏi đất nước mình. Vậy thì
Bắc Việt tự đặt mình vào thế người anh cả, có bổn phận thu xếp
vấn đề giữa hai thành phần. Ông Hương nói rằng không thể tin
cộng sản được, họ chẳng có hành động nào để đáp lại chuyện ngưng
ném bom của Mỹ (Linebacker).
Để đáp ứng lại những điểm chỉ trích của những người lãnh đạo
hành pháp Việt Nam trong Hội đồng An ninh Quốc gia, Tướng Haig
chống chế rằng Huê Kỳ phải cân nhắc, thêm hai bớt một, để khỏi
bị dư luận Mỹ chỉ trích, nhưng chủ yếu là chuyện Bắc Việt đòi
hỏi Mỹ bỏ rơi Tổng Thống Thiệu và lật đổ chế độ Việt Nam Cộng
Hòa là không thể thỏa mãn được.
Tổng Thống Thiệu cho rằng Kissinger diễn trò lá mặt lá trái với
Việt Nam Cộng Hòa, vì ngày 13.9, ông có đưa ra một phản đề nghị,
nhưng ngày 26.9, Kissinger lại trình bày một đề nghị chẳng có
bao nhiêu điểm giống với đề nghị của ông Thiệu. Mỹ viện cớ rằng
đề nghị của Sài Gòn sẽ làm cho hòa đàm phải đổ vỡ.
Thủ Tướng Khiêm cho rằng qua đề nghị hiện thời của Mỹ, Nam Việt
Nam coi như là bù nhìn của Huê Kỳ và chẳng có bao nhiêu quyền
hành. Trái lại, Mặt Trận thì trở thành một thế lực, chẳng khác
nào người nghèo trúng số độc đắc.
Cuộc
đối đáp qua lại cho thấy rõ ràng hai quan điểm Việt-Mỹ gần như
đối đầu nhau về hòa đàm, Tướng Haig không biết phải tường trình
như thế nào với Nixon đây. Ông Thiệu tóm lại một điểm là Huê Kỳ
và Bắc Việt không thể quyết định về những vấn đề của Nam Việt
Nam. Ông cho Haig biết rằng, Huê Kỳ muốn làm gì thì làm nhưng
không thể tìm cách giải quyết chuyện nội bộ của Nam Việt Nam. Rõ
ràng là giữa Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa có một mối bất đồng nghiêm
trọng về chuyện thương thuyết để tìm hòa bình.
Tình hình khá căng thẳng đến đổi ngày 6.10.1972, Nixon cảnh giác
Tổng Thống Thiệu là nếu sự hục hặc giữa hai bên bị tiết lộ công
khai thì sẽ có sự gián đoạn đơn phương. Thậm chí Nixon còn đưa
ra hình ảnh một cuộc đảo chánh để dọa ông Thiệu:"Tôi khuyên Tổng
Thống nên tìm mọi cách để chúng ta khỏi đi tới một bầu không khí
có thể đưa đến các biến cố tương tự như những diễn tiến làm cho
chúng ta phải khiếp sợ hồi 1963..."
Cuối cùng ngày 9.10.72, phiên mật đàm quan trọng cũng diễn ra,
trễ hơn dự tính một ngày, vì Tướng Haig kẹt ở Việt Nam để cố
gắng điều đình với ông Thiệu. Phải mất trên 18 tháng điều đình
và hàng chục ngàn người hy sinh mới đạt được điều mà lẽ ra hai
bên phải thừa nhận tư đầu. Đó là việc Huê Kỳ không thể hoặc
không muốn ép buộc tất cả bộ đội Bắc Việt ra khỏi Nam Việt Nam.
Và Kissinger cũng không thể bận tâm đến như vậy về số phận của
"chánh phủ nhu nhược và thiển cận của Nam Việt Nam."
Mở đầu phiên mật đàm, Kissinger đưa ngay đề nghị:"Trên bình diện
chánh trị, chúng tôi công nhận hiện nay có hai quân đội, hai
chánh phủ, và ba lực lượng chánh trị ở Nam Việt Nam. Đề nghị của
Huê Kỳ phản ảnh rõ ràng nhận thức này. Chúng tôi cũng tôn trọng
triệt để một nguyên tắc căn bản khác là thiết lập một bộ phận
gồm có ba thành phần, sẽ có vai trò trung gian và cố vấn cho cả
hai bên và có thể đóng góp vào việc thi hành những hiệp ước đã
ký kết."
Kissinger lưu ý rằng đề nghị này là một nhượng bộ lớn lao về
phía Huê Kỳ, và nói rõ rằng đề nghị này vẫn chưa được Sài Gòn
chấp thuận về vấn đề bầu cử quốc hội và bầu cử tổng thống.
Kissinger nhắc lại là bộ phận ba thành phần kia chỉ là bộ phận
tạm thời, không phải là một chánh phủ vì chưa có trọng trách của
một chánh phủ.
Huê Kỳ chịu để cho một số lực lượng võ trang miền Bắc ở trong
Nam, nhưng Kissinger yêu cầu Hà Nội cung cấp danh sách những địa
điểm đóng quân chính xác của bộ đội miền Bắc ở Nam Việt Nam và
cũng yêu cầu Hà Nội đưa lực lượng chiến đấu trong chiến dịch
"Mùa Hè Đỏ Lửa" về Bắc. Kissinger cũng nói rõ là không có tài
liệu nào được ký kết cho biết là Mỹ có trách nhiệm bồi thường
chiến tranh, nhưng Mỹ chịu tham gia vào kế hoạch tái thiết quy
mô trên toàn bộ Đông Dương, qua một văn kiện đơn phương ký kết
riêng rẻ.
Khi đến phiên mình phát biểu thì Lê Đức Thọ cho biết:"Để nhanh
chóng kết thúc chiến tranh và tái lập hòa bình, để bày tỏ thiện
chí, hôm nay chúng tôi đề nghị một điều mới mẽ về nội dung và về
phương thức thực tế và đơn giản để thương thuyết. Đó là một
Thỏa hiệp về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại
Việt Nam để giải quyết những vấn đề quân sự, bao gồm
chuyện rút quân và thả tù binh, một cuộc ngừng bắn tại Việt Nam
với sự giám sát và kiểm tra quốc tế." Cùng với điều mà Thọ gọi
là "hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại kinh tế ở Bắc
Việt Nam." Theo tinh thần bản đề nghị này thì sau khi thỏa hiệp
đã được ký kết thì sẽ có ngừng bắn ngay.
Nghe Thọ nói như vậy, Kissinger mừng hết lớn vì đây là điều mà
Kissinger mơ ước trong vòng bốn năm thương thảo đã qua. Đang ghi
ghi chép chép, Kissinger bỗng dừng tay lại hỏi Thọ có thể cho
xin một bản đề nghị, như vậy Kissinger khỏi phải ghi chép. Vậy
là Thọ rút bản đề nghị từ trong túi ra trao cho phía Mỹ. Phái
đoàn Huê Kỳ xin nghỉ giải lao, ra ngoài sân để tham khảo và tìm
hiểu về bản đề nghị của Thọ. Kissinger cho rằng bản văn đó chứa
đựng mầm móng cho một lối thoát.
Kết
thúc phiên mật đàm, Kissinger phát biểu:"Thưa ông Cố vấn đặc
biệt, thưa ông Bộ Trưởng, trước tiên tôi xin thưa là tôi hoàn
toàn đồng ý với ý kiến mà ông Cố vấn vừa trình bày. Hai đất nước
chúng ta sẽ thiết lập hòa bình và hòa bình sẽ mở cửa cho sự bang
giao mới giữa hai nước. Mối bang giao này sẽ thay đổi những giao
dịch thù địch từng hiện hữu đã nhiều năm qua. Căn cứ trên ý kiến
và cung cách trình bày của ông Cố vấn, tôi nghĩ là ông Cố vấn đã
mở ra một trang sử thương thuyết của chúng ta và chúng ta có khả
năng đạt được một sự dàn xếp sớm sủa."
Thật ra, đề nghị gọi là mới này của Hà Nội chỉ lập lại – qua một
lối hành văn khác - những điểm chánh của họ từ trước tới lúc bấy
giờ, kết hợp với những nhượng bộ của Huê Kỳ, chẳng hạn như quân
Bắc Việt không rút về Bắc. Đề nghị mới này vẫn còn dự trù có Hội
đồng Hòa hợp Hòa giải, được diễn dịch dưới một dạng dứt khoát sẽ
đưa tới một chánh phủ liên hiệp, một đề tài quan trọng mà
Kissinger sẽ phải thương lượng với Sài Gòn trong những ngày sắp
tới.
Những đề nghị qua lại của Hà Nội và Hoa Thạnh Đốn đều hàm chứa
chút ít nhượng bộ của hai bên. Âu cũng là nguyên lý trong thuật
thương thuyết mà thôi. Bắc Việt không còn đòi giải quyết tình
trạng chánh trị của thể chế Nam Việt Nam như là tiền đề cho việc
ngừng bắn. Đáp ứng lại, Huê Kỳ chấp nhận ngừng bắn tại chỗ (kể
cả bộ đội đã xâm nhập trong chiến dịch "Mùa hè đỏ lửa") để đổi
lấy tù binh Mỹ và việc rút quân chiến đấu và thiết bị quân sự
về.
Được
lời như cởi tấm lòng, Kissinger cảm thấy đời lên hương, sớm muộn
gì ông cũng sẽ nổi tiếng là người đã kết thúc được cuộc chiến
không được lòng dân Mỹ. Ông dựng lên kế hoạch, nào là chấp thuận
hiệp định, rồi trở về Hoa Thạnh Đốn, rồi đi Sài Gòn để điều đình
để năn nỉ ông Thiệu chấp nhận, rồi chánh thức ký kết hiệp định
cho kịp ngày bầu cử tổng thống Huê Kỳ. Thậm chí Kissinger còn dự
tính sẽ đi thăm đường mòn Hồ Chí Minh nữa kia!
Phiên mật đàm ngày 11.10.1972 là buổi họp lâu nhứt, kéo dài 16
tiếng đồng hồ. Kissinger lẫn Lê Đức Thọ đều "hồ hởi phấn khởi"
với thành tích đã đạt được. Hai người chia tay nhau và hẹn ngày
đặt chữ ký trên văn bản cuối cùng.
Ngày 12.10.72, Kissinger và Haig trở về Hoa Thạnh Đốn để báo cáo
thành quả với Nixon. Nhưng Bạch Ốc không được vui trọn vẹn vì có
vẻ hoài nghi. Đối với Kissinger, tái lập hòa bình để rút được
GIs về, lấy lại tù binh và giữ chiếc ghế cho ông Thiệu thì còn
đòi hỏi gì hơn. Thế nhưng dư luận của Bạch Ốc – qua ông chánh
văn phòng Haldeman và phần nào qua Tướng Haig, trợ lý của
Kissinger – cho rằng vì muốn được tiếng cá nhơn nên Kissinger đã
hấp tấp nhượng bộ Bắc Việt. Giờ đây, vấn đề gay go còn lại là
không biết Sài Gòn có nuốt được món ăn khó nhá đó hay không? Đại
nạn của ngài tiến sĩ là phải điều đình với người Việt Nam, máu
đỏ da vàng, phía quốc gia cũng như phía cộng sản!
Xem
tiếp>>
Cố Nhân
|