.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)

bút
việt
hồn
quê

 


 

 

 Phan Quân

Chuyện thời cải tạo

Nỗi Buồn Côi Cút
4. Hoàng Liên Sơn : Núi rừng trùng điệp.

  • Phù Sa - 24.05.2006

R


út kinh nghiệm qua chuyến đi của đợt trước, những người bị gọi chuyển trại lần sau bỏ lại những gì liệu không thể được trại cho mang đi ngay bên trong khu ở của tù cải tạo để bạn bè còn ở lại thụ hưởng. Do đó thời gian kiểm soát hành trang của đợt sau nhanh chóng hơn và bộ đội mất đi dịp may thu góp những hộp sữa Guigoz bằng nhôm, những chiếc ca uống nước và ga-mên bằng kim loại không sét của quân đội Hoa Kỳ mà bộ đội rất thích. Một lần nữa, tù cải tạo lại có dịp đi dạo đồng quê bằng xe tải dưới bầu trời đêm không trăng sao. Cũng những lộ trình chừng như vô tận và lang thang với tốc độ theo kiểu đoàn quân cơ giới diễn hành trong một dịp lễ quân sự ở thành phố. Rời trại vào khoảng gần giữa đêm, đoàn xe đổ tù cải tạo xuống bãi đậu phi cơ của sân bay Tân Sơn Nhứt khi trời hừng sáng. Ðoàn xe không vào phi trường qua cổng quân sự thường lệ trước kia mà qua lối vào sân Golf miệt Phú Nhuận. Tù cải tạo được tập hợp kín đáo bên trong một ụ phi cơ để giải quyết vấn đề vệ sinh cá nhân và được cho ăn sáng với khẩu phần lương khô Trung Quốc, làm bằng một loại bột của nhiều thứ đậu nén chặt lại như cục xà phòng. Bánh lương khô cứng như đá, ném chó, chó gãy giò. Lương khô đó thường để cung cấp cho bộ đội trong chiến đấu, có lẽ đã quá thời hạn sử dụng nên một số đông tù cải tạo bị bộ máy tiêu hóa quấy rầy.

Vào khoảng tám giờ sáng, hai chiếc phi cơ loại Hercules C-130[18] xuất hiện, tắt máy đậu lại trên đường băng. Bộ đội kiểm điểm số lượng tù và lần lượt cho lên máy bay, sau khi loan báo những nguyên tắc cần phải tôn trọng trong chuyến bay mà điểm đến dĩ nhiên là mơ hồ đối với tù cải tạo. Cũng như khi lên xe tải, tù được xếp thành hàng đôi, mỗi hàng tiến vào bụng phi cơ tùy theo phía đứng của mình. Vào bên trong, tù ngồi thành hai hàng đâu lưng nhau, dọc theo đường tâm chiều dài của thân máy bay. Sau đó cứ hai người là một cái còng số tám[19] tai trái người này cùng với tay phải người kế cận. Cả một hàng tù được ràng vào băng ngồi bằng một sợi thừng để ràng vật liệu có sẵn trên phi cơ. Phi hành đoàn, mà tù cải tạo nghĩ là nhân viên phi hành cũ, không thấy xuất hiện ở khoang hành khách, chỉ ngồi cố định ở phòng lái.

Phi cơ cất cánh, trên gương mặt mất ngủ, bơ phờ, hốc hác của tù cải tạo còn đượm thêm nỗi âu lo về an toàn của chuyến bay và phần thắc mắc về nơi đến. Suy luận chung có phần phân tán, người cho rằng sẽ bị đưa đi Phú Quốc, kẻ cho là sẽ bị đưa đến Cao Nguyên. Mỗi khuôn mặt mỗi ưu tư, đầy nét thẩn thờ, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, nhưng dưới cặp mắt theo dõi của bộ đội áp tải không một ý kiến nào được trao đổi. Tuy nhiên, những bộ quân phục tác chiến ngụy trang của tù cải tạo làm cho người ta liên tưởng đến những chuyến bay hành quân trước kia. Cũng những bộ đồng phục đó xưa kia đã một thời hào hùng mà nay thì lại là chỉ dấu của những người phải được canh chừng. Dưới lớp quân phục như vậy chính những con người đó đã từng chiến đấu để mong có được hòa bình. Giờ đây tiếng súng đã im cũng chính họ lại âm thầm ngậm đắng nuốt cay trong tủi nhục, nhận lãnh vết thương của chiến tranh. Chiến đấu thành công thì chánh khách lớn tiếng rêu rao thành quả chánh trị phe tôi thế này, hiệu năng đường lối đảng tôi thế nọ. Chiến trường thất bại thì trăm dâu đổ đầu tằm, thiên hạ lại cho rằng "chiến tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng không thể phó thác cho bọn quân nhân"[20] để rồi xa chạy, cao bay khi cuộc chiến chưa tàn!

Ngồi dọc theo đường tâm chiều dài của phi cơ nên dẫu có day mặt ra cửa sổ tù cải tạo cũng chỉ thấy những khoảng trời xanh và mây trắng chớ không nhìn được xuống mặt đất nên không làm sao biết được phi cơ đang đi về hướng nào. Sau lối một giờ bay mà không cảm thấy máy bay đổi cao độ để xuống lần và luôn nhìn thấy mặt trời ở bên phải của hướng bay thì những suy đoán lúc đầu về nơi đến đều sai lạc. Nơi đến phải xa hơn nữa vì một giờ bay của C-130 cũng phải nửa đường mây Nam-Bắc và như vậy có thể phi cơ sẽ đi ra miền Bắc thôi. Thế là viễn tượng của một thời lưu đày, một kiếp tù biệt xứ lại bắt đầu xuất hiện, chớ không phải như lời ca trong một bài hát nào đó của Trịnh Công Sơn trước 1975: "Khi hòa bình, tôi sẽ đi thăm..." Trong phút chốc mà quê hương miền Nam đã nghìn trùng diệu vợi  trong tâm tư của những người tù cải tạo trên chuyến bay!

Phi cơ chao mình, đổi hướng. Một thành phố rộng lớn xuất hiện dưới đôi cánh sắt, có thể là Hà Nội hoặc giả Hải Phòng, căn cứ trên khoảng thời gian trôi qua. Thế là phi cơ từ từ đổi chiều cao và xuống thấp lần, thấp lần. Bánh máy bay chạm đất, nỗi ưu tư của tù cải tạo về an toàn chuyến bay đã tan biến, bớt đi được một mối lo. Ít ra cũng còn sống sót được một thời gian nữa, dẫu là trong cảnh tù đày, mất tự do. Ðiều mâu thuẫn ở con người là đây, thường chủ trương "tự do hay là chết", thế nhưng đứng trước thực tế thì không thực hiện được lý tưởng đó! Lý do? Chỉ vì cứ tìm mãi lý do mà nhiều khi con người bị dở dang trong hành động. Nhưng, với tù cải tạo trong thời điểm này thì không còn đủ thời gian để suy nghĩ về điều đó nữa.

Sợi thừng đã mở ra và tay còng cũng đã được giải thoát, tù cải tạo theo hàng đôi mà xuống máy bay qua cái mồm há rộng về phía sau đuôi. Sau khi số người trên hai chiếc phi cơ được tập hợp lại dưới bóng mát của những cây cọ[21] thì có một chiếc quân xa chạy tới và một nhân vật tự xưng là tướng gì đó có lời "chào mừng" đoàn tù miền Nam. Theo lời ông thì tù cải tạo đang ở trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để "có được những điều kiện thuận lợi học tập cải tạo tốt hơn". Những lời nói thật bóng bẩy nhưng đượm vẻ chua cay và mỉa mai được thốt ra từ miệng lưỡi của một con người đầy điệu bộ và kiểu cách kiêu căng. Thế nhưng, để nói với một đám đông im lặng thì cũng chẳng khác gì những lời rao giảng giữa sa mạc. Ở thế thượng phong, đứa bé thơ kém giáo dục muốn nói hỗn với người lớn cũng còn được huống hồ gì một ông tướng Hà Nội sau ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm trước một đám tù. Bỡ ngỡ trước cảnh lạ, chưa biết đích xác đâu là đâu, và với một tâm tư còn bị xáo trộn với không biết bao nhiêu là câu hỏi chưa được giải đáp, nhóm tù cải tạo cứ bình thản trước những lời "chào mừng" của ông tướng kia, không một phản ứng nào xuất hiện trên những khuôn mặt thờ ơ. Vì không đối tượng nên mất phần hào hứng, thế là ông tướng lại lên xe ra đi, trả lại cho đoàn tù cải tạo cái yên tĩnh cần thiết cho tâm tư họ trong những giây phút như vậy. Chẳng bao lâu sau đó tù cải tạo được lịnh lên xe tải để đi vào một hành trình vô định nữa.

Dưới nhãn quan có một quá trình quân sự dày cộm của đoàn tù cải tạo thì diện mạo của sân bay miền Bắc này - dĩ nhiên là quân sự - quả thật có một bề ngoài đánh lừa được phần lớn các kỹ thuật về tin tức không ảnh. Chung quanh phi trường không có một hàng rào nào để phân biệt vùng đất quân sự với khu ruộng lúa của dân thường cả. Bên trong phi trường có những đàn trâu, đàn bò thản nhiên gậm cỏ dọc theo phi đạo và ngay trên đường bay cũng đầy dẫy những bãi phân trâu bò, như một sân bay hoang phế tỉnh lẻ miền Nam. Trên ngọn đồi nằm cạnh sân bay là những cái chòi tranh, bên trên mái nhà có cánh ăn-ten ra-đa đang quay ba trăm sáu mươi độ vùng trời. Có lẽ trong những ngày chiến tranh, cánh ăn-ten này không được thoải mái đến như vậy đâu mà phải được ngụy trang với lá của những loại cây quanh đó. Trên mặt phẳng của sân bay không thấy dáng dấp của một doanh trại quân sự nào hết mà chỉ thấy rải rác, lưa thưa đây đó những mái nhà lá trông như xóm làng nông thôn. Khoảng cách vừa phải giữa hai ngọn đồi được phủ kín bằng một mái lá to lớn để che kín mấy chiếc chiến đấu cơ MIG đậu bên dưới. Thảo nào, không ảnh dù tinh vi đến mấy của Mỹ trước kia cũng không sao phát hiện được những sân bay quân sự như vầy. Cho nên phân tích tình báo không thể căn cứ trên những điều kiện chủ quan mà phải giả thiết dựa theo dữ kiện của hoàn cảnh khách quan, và dựa theo lối sống thực tế của đối tượng. Vì một lý do nào đó miền Bắc đã chiến đấu theo cung cách của nhà nghèo, chớ không như miền Nam, bị đưa đẩy vào nếp sống của người chi tiền viện trợ. Hơn nữa, cộng sản miền Bắc còn được lợi thế là không bị xâm nhập phá hoại. Giá như hoạt động biệt kích đã thành công thì họ cũng khó mà bỏ ngỏ được sân bay như vậy.

Những suy nghĩ miên man về chiến thuật và chiến lược, bắt nguồn từ những điều thấy được tận mắt lần đầu tiên như vậy ở miền Bắc, làm cho đoàn tù cải tạo tạm gác được một bên trong giây lát những ưu tư về hành trình và nơi đến ở đầu kia. Lần này, đoàn xe không còn chạy chậm, không che bạt bít bùng và không di chuyển vòng vo tam quốc như khi ở trong Nam nữa mà cứ phăm phăm trên quốc lộ tráng nhựa. Những tưởng sẽ được yên thân cho đến cuối hành trình, nào ngờ đâu tình hình bình yên đó đã vội vàng chấm dứt khi đoàn xe ngừng lại trước một dòng sông có bảng đề "Phà Ô Lâu". Theo một số anh, người miền Bắc thì đây là sông Hồng mà dòng nước cuồn cuộn chảy mang theo chất đỏ phù sa. Ðoàn tù cải tạo phải xuống xe đi bộ xuống phà và bắt đầu nếm những giây phút đầy tủi nhục. Sau một phút ngỡ ngàng rồi sau đó những người đi đường cũng biết được nội dung của đoàn người mà phần nổi là những bộ đồng phục tác chiến "lính ngụy". Thế là những lời mắng nhiếc và nguyền rủa thậm tệ bắt đầu nổi lên, những lời lẽ nếu lập lại cũng thấy ngượng miệng và buồn nôn. Người nghe chưởi cảm thấy xấu hổ và tủi thân chẳng bao nhiêu nhưng lại vô cùng thương hại cho một phần dân tộc đã bị đầu độc và bỏ quên trên bình diện công dân giáo dục. Như vậy vẫn chưa đủ vì sau đó còn có những hòn đá, những nắm đất của "nhân dân" gởi tặng tù cải tạo. May mắn thay, giữa quần chúng xã hội chủ nghĩa và đoàn tù cải tạo có một khoảng cách khá xa nên những vật ném vì căm thù kia không đạt được mục tiêu.

Qua phà xong, đoàn tù cải tạo lại lên xe và đoàn xe tiếp tục lộ trình xuyên qua những cánh đồng của vùng châu thổ sông Hồng, với những hoạt động của nông dân, gợi lại những hình ảnh đã từng in sâu vào tâm trí của tuổi thơ miền Nam qua các trang sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Cũng con trâu đi trước cái cày - một con độc nhứt, chớ không phải hai con như ở đồng ruộng miền Nam - thậm chí thỉnh thoảng còn có cảnh người kéo cày thay trâu. Hình ảnh của miền Bắc "ba mươi năm dân chủ cộng hòa, kháng chiến đã thành công[22]" là như vậy sao? Trên đường cái quan, chiếc xe đạp là phổ biến, thỉnh thoảng lắm mới gặp được một chiếc xe nhà, phóng thật nhanh, vừa bóp kèn inh ỏi, vừa chớp đèn liên hồi. Có lẽ xe đang chở một cán bộ cao cấp đi công tác?

 

ß

 

Khởi hành rời sân bay - có lẽ không xa Hà Nội bao nhiêu vì từ lúc phi cơ nghiêng cánh đổi hướng bay và tù cải tạo nhìn thấy thành phố này đến khi đáp chỉ độ mười lăm phút - vào khoảng mười giờ sáng, đoàn xe về đến nơi thì đã xế chiều, sau khi nuốt hết một đoạn đường khá xấu và nhiều bụi vì là con lộ đất tráng đá xanh. Ðoàn xe đậu dài theo lề đường, giữa một ấp nông thôn miền núi, nhà tranh, nhà ngói lẫn lộn. Ðoàn tù cải tạo hoàn toàn mù tịt chẳng biết được địa danh của vùng vừa mới đặt chân đến. Xóm nhà nằm vào một vùng lòng chảo khá rộng, bao quanh là núi rừng, núi khá cao và rừng thì cũng khá rậm, trên đỉnh núi có những cây cổ thụ to lớn đứng trơ cành trên nền trời xanh. Con đường xe đậu còn chạy ngoằn ngoèo xa tít mất hút vào rừng núi phía trước, nơi mà nhà cửa bắt đầu lưa thưa. Bên trái của con đường là một vùng thung lũng, nơi mà nhà cửa tập trung đông đúc hơn.

Kiểm điểm nhân số xong, một bộ đội hướng dẫn đoàn tù cải tạo, xếp thành hàng đôi, quẹo mặt đi xuống con đường đất bề ngang độ mét rưỡi xuyên qua ruộng lúa. Người nào, người nấy hành trang nặng trĩu, tay xách, tay mang, ban đầu còn hăm hở tiến bước chẳng bao lâu sau thì lê thê lếch thếch, hàng ngũ cứ lần hồi kéo dài ra. Thỉnh thoảng người bộ đội dừng lại, la lối om sòm, đốc thúc đoàn tù đi nhanh lên và cho biết không còn bao xa nữa là đến nơi. Thế mà, dưới trọng lượng của hành trang và với nỗi nhọc mệt sau một ngày dài di chuyển, đoàn tù cải tạo cảm thấy đường xa diệu vợi, nhứt là không biết trước được nơi đến. Nhìn xa xa phía trước chỉ thấy những căn nhà lá lẻ tẻ dưới bụi chuối, chòm cau nằm quanh quẩn bên một ngôi nhà ngói đỏ, tường vôi trắng còn mới, như một trường học nông thôn, chẳng thấy đâu là dáng dấp của một trại tù. Vậy mà bộ đội bảo là sắp đến nơi. Ðoàn tù cải tạo nghĩ rằng đó chỉ là một lối nói khích lệ và trại tù chắc còn xa, phải vào sâu tận bên kia bìa rừng, cách đó áng chừng trên cây số ngàn nữa. Ý nghĩ đó làm cho quãng đường đi không biết nơi đến càng mông lung, gánh hành trang càng thêm nặng và nỗi ngao ngán mệt nhọc càng ê chề. Không cần có lịnh dừng chân, đoàn tù cải tạo cũng tự động bỏ hành trang xuống, ngồi bên vệ đường thở dài. Bộ đội quát tháo ầm ĩ, rung chuyển cả cánh đồng và mặt nước bên mương cũng chau mày. Rồi cũng phải đứng lên bước đi. Cứ tưởng đường còn dài, nào ngờ khi đến ngang dải nhà ngói, dường như mới vừa xây cất xong, bộ đội hướng dẫn tiến vào. Thì ra, ngôi nhà tưởng là trường học kia lại là trại tù.

Từ lúc dặt chân lên miền Bắc, dẫu rằng chưa trọn một ngày thời gian, đoàn tù cải tạo đã bắt gặp khá nhiều chuyện bất ngờ. Không phải là những điều hay lạ hay khéo léo tài tình mà chỉ vì những điều đó hiện hữu không theo tính hợp lý mà họ đã được đào tạo từ tấm bé. Giữa một vùng nông thôn với diện mạo nghèo xơ, nghèo xác, dãy nhà ngói duy nhứt lại là nhà tù, chớ không phải là trường học. Dãy nhà này được xây cất khi chiến tranh chấm dứt vì trên tường vôi có ghi năm hình thành qua nét ghi vội của người thợ hồ vào lớp vôi tô tường. Dọc theo chiều dài của dãy nhà gạch còn có một dãy nhà tranh, cũng tương đương với ngôi nhà gạch mà bên trong có những dấu tích cho thấy rằng trước đây gian nhà đó là nơi đã từng nhốt những người tù miền Nam[23]. Hai dãy nhà này tựa lưng vào một ngọn núi, mặt tiền nhìn ra cánh đồng hẹp mà bìa ruộng bên kia là một hòn núi khác. Thẳng góc với dãy nhà hổn hợp ngói và tranh này là một dãy nhà tranh khác, vừa mới hoàn thành trên một nền đất chưa kịp khô. Song song với dãy nhà này là một gian nhà tranh ngắn hơn, day lưng ra một con suối, được sử dụng như nhà bếp cho tù. Từ nhà ngói nhìn ra, bên phải có những gian nhà lá nằm hiền lành dưới một vài cây cau lêu nghêu, bên cạnh những giàn bầu, những luống rau xanh và mấy cây rơm khô như bất cứ nhà nông dân nào khác. Thế nhưng đó lại là những văn phòng, những nhà ở của cán bộ cộng sản cai tù. Ðường đi nối liền giữa những gian nhà lá này và khu nhà ở của tù là những lối bờ con, vừa đủ cho đôi chân người đi, xuyên qua ruộng lúa, nương khoai, có những đoạn chạy dưới tàn cây, giàn mướp, giàn bầu như một lớp ngụy trang thiên nhiên. Như vậy để đánh lừa không ảnh địch trong thời chiến tranh, đề phòng những toan tính giải thoát tù binh.

Ðiểm đặc biệt là quanh trại tù này chỉ có một hàng rào bằng tre mong manh, không phải bằng tre nguyên cây, hoặc gai góc mà chỉ là loại tre đã được chẻ năm, chẻ bảy. Như một thứ rào giậu ngăn gà, cấm vịt rong chơi. Dư luận tù cải tạo liên tưởng đến vụ đột kích không thành của toán đặc vụ Mỹ xuống trại tù Sơn Tây ngày còn chiến tranh. Thật vậy, không ảnh nào có thể phát hiện ra một trại tù theo kiểu trại mà tù cải tạo vừa mới đặt chân đến? Từ trên nhìn xuống, thậm chí đứng cách trại trăm thước nhìn vào cũng không ai có thể nói rằng đây là trại tù được hết. Dưới cái nhìn và theo suy luận của những bộ óc bình thường và không bị bóp méo theo kiểu cộng sản thì giữa một bối cảnh nông thôn như vậy, những dãy nhà gạch tường trắng, ngói đỏ khang trang kia phải là trường học, bịnh viện hoặc trụ sở cơ quan hành chánh cao nhứt của địa phương. Thế nhưng, thực tế cụ thể lại là một chuyện khác.

Số lượng tù tăng một cách đột ngột, vượt quá quy hoạch của trại - vì sao chẳng ai hiểu nổi, vì trung ương không thông báo chính xác hoặc vì cơ sở thiếu phương tiện thực hiện - nên khi nằm ngủ tù bị dồn ép, chèn nhét như cá mòi vào hộp. Bên trong dãy nhà ngói, được chia ra làm nhiều phòng nhỏ, chỗ nằm là thềm xi-măn cao khỏi mặt đất độ năm tấc, chạy dọc theo chiều dài hai bên tường của căn phòng. Bên phía nhà tranh, không được chia thành buồng, tù nằm trên hai mảnh vạc tre dài lót trên sườn cây chạy theo chiều dài dãy nhà, cao khỏi mặt đất năm tấc. Tù cải tạo đến trại vào mùa hè, bị chèn nhét như vậy nên đêm nằm ngủ mồ hôi cứ nhễ nhại, mồ hôi người này hòa lẫn mồ hôi của hai bên láng giềng làm cho thân người lại nhảo nhoét như sắp tan biến thành nước. Ðêm sao cứ dài lê thê như bất tận, nhưng nỗi nhọc đường xa cũng đem giấc ngủ gượng ép đè xuống đoàn tù cải tạo cho đến lúc kẻng báo thức dựng dậy thì bỗng thấy mình như ở một nơi nào chơi vơi! Như một dàn gà lạ chuồng, đoàn tù cải tạo lẩn thẩn, lơ mơ trên sân trại, không biết phải làm gì sau khi xuống suối rửa mặt và nối đuôi dài hàng trăm thước chờ đến phiên giải tỏa nỗi "ấm ức" của khúc ruột già. Một nỗi ấm ức càng lúc càng thôi thúc vì trên ba trăm con người lại chỉ có ba "khu giải tỏa bom đạn" mà thôi!

Ngày đầu tiên, trại chưa có chương trình sinh hoạt nên tù cải tạo cứ lang thang trên sân trại chờ đợi, một lối chờ đợi bỡ ngỡ, chẳng biết chờ đợi gì. Không có bữa ăn sáng mà cũng chẳng có tập hợp để phân công lao động và không có lịnh lạc gì hết. Một lúc sau, tiếng còi tu huýt nổi lên gọi tù tập hợp để được hướng dẫn đến một sân trống, cách đó vài ba thửa ruộng. Một cái sân vuông khá rộng lót gạch tiểu, mỗi cạnh lối mười thước, cuối sân là một gian nhà lá cũ kỹ, cột và vách bằng cây, có vẻ như là sân đạp lúa và nhà chứa nông sản và nông cụ của một đại điền chủ. Ðoàn tù cải tạo được lịnh ngồi xuống đối diện một cái bàn con của cán bộ chủ trì. Từng người một, tù cải tạo được gọi tên để "kiểm diện", nghĩa là xem mặt và đối chiếu với hồ sơ. Người được gọi phải đứng lên để cho cán bộ nhìn mặt. Trong công tác này, những anh bạn cận thị bị phiền hà hơn ai hết vì khi trình diện trước cán bộ họ được lịnh phải lột kiếng ra. Một vài anh có độ cận cao phải lúng ta lúng túng khi đi đứng vì không trông thấy rõ. Không hiểu sao cán bộ cộng sản rất dị ứng với những cặp kiếng mắt đến như vậy? Dư luận cho rằng, đối với cộng sản, cặp kiếng trắng là biểu hiệu của con người trí thức, học cao, biết nhiều, một giai cấp không được cộng sản ưa thích đến độ cho rằng "không bằng cục phân"! Còn loại kiếng mát thì chỉ có cán bộ cấp lãnh đạo mới được sử dụng. Như vậy, cả hai loại kiếng đó là điều cấm kỵ đối với tù cải tạo. Qua lần "làm việc" này, đoàn tù cải tạo được đội ngũ hóa lần nữa, không liên quan gì đến những hình thức tổ đội trước kia trong Nam. Không ai hiểu được những sự sắp xếp đó dựa theo tiêu chuẩn nào, mỗi tổ mang một con số, và tổ trưởng hay đội trưởng được chỉ định tùy theo sở thích tùy cơ của cán bộ. Sau khi "làm việc" xong, tất cả trở về nơi ở, tiến hành một cuộc biên chế, sắp xếp lại chỗ nằm theo hình thức tổ đội vừa được cho biết rồi chờ bữa ăn trưa.

Cứ sáu người họp thành một mâm ăn, những người dư lẽ trong tổ họp thành một mâm ăn riêng. Mỗi mâm ăn có một người phụ trách luân phiên hàng ngày đến nhà bếp lãnh phần ăn của mâm liên hệ, mỗi phần được đựng trong một cái thau tráng men. Thau cơm đầu tiên ở trại tù miền Bắc xã hội chủ nghĩa đem lại cho tù cải tạo một sự ngạc nhiên không nhỏ. Nhìn từ xa, thau cơm có một màu vàng kỳ lạ, ai cũng nghĩ rằng sẽ được một bữa cơm chiên trộn trứng, như loại cơm Dương Châu. Ý nghĩ hời hợt ban đầu cho rằng miền Bắc đối xử với tù có khác. Thế nhưng khi đến gần thì sự khác biệt kia lại càng đậm nét và phũ phàng hơn. Ðó là thứ cơm độn bắp, loại bắp nguyên hột màu vàng. Bữa cơm độn đầu tiên trong đời của những con người sinh ra và lớn lên ở miền Nam. Lương thực thì như vậy, còn thực phầm thì cũng đựng trong thau kích cỡ tương tự, nhưng chỉ lỏng bỏng dưới đáy thau một chút mắm tôm pha loãng. Nhà ngủ chật hẹp, tù cải tạo đành ngồi rải rác dưới bất cứ bóng mát nào có được trên sân để giải quyết nhanh gọn phần cơm cho đẹp lòng cái bao tử đang cồn cào. Ðể quan sát sinh hoạt buổi đầu của đoàn tù cải tạo từ miền Nam ra, một cán bộ mặc thường phục đi quanh quẩn qua các nhóm "thực khách", hai tay chấp sau lưng, mặt mày thích thú, miệng cười mĩm, nửa phần thỏa chí, nửa phần khinh khi. Ờ đầu này, ông quát tháo:"Các anh dùng bữa phải ăn mặc chỉnh tề vào" vì dưới cơn nóng ngày hè, tù đã mặc quần đùi để lưng trần mà ăn cho thoải mái, nào phải tiệc tùng gì. Ðến đầu kia, ông lại la:"Các anh ăn mà cán bộ đi ngang không có lấy một lời mời". Ngạc nhiên ơi là ngạc nhiên! Cơm tù ai lại dám mở lời mời cán bộ? Thì ra phép lịch sự xã hội chủ nghĩa có điều khác lạ mà những con người thấm nhuần văn hóa tự do kiểu Tây phương không sao hiểu nổi!

Buổi chiều, tù cải tạo được lịnh "sắp xếp nội vụ và trật tự" theo đội ngũ mới vừa được tổ chức lại, mỗi tổ trung bình khoảng hai mươi người, đứng đầu là một tổ trưởng. Vào xế chiều, từ xa có một toán lối mươi người đi theo sau một chiếc xe tải tiến vào khu trại. Thì ra, một số đại tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt ở các mặt trận từ khi Ban Mê Thuột lọt vào tay cộng sản. Một cảnh tao ngộ nửa mừng, nửa tủi, mừng vì gặp lại chiến hữu và do đó cảm thấy số phận mình có phần nào bớt hẩm hiu và bị đe dọa một cách vô cớ tùy hứng, và tủi vì đại sự đã tiêu tan.

 

ß

 

Qua biên chế mới, các tổ tù cải tạo được sắp xếp chỗ ngủ trở lại, nới rộng ra, nằm cả ở chuồng trâu và ở dãy nhà vừa mới cất xong, nền đất còn ướt. Nhờ vậy mà đêm thứ nhì ở trại tù miền Bắc xã hội chủ nghĩa tương đối dễ ngủ hơn và do đó may ra có thể lấy lại sức, chuẩn bị cho những bất ngờ khác của ngày hôm sau. Giữa núi rừng dày đặc bóng đêm, chỉ có khu trại tù được soi sáng bằng ánh đèn điện, một thứ ánh sáng mù mờ của một loại điện thế yếu ớt, nhìn thẳng vào bóng đèn người ta có thể thấy rõ sợi tóc đỏ mà không sợ chói mắt. Nguồn điện xuất phát từ một máy phát điện cơ sở[24] và cung cấp cho một vùng, đường bán kính khoảng từ năm đến sáu cây số, qua một hệ thống tải điện thô sơ gồm đủ thứ loại dây, do tù cải tạo ráp nối lại rồi thả trên cành cây hay những cột điện tùy tiện, bất chấp mọi tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn. Nguồn điện hàng đêm kéo dài đến chín giờ thì tắt phụt sau ba lần chớp báo hiệu và lúc bấy giờ tiếng kẻng ngủ cho tù cải tạo cũng nổi lên, vang dội cả một vùng thung lũng và rừng núi. Tiếng kẻng giữa đêm đen và núi đồi rừng rậm nghe thật rùng rợn, mang một âm hưởng ma quái làm cho tù cải tạo càng thấy thân phận mình hẩm hiu hơn.

Năm giờ sáng hôm sau, khi kẻng thức chấm dứt, tất cả đều phải ra sân tập thể dục buổi sáng. Bắt đầu là những bước chạy tại chỗ, vừa chạy vừa la to "một, hai, ba…, bốn" theo tiết tấu của điệu gà gáy sáng. Kế tiếp là "bốn bài thể dục tay không" của bộ đội, được cán bộ chỉ dẫn cho tù. Ở trại này, tù cải tạo có thêm phần ăn sáng, chủ yếu là cháo nấu đặc. Thế nhưng như vậy không phải là miền Bắc xã hội chủ nghĩa nuôi tù chu đáo hơn vì trên thực tế thì cũng ngần ấy lượng lương thực trong ngày được phân chia ra làm ba bữa ăn. Trại phân phối phần ăn như vậy cốt để cho tù có thêm sức qua một đêm dài, có khả năng lao động với hiệu quả cao, chờ giờ cơm trưa.

Kẻng lao động thôi thúc tù chấm dứt bữa ăn sáng, một phần ăn thực ra có thể vừa đi vừa ăn, toàn trại tập hợp theo từng tổ trên một khoảng sân rộng chờ phân công. Ngày đầu, chưa có cán bộ quản giáo phụ trách từng tổ riêng biệt. Một cán bộ đứng ra, hiên ngang như một ông tướng trước ba quân, giao một số tổ cho một vài vệ binh (bộ đội súng dài) để đưa đến hiện trường lao động nhất định. Công việc chưa có hình thức rõ rệt, có lẽ vì chưa được dự trù ăn khớp với số tù cải tạo vừa được đưa đến nên hầu như tất cả các tổ thuộc "Trại-2, Liên Trại 1" - trại nhốt cấp đại tá Việt Nam Cộng Hòa, thường được gọi là "Trại-2 nhà ngói" - đều được đưa đến một nơi cách trại khoảng ba cây số để chuyển những thân cây "bồ đề"[25], cỡ một năm tuổi do lâm nghiệp tỉa bớt bỏ bên vệ đường. Mỗi cây dài từ năm đến sáu thước, đường kính ở gốc độ một tấc. Bộ đội phân công mỗi người một cây, tuy không nặng lắm vì cây đã khô, nhưng khó di chuyển vì cồng kềnh và ngọn cây cứ nhúng nhảy theo bước đi. Là những người chưa có kinh nghiệm lao động chân tay nên vô cùng khó khăn. Giải pháp cuối cùng là cứ hai người hợp nhau, hai cây trở đầu bó lại thành một, hai người khiêng đi. Chung cuộc, mỗi người một cây nên bộ đội không thể phê phán gì được. Những ai thích làm một mình thì ôm đầu gốc của cây rồi cứ thế mà lôi đi trên đường. Như một đàn kiến tha mồi, đoàn tù cải tạo lần hồi cũng chuyển hết đống cây đến một địa điểm dự trù dựng thêm trại mới, cát bụi tung lên cả một đoạn đường dài hằng bao cây số. Cứ như vậy, mỗi ngày hai buổi đi về, một chuyến khoảng sáu cây số, để chuyển gỗ dựng trại cho tù, sáng đi trưa về và xế đi chiều về. Mỗi ngày trung bình một người lôi được bốn cây dưới nắng hè gay gắt. Những ngày mưa, đường đất ướt đẫm thành bùn lầy lội quả thật là não nề!

Sau một tuần lễ lao động chung chung như vậy trại bắt đầu tìm cách phân loại "chuyên môn" trên căn bản tự nguyện. Người ta tập hợp toàn thể tù cải tạo, xong một cán bộ đứng ra hỏi anh nào biết nghề này, nghề nọ. Dựa theo những phát biểu của cá nhân, người cán bộ "tuyển dụng nhơn tài" kia sắp xếp tù theo ngành nghề. Chủ yếu trại cần những ngành chuyên môn như mộc, hồ, cưa xẻ. Những người không "chuyên môn" được biên chế vào tổ "cơ động", chuyên làm việc nặng như đi rừng lấy củi cung cấp cho bếp bộ đội và bếp tập thể, lấy cây và tre dựng trại, cất nhà tù. Những tù cải tạo ốm yếu hơn được đưa vào tổ "canh tác" trồng rau cải sản xuất thực phẩm cho bếp trại. Những người tốt số nhứt được đưa vào tổ "anh nuôi" chuyên làm bếp để phục vụ bữa ăn cho toàn thể tù cải tạo. Mỗi tổ có một cán bộ quản giáo phụ trách, vốn là những bộ đội mang "quân hàm" cấp sĩ quan. Qua cung cách của họ và qua lối xử sự của bộ đội súng dài đối với họ mà suy đoán thôi, chớ ngoài thực tế những người này không bao giờ mang phù hiệu cấp bực gì hết. Vấn đề phân chia ngành nghề theo lối tự xưng như vậy được tù cải tạo cho là một lối "xổ số kiến thiết", vì tùy theo sở thích cá nhân chớ đúng ra trước kia có ai thực sự hành nghề liên hệ bao giờ. Nhưng, ngày một, ngày hai, nghề dạy nghề rồi thì đâu cũng vào đấy vì trước tiên, tù cải tạo học nghề đâu phải khó khăn gì và sau nữa, người ta đâu có đòi hỏi tù cải tạo thực thi những công tác to lớn hay làm nên những sản phẩm tuyệt hảo, tinh vi.

Tù được chấp nhận vào tổ cưa xẻ thường là những người khỏe mạnh, lực lưỡng vì công việc này đòi hỏi rất nhiều ở khả năng của đôi tay. Dụng cụ sử dụng là một loại cưa có lưỡi dài khoảng hai thước, ráp vào một cái khung bằng cây hình chữ nhựt. Gỗ để xẻ thường là những cây to lớn, đốn ngả xong để tại chỗ rồi dựng trại cưa ngay đó. Thân cây được kê lên cao, cách mặt đất khoảng hơn một thước. Kíp cưa gồm hai người, kẻ đứng trên, người ngồi dưới, kẻ đẩy, người kéo. Là một công việc phải vận dụng nhiều sức lực nên tiêu chuẩn ăn hàng tháng là mười tám ký, cao hơn tiêu chuẩn của những tù khác. Tuy nhiên, lượng gạo căn bản vẫn cố định, phần gia tăng được cung cấp bằng lương thực phụ như khoai, sắn, bắp,... Lý thuyết nghe có vẻ hợp lý và xứng với công lao, thế nhưng tính lại thì thu chẳng bù chi vì số lượng ca-lo nhận vào chẳng ăn thua gì với nhiệt lượng thảy ra trong lao động. Khả năng dinh dưỡng của thứ lương thực độn vào gạo chẳng là bao. Trại cưa thường lưu động, xong chỗ này, dời đi chỗ khác, tùy theo địa điểm của các cây được hạ xuống. Thông thường phải đi sâu vào rừng, cách trại tù khá xa, khoảng đôi ba cây số ngàn vì chỉ trong rừng sâu mới có cây to. Do đó, tổ cưa xẻ thường làm việc "thông tầm"[26], mỗi ngày lãnh lương thực và thực phẩm mang theo nấu ăn trưa tại chỗ. Ván xẻ ra được miếng nào, nhân viên trong tổ phải mang về trại trong chuyến trở về lúc tan tầm. Sản phẩm do tổ này làm ra, chủ yếu cung cấp cho tổ mộc đóng bàn ghế, tủ, giường cho trại. Tổ cưa xẻ trung bình khoảng mười người do một bộ đội hướng dẫn và canh chừng. Vì nhân số không đông nên nhiều tổ như vậy được nhập lại giao cho một quản giáo. Mỗi ngày bộ đội cảnh vệ đưa tổ đến hiện trường lao động xong ôm súng chui vào bóng mát ngồi đếm thời gian. Tù cũng lãnh trách nhiệm nấu ăn trưa cho bộ đội cảnh vệ với phần lương thực và thực phẩm phát riêng. Gạo trắng và ngon, không có chất độn và cơm phải nấu thật khô. Có khi bộ đội không tiêu thụ hết tiêu chuẩn cá nhân, để mặc cho tù hưởng, một sự hưởng thụ rất tủi thân, nhưng khi thiếu đói thì đôi lúc lương tâm cũng tha thứ và rộng lượng. Ngoài những lúc phải hợp lực làm những việc nặng nề như nâng cây lên bệ cưa hoặc xây cất mái lá chống mưa che nắng, số người thật sự cưa xẻ trong một thời điểm nhứt định chỉ có hai nên trong lúc rảnh rỗi những người còn lại khai thác vùng đất xung quanh để trồng trọt "cải thiện" bữa ăn. Thời gian hoạt động của tổ tại một địa điểm đôi khi kéo dài cũng đôi ba tháng. Nhờ vậy mà, theo với thời gian ở vị trí, phần ăn của tổ cưa xẻ ngày một gia tăng với chất độn.

Tổ mộc cũng là một bộ phận được trại quan tâm khá nhiều vì có khả năng làm ra "của cải vật chất", mà những người ưu tiên hưởng thụ sản phẩm của tổ này là cán bộ quản giáo và trại trưởng. Tiếng là cung cấp cho "khung quản trị trại", nhưng thông thường "văn phòng" và chỗ ở của cán bộ cai tù cũng là một, một gian nhà chia làm hai phần. Phía cửa vào đặt một cái bàn nhỏ và một chiếc ghế cây có dựa và cuối phòng phía trong cùng là chiếc giường cá nhân bằng cây, phía đầu nằm có tấm bửng trang trí bằng một ngôi sao. Dưới giường là một cái rương bằng cây chứa đựng tài sản của cán bộ. Tổ mộc Trại-2 được giao cho một anh tù cải tạo, xưa kia tốt nghiệp trường kỹ thuật Sài Gòn trước khi bị động viên vào khóa I trường sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, nên được sắp xếp và điều động rất "khoa học kỹ thuật". Thế nhưng, bắt buộc ý kiến của cán bộ quản giáo phải là ý kiến quyết định dẫu cho nguyên tắc chuyên môn đôi khi bị xúc phạm. Tiêu chuẩn ăn của các thành viên tổ này cũng mười tám nên ngoài ba bữa ăn chính trong ngày còn có một phần lương thực phụ bằng khoai, sắn, bắp, bột,... vào giữa buổi. Vì hoài nghi về sự thất thoát trong phần ăn, nhứt là vào thời buổi thiếu đói khi mà người ta coi miếng ăn bằng ba miếng nuốt, nên phần lương thực "bồi dưỡng" đó tổ mộc đứng ra nấu nướng lấy, mặc dù trại mộc không xa nhà bếp bao nhiêu. Qua thời học tập cải tạo, những tài mọn, những sự khéo tay tiềm tàng của những người sĩ quan Sài Gòn lại xuất hiện, như chừng gặp khó, ló khôn. Chẳng qua là họ đã sẵn có vốn tri thức, nay chỉ cần đem ra thực hành và khi thời gian của họ không còn biết để làm gì nữa, ngoài việc đầu tư vào công việc thường nhựt để quên đi những khắc khoải của cuộc đời tạm bợ vô duyên.

Bộ phận xây dựng cũng có tính cách chuyên môn, có mức ăn cao nhưng không được quan tâm bằng ngành mộc. Ngành hồ của núi rừng Hoàng Liên Sơn sử dụng xi-măng chẳng bao nhiêu mà chủ yếu là vôi, cát và đất sét vì không phải xây cất nhà có từng mà chỉ là những căn nhà nho nhỏ, bé thấp. Vôi là một loại vôi nhão, trộn với một tỷ lệ cát nào đó thành vữa và cứ thế dùng để kết dính những viên gạch lại với nhau. Gạch do một trại tù khác trong khu vực cung cấp. Có thể nói mà không sợ lầm là hệ thống các trại tù trong khu vực hợp thành một vòng sản xuất khép kín và tự túc. Những trại trong liên trại trao đổi nhau của cải và dịch vụ, chỉ đòi hỏi một số mặt hàng ở cấp nhà nước bên ngoài. Công tác đầu tiên của tổ xây dựng Trại-2 là làm ba ổ lò cỡ lớn, đường kính khoảng một thước, cho bếp của trại. Những cán bộ gọi là quản giáo không phải là những người rành về chuyên môn liên hệ mà thật ra chỉ là những người trông coi về kỷ luật và tinh thần học tập của tù cải tạo mà thôi. Cho nên không thể trông chờ họ hướng dẫn được gì. Do đó, ở hầu hết các lãnh vực chuyên môn trong trại, tù cải tạo phải vận dụng lấy những hiểu biết thực tế của mình. Có nêu ra khó khăn, trở ngại thì cũng chỉ nhận được câu trả lời khá phổ biến:"Các anh khắc phục". Lần hồi, tổ xây dựng được đưa đi làm ở những địa điểm bên ngoài trại, theo mức độ tiến triển của tay nghề, như xây nhà chứa "máy nổ" (máy điện), xây nhà vệ sinh. Ðiểm đặc biệt của các trại tù khu vực là xây cất nhà vệ sinh. Nhà ở thì cất bằng tranh, bằng tre, bằng đất nhưng nhà vệ sinh thường là bằng gạch hẳn hòi. Có lẽ vì khối lượng gạch, vôi và xi-măng không bao nhiêu, nhưng nhu cầu về phân lại quan trọng, nhứt là loại phân tươi do con người thảy ra mà tên gọi thông dụng là "phân Bắc". Giới trồng tỉa thường nói "nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống" và phân hóa học gần như xa lạ đối với trại tù cải tạo nên phân tươi được coi trọng lại không mất tiền mua, cần phải được thu thập vén khéo, không thể để mất đi vào đất bùn. Bên cạnh nhà vệ sinh là hố chứa nước tiểu riêng biệt với hệ thống thu thập đã được nghiên cứu và quy hoạch trước.

Tổ canh tác lo trồng rau xanh và hoa màu phụ trên vùng đất phụ cận quanh trại để tăng phần thực phẩm cho trại. Những ngày mới đến, khu canh tác chẳng có gì hết và trong khi chờ đợi kết quả lao động của các tổ canh tác, trại phải đi mua rau và hoa màu phụ ở địa phương. Mua như vậy với một số tiền nhứt định chi ra, số lượng rau nhận về không được bao nhiêu mà số ngày công để chuyển vận lại quá nhiều. Do đó, thành quả lao động của các tổ canh tác cũng là thu nhập quan trọng đối với trại. Mỗi trại tù ví như một vết dầu loan. Lần hồi theo thời gian cư ngụ, tù cải tạo mở rộng vòng đai canh tác vì quanh trại toàn là rừng hoang, khai khẩn được bao nhiêu, trồng trọt bấy nhiêu. Chu vi hoạt động của các tổ canh tác nằm trong một vùng bao quanh trại với đường bán kính khoảng một cây số ngàn và tổ không cần phải được canh chừng. Trong những tổ này, khâu làm đất nặng nhọc hơn hết vì phải cuốc nhiều và diện tích đất không phải nhỏ. Tuy nhiên, khâu phân bón, dẫu được kể như nhẹ, thường được giao cho những người sức khỏe kém hoặc già yếu, nhưng cũng khá vất vả. Hàng ngày phải đi lấy phân ở nhà vệ sinh công cộng, ở khu chăn nuôi, ở chuồng trâu và thậm chí còn phải suốt ngày quảy gánh lang thang đây đó để thu nhặt những bãi phân trâu, bò và dê rơi rớt rải rác trên những con đường trong khu vực. Phân thu lượm về có khi sử dụng tươi, có khi được chế biến, sấy khô, nghiền nát tồn trữ cho những vụ tới. Ngoài ra còn phải chuyển nước tiểu được tập trung ở những hố nhứt định, đào cạnh nhà ở của tù, đến hố nước tiểu của khu canh tác để tưới rau cải và hoa màu. Việc xử lý phân tươi của con người lắm lúc đã gây ra những bịnh ngoài da mà thời gian và thuốc men chữa trị không phải là ít. Sản phẩm của tổ canh tác vốn là công trình đòi hỏi khá nhiều mồ hôi và sức lao động của tù cải tạo nhưng cũng chỉ vừa đủ thỏa mãn nhu cầu của tổ nhà bếp, đó là chưa kể số và chất lượng rau xanh và hoa màu phụ phải cung cấp cho bếp cán bộ.

Tổ nhà bếp[27] làm bia hứng chịu nhiều phê phán nhứt mà lại có nhiều người thích được thu nhận vào thành phần tổ viên, đặc biệt ở thời kỳ thiếu ăn. Suy nghĩ dễ dãi thường cho rằng lao động tại nguồn gốc của sinh hoạt ăn uống dĩ nhiên là bản thân mình phải được no đủ trước tiên. Tổ này hoạt động khá cực nhọc, phải thức giấc từ sáng sớm và hoạt động liên tục đến xế chiều, sau khi đã hoàn tất ba bữa ăn trong ngày cho cả trại trên ba trăm con người, trên tiêu chuẩn một thành viên phục vụ từ hai mươi đến hai mươi lăm người. Trước tiên trong ngày, họ lo cho hai bữa ăn chánh. Thường thường mỗi bữa ăn gồm có cơm và rau, thỉnh thoảng mới có một món mặn, thịt hoặc cá, trong những cơ hội đặc biệt ngày lễ lớn. Sau cùng là bữa ăn sáng cho ngày hôm sau, cháo hay khoai, sắn nấu hoặc luộc và phân phối sẵn để giao cho các mâm ăn vào sáng sớm, ngay sau kẻng thức. Ngoài ra, còn phải nấu chín một số lượng nước uống để cung cấp cho toàn trại, ba lần trong ngày, mỗi người lối một lít rưỡi nước. Củi đun do các tổ cơ động cung cấp hàng ngày. Nhu cầu củi khô không làm sao thỏa mãn nỗi vì nấu nướng quá nhiều cho nên thường phải đun cả cây tươi, khói lên mù mịt. Nhưng, nhờ bếp to nên lần hồi cây tươi mấy cũng phải cháy. Nước rửa ráy lấy ở suối, nước ăn uống thì phải lấy ở giếng. Tổ anh nuôi lao động sáu ngày trong tuần, ngày chủ nhựt hay ngày lễ nghỉ thì một trong những tổ khác luân phiên phụ trách nấu nướng để cho tổ bếp chánh thức nghỉ xã hơi.

Ngoài những tổ chuyên ngành là các tổ "cơ động", phụ trách bất cứ chuyện gì những tổ khác không làm, phần lớn là những việc nặng nhọc như đi rừng lấy củi, lấy cây, lấy tre, đấp đập chận nước, xây cất nhà lá,... Lấy củi là chuyện làm thường xuyên vì nhu cầu chất đốt cho cả trại, bếp cán bộ lẫn bếp tù. Củi cho bếp cán bộ nhứt định phải loại củi tốt và khô, còn chất đốt cho bếp tù thì sao cũng được. Trung bình mỗi ngày, mỗi người phải cung cấp hai bó củi "chất lượng", nghĩa là củi tốt, dài khoảng hai thước và bó lại với đường kính tối thiểu cũng năm tấc. Thời kỳ mới đến trại, chỉ cần đi quanh quẩn gần trại cũng có củi, nhưng càng về sau càng phải đi xa vì cây lớn lên không kịp. Có khi phải qua mấy ngọn đồi và vượt mấy thung lũng mới gom đủ hai bó củi trong ngày. Lên tận đỉnh cao hàng trăm thước, chặt được hai bó củi rồi đem xuống đến chân đồi cũng là cả một vấn đề, chưa kể những lúc mưa rỉ rả, tỉ tê, ngày này sang ngày nọ, đường đất trơn trợt bùn lầy, đôi dép râu không chịu nằm dưới bàn chân mà cứ lật ngược lên trên lưng bàn chân. Lấy cây thì tùy theo nhu cầu của trại, khi thì cây to để làm cột nhà, lúc thì cây cỡ cườm tay nhưng dài từ ba thước trở lên để làm kèo hay đòn tay. Cây to thì phải vào rừng sâu và, cắc cớ thay, những cây này thường đứng ở những vị trí hiểm trở cheo leo. Có khi hạ được rồi, nguyên cả cây chạy theo dốc đồi xuống nằm tận đáy thung lũng, tuột xuống lôi lên thì vất vả mà đốn cây khác thì đâu phải dễ gì tìm. Cây nhỏ thì tối thiểu phải một bó từ năm đến mười cây, nhiều hôm lạc lối giữa rừng tìm đường ra gần muốn khóc.

Còn có những tổ để thực hiện những công việc lẻ tẻ khác như tổ chăn nuôi, chủ yếu giữ trâu, bò, dê, vịt và nuôi heo, nuôi gà. Trại thường đưa cho tổ này những con lợn một vài tháng tuổi nuôi cho đến khi có dịp mổ thịt hoặc những con lợn sẵn sàng giết thịt, sau một vài tuần lễ vỗ béo. Thế nhưng, khi mà con người đã không đủ ăn thì lấy gì để bồi dưỡng cho lợn? Chưa kể trường hợp người nuôi lợn, vì quá đói, ăn bớt của lợn những thứ gì người có thể ăn được. Cho nên càng vỗ béo, lợn càng gầy đi, thân hình có góc có cạnh, một loại lợn thân xác hình kỷ hà. Mang tiếng là tổ chớ thật ra chỉ có một người phụ trách chuồng heo chưa đến chục con. Những người bịnh hoạn hay già yếu được bố trí vào tổ đan lát để thực hiện những vật dụng bằng tre cho trại.

Nói chung, một khi đã vào trại cải tạo thì chỉ có những người ốm đau liệt giường liệt chiếu phải năm bịnh xá mới được miễn lao động vì khẩu hiệu của cộng sản đã viết cùng khắp các nơi trong trại cho rằng "Lao động là vinh quang". Nhưng, đôi khi những người nằm bịnh xá còn được phân công "lao động tự giác" đi trồng trọt dăm ba cây rau, ngọn cải hay chăm sóc mấy chậu kiểng. Bịnh xá[28] cũng có một vài tù cải tạo được chỉ định làm việc dưới quyền một cán bộ y tế, một con người sẵn sàng và vui vẻ chấp nhận danh gọi "bác sĩ" do mấy anh tù trợ y gán cho. Chánh sách và chủ trương chỉ đạo của "bác sĩ" là chủ yếu trị bịnh theo phương pháp y khoa cách mạng, nghĩa là khắc phục, hay nói trắng ra là cắn răng chịu đựng, hoặc nhiều lắm là cho uống một vài viên thuốc dân tộc của trại phát cho. Có một lần, với ý định ngăn ngừa trường hợp đào thoát, trại ra lịnh tập trung tất cả những thuốc trị bịnh mà ủy ban quân quản đã bảo tù mang theo trong thông cáo gọi trình diện học tập. Mỗi lần ốm đau, bịnh hoạn, tù cải tạo phải làm đơn xin lấy một vài viên thuốc của chính mình. Nhận được thuốc đôi khi bịnh đã quá sợ nên bỏ chạy từ lâu! Có anh lên cơn suyễn giữa đêm đông lạnh, không lấy được thuốc khẩn cấp mà chỉ được bộ đội tuần tra bảo khắc phục chờ đến sáng, bèn yêu cầu bộ đội cho một phát súng cho xong. Mải về sau, nhận thấy biện pháp không thích hợp, trại cũng phải bỏ đi.

 

ß

 

Qua hình thức tổ chức và đội ngũ hóa như vậy, tù cải tạo chánh thức bước vào cuộc sống tù tội lưu đày biệt xứ, trong tinh thần "hòa hợp, hòa giải dân tộc" đã được hiệp định Paris long trọng cam kết trước dư luận thế giới. Ðàng sau những gì đẹp đẽ và hoa mỹ dưới ánh sáng của truyền thông và ngoại giao quốc tế là một nếp sống tồi tệ và bệ rạc mà lương tri con người bình thường không làm sao tin là có thể xảy ra được. Thế nhưng, trong bối cảnh núi đất đỏ và rừng lá xanh trùng điệp của Hoàng Liên Sơn, tù cải tạo phải thực tế nếm mùi. Nhìn lại quãng thời gian vừa qua, những ngày ở trại Long Giao được coi như là thời kỳ học lý thuyết và giờ đây tù cải tạo bắt đầu bước vào thực hành, sau khi cộng sản không ngớt lời rêu rao lòng "khoan hồng độ lượng của Ðảng và Nhân Dân, chấp nhận tha tội chết cho ngụy quân, ngụy quyền", để bắt buộc tù cải tạo phải chấp nhận lý lẽ "lao động là vinh quang" mà lao đầu vào một quá trình "học tập làm người công dân lương thiện"!

Chấp nhận hay không là chuyện riêng của mỗi cá nhân, nhưng với thân phận cá chậu, chim lồng, tù cải tạo chẳng còn cách nào khác hơn. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tù cải tạo được cộng sản "dạy cho những bài học lao động" vì họ thường cho rằng "các anh là những người ngồi mát, ăn bát vàng, nắng ngủ, mưa nghỉ, trời mát đi chơi, nhát gió, kỵ mù sương, chỉ biết hưởng thụ công sức lao động của nhân dân". Trong hoàn cảnh như vậy, tù cải tạo bị đẩy vào một nhịp độ lao động cật lực, như chừng để bù lại mấy mươi năm cộng sản phải vất vả đối đầu với chính những con người đó trên tuyến khói lửa. Cán bộ trại quát tháo, dùng những lời nói nặng nề, xóc ốc, dẫu chưa phải là những đường roi hay những lời nguyền rủa, vì dù thế nào đi nữa thì, trên thực tế, "bọn ác ôn rằn rì, ăn thịt người" này cũng biết tự trọng.

Trong tinh thần giữ tròn phận mình, đừng tạo điều kiện để cho đối phương khinh thường và triệt tiêu nhân tính ở mình, tù cải tạo cố gắng tối đa làm tròn phận sự của mình trong ngày tù, một ngày khá dài, tưởng chừng như vô tận. Dù xuất thân từ một gia đình như thế nào trong xã hội miền Nam trước kia thì trong mấy mươi năm qua, trong hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những người tù cải tạo cũng xa lạ với những chuyện làm hôm nay. Do đó, điều dĩ nhiên là họ phải cắn răng chịu đựng, làm được đến đâu hay đó, trong khi cán bộ cai tù lúc nào cũng đòi hỏi tối đa.

Chẳng bao lâu mà những thửa đất hoang dại quanh trại đã trở thành những ruộng sắn, nương khoai, những liếp rau xanh mướt, những luống cà đỏ mọng. Ðồi núi chập chùng trong vùng lần hồi thưa cây, bớt chổm[29], vòng đai càng lúc càng mở rộng ra, thiên nhiên không đủ thời gian để cung cấp trở lại. Ðã vậy mà khí hậu của miền trung du Bắc Việt lại vô cùng khắc nghiệt, với những cơn "rét ngọt" khi gió mùa đông-bắc tràn về, với những trận nắng đổ lửa, rờ đâu cũng nóng và với những trận mưa dài lê thê của cơn bão rớt, như một mẻ lưới nước vây lấy trại tù. Thân phận tù tội lưu đày đã đau thương mà sinh hoạt quần quật suốt ngày, bất chấp luật lệ lao động và sức chịu đựng của con người, lại càng nâng nổi chán chường trong tâm tư của mọi người tù cải tạo lên đến đỉnh cao.

Ngày tù bắt đầu từ sáng tinh mơ, khi thung lũng còn ngập bóng đêm đen và triền núi còn nặng lớp sương trắng như giòng sữa đặc từ cao đổ xuống. Tiếng kẻng của Long Giao hay Tam Hiệp trước kia lan đi rồi tan biến trong không gian nhưng tiếng kẻng của vùng núi đồi và rừng rậm Hoàng Liên Sơn cứ vang đi rồi vội lại, đay nghiến và giày vò, như muốn cho nỗi đau khổ đời tù cứ quấn quýt lấy những con người bất hạnh đó không thôi. Tiếng kẻng đáng ghét đó đánh thức cả những loài chim ngáy ngủ ở rừng lân cận, làm cho chúng phải bực mình kêu lên một cách thảm thương, một thứ chim gì mà không biết hót lại chỉ kêu rên thiểu não. Bị động, chúng di chuyển từ khu này sang khu khác, vừa bay vừa kêu la, những tiếng kêu mà tù cải tạo suy diễn theo nhiều cách khác nhau, tùy theo tâm trạng của mỗi người, như một khúc nhạc nhưng nhiều lời ca. Người thì cho rằng tiếng chim kêu giống như "bắt cô trói cột", kẻ thì bảo rằng chim kia đã được cộng sản cải tạo để đề cao khẩu hiệu "khó khăn, khắc phục", mà cán bộ cộng sản thường dùng với tù mỗi khi được báo cáo về những khó khăn, trở ngại trong công việc được giao phó. Sau tiếng kẻng khó thương đó, trại tù như một đàn ong vỡ tổ trở nên rần rộ, kết thúc một đêm yên tĩnh của núi rừng. Tù cải tạo lăng xăng, nhảy ra khỏi chỗ ngủ, tập hợp ở ngay sân trước nhà, quơ tay, múa chân tập thể dục buổi sáng. Sau phần thể dục, lãnh phần ăn sáng, lấy nước uống và tập trung ở sân lớn của trại, áo quần lang thang thiểu não, trông chẳng giống ai. Người cầm dao, kẻ xách cuốc xẻng, vác cưa, mang đòn,... tùy theo công việc đã được giao phó trong sinh hoạt đêm hôm trước. Một hồi kẻng khác thay lịnh xuất quân, từng tổ, từng tổ kéo ra khỏi trại về hướng của "hiện trường lao động". Ðoàn tù đi rồi, trại đâm ra hoang vắng, chỉ còn lại tổ nhà bếp, tổ mộc, các tổ canh tác và những người khai bịnh.

Cáo ốm trong tù không phải đơn giản vì nếu bị phát hiện có gian dối nhằm trốn tránh lao động là có vấn đề ngay. Sau khi các tổ lao động xuất trại hết rồi, những người khai bịnh đi đến trạm xá và trước tiên phải qua sự hạch hỏi của một anh tù được chỉ định làm "trợ y" cho cán bộ y tế. Dĩ nhiên, anh trợ y đó chẳng có chút hiểu biết gì về y khoa, ngoài các kiến thức thông thường về vệ sinh phòng bịnh hay nhiều lắm là về những thuốc men cần uống khi sổ mũi, nhức đầu. Gặp những anh trợ y thông cảm và biết nghệ thuật sống ở đời, đặc biệt là trong cảnh tù tội, thì đỡ khổ. Nếu chẳng may đối đầu với những con người quen thói đội trên, đạp dưới trước kia và nay vẫn chứng nào tật ấy thì nỗi khổ bị cộng sản đay nghiến còn nhẹ nhàng hơn niềm cay đắng được bạn bè mình chiếu cố. Khó khăn cho lắm hay dễ dãi qua loa rồi thì cũng chỉ một vài viên thuốc dân tộc hay thuốc của các nước xã hội chủ nghĩa anh em rồi trở về "lao động trị liệu", nghĩa là làm công việc lặt vặt xung quanh láng trại để thỉnh thoảng bị mệt nhọc có thể nằm vật nằm vựa chút đỉnh chờ khi lao động về mới được thật sự nghỉ ngơi.

Sau khi xuất trại, những người lao động bên ngoài, tùy theo công việc được giao phó, tỏa đi khắp nơi dưới sự hướng dẫn của cán bộ quản giáo, có một cảnh vệ canh chừng. Trên thực tế, việc canh chừng chỉ là hình thức vì khi một tổ tù cải tạo đã vào rừng, mỗi người một hướng thì bộ đội đâu mà canh chừng cho đủ. Nguy cơ trốn trại trong vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn không đáng ngại cho nên đó không phải là khía cạnh mà trại quan tâm nhiều nhứt. Thế nhưng, như vậy không có nghĩa là không có trường hợp đào thoát xảy ra. Với nhu cầu lớn lao về vật liệu xây cất trại tù, nhiều tổ cơ động phải hợp lại để đi rừng lấy một lúc và thậm chí phải làm thông tầm cho khỏi mất thời gian đi về. Cây và tre được chặt khá nhiều, kết bè thả trôi theo giòng suối về đến một địa điểm gần trại, rồi lần lượt vác về. Thông thường trước khi tỏa vào hiện trường, mỗi người tù được chỉ định chỉ tiêu trong ngày, rồi cứ thế vào rừng chặt đốn. Khi xong, vác trở ra, tập hợp lại đủ số người trong tổ để được đưa về trại. Những ai làm chậm, ra khỏi rừng quá trễ thì cán bộ quản giáo hoặc bộ đội cảnh vệ phải vào rừng tìm, bao giờ đủ số người mới rời khỏi hiện trường. Dĩ nhiên, sẽ được tập hợp lại để nghe những lời phê phán, lao động không tích cực, không tôn trọng giờ giấc tập thể,...

Những tổ cơ động thường lao động đa dạng hơn các tổ chuyên ngành, hoạt động quanh quẩn quanh trại, nhưng lại nặng nhọc hơn. Khi hết nhu cầu về vật liệu xây cất thì các tổ này được đưa đi tăng cường đấp đập cho hợp tác xã lân cận, hoặc đốn và chuyển cây bồ đề cho lâm nghiệp địa phương hay là phá rừng khẩn hoang. Các hợp tác xã nông nghiệp và lâm nghiệp địa phương không có nhiều nhân sự nên thường nhờ vả vào nhân lực của những trại tù trong vùng. Người ta đấp đập, ngăn suối không phải để phục vụ cho ngành thủy điện mà chỉ nhằm chận và giữ nước lại làm thành một hồ lớn, vừa có dự trữ để phân phối cho những nơi cần tưới tiêu trong mùa hạn hán, vừa có chỗ nuôi cá. Công việc lớn lao dường ấy mà chỉ dựa vào công sức của bọn tù ăn không đủ, mặc không ấm và của mấy con trâu ốm tong teo, thích nằm nhơi hơn đi đứng. Nên chi, trên một tỷ lệ nào đó và nhìn dưới nhãn quan quen thuộc có máy ủi đất và xe cán đất, việc làm cũng gần như đội đá vá trời và trông giống như chuyện làm của thằng điên giữa lòng thế kỷ hai mươi. Một toán xắn và chuyển đất bằng những cái ky đan bằng tre, mỗi chuyến đi về của hai người khoảng một phần tư mét khối. Trên nguyên tắc kiến tha lâu đầy ổ, thế rồi bờ đê chắn nước, tháng này sang tháng nọ cũng phải thành hình. Cho nên khi nhìn vào bất cứ công trình tập thể nào của cộng sản người ta thấy vô số con người. Ðất đổ xuống rồi thì bắt trâu đạp lên để nén chặt. Nước sông, công tù, sáu tháng không xong thì một năm cũng phải xong. Bờ đập xong rồi, nhìn lại công trình, những người chịu khó suy nghĩ bỗng thấy hãi hùng, hãi hùng ở chỗ công sức và mồ hôi của con người đã phải đầu tư vào đó, chớ không phải hãnh diện như những con người cộng sản có thói quen coi đó như là một thành tích vẻ vang.

Một công việc lớn khác của địa phương mà tù cải tạo được "hân hạnh góp công" là khai thác cây bồ đề. Loại cây này có khá nhiều công dụng lại thích hợp với vùng đất hoang du nên được lâm nghiệp trồng đại trà ở miệt Hoàng Liên Sơn. Tuy nhiên, nếu phải sử dụng công nhân viên thuê mướn thì sẽ không có lợi nên người ta nghỉ đến loại nhân công rẻ mạt là tù cải tạo. Không biết lâm nghiệp trả tiền công cho trại như thế nào chớ mỗi người tù đi làm bồ đề cho lâm nghiệp mỗi ngày thêm được một phần sắn khoảng nửa ký, ăn vào khoảng giữa ăn sáng và ăn trưa. Công việc chủ yếu là hạ những cây đủ tuổi, gốc to ít lắm hai tấc đường kính và cao tối thiểu năm thước. Ðốn xong, chặt sạch cành lá rồi chuyển xuống chất đống bên vệ đường, xe đến lấy. Nội dung công tác nghe qua rất giản dị nhưng thực tế không phải dễ vì địa bàn hoạt động là vùng núi non hiểm trở, bồ đề lại thường hay đứng trên triền núi. Với rựa bén, hạ được một cây cũng phải nửa giờ nhưng khi cây ngã xuống đâu phải cây nào cũng nằm yên tại chỗ mà có cây tuột theo triền núi đổ xuống thung lũng, nghe như xe lửa tốc hành chạy qua. Vì vậy cho nên trước khi cây ngã, người đốn phải la vang dội núi rừng:"Cây đổ!" cho những ai đứng phía dưới triền núi liệu mà tránh né. Nguy cơ bị cây tuột dốc lùa đi không phải ít, nhưng may thay loại tai nạn đó không xảy ra. Thế nhưng, khi phải tuột dốc xuống thung lũng tìm cây khiêng ra đường, qua mấy ngọn đồi thì quả thật, nổi khó khăn kia có nói cũng không cùng! Một thân bồ đề với kích thước tối thiểu nói trên muốn di chuyển được ít ra cũng phải từ năm đến sáu người. Phải đi qua những con đường mòn bên hông núi, nhiều khi trên lá cây đẫm ướt sương mai hoặc nước mưa đêm trước trơn trợt run chân. Ðể bảo đảm an toàn trong lúc khiêng, người nào cũng phải đi "ba chân", chõi gậy để giữ thăng bằng. Lắm khi có cây phải di chuyển hàng cây số ngàn mới đưa được đến "bệ phóng", điểm cao cuối cùng để từ đó cho cây lăn xuống đường.

Có một lần, những thân bồ đề kẹt lại lưng chừng triền núi suýt nữa gây tai nạn chết người. Một sáng ngày đông đầy kín sương mù, đoàn tù đang chuẩn bị leo lên dốc núi để lên hiện trường làm bồ đề. Một anh vì yếu chân nên lên trước, qua đường lăn của bồ đề cho dễ leo, trong khi một tốp đang lên qua ngõ lối mòn, một tốp còn đứng dưới chân đồi. Người cán bộ dẫn toán đi lên ném một hòn đá vào đống bồ đề theo kiểu nghịch ngợm thế thôi nhưng bỗng dưng phá vỡ thăng bằng sao đó làm cho một cây đổ dốc lăn xuống rất nhanh. Trong khoảnh khắc, những người đứng dưới chân đồi cho rằng anh tù đang đi lên kia thế nào cũng bị cây nặng hàng trăm ký quật chết. Nhưng may mắn thay, anh nhìn thấy một mỏm đá bèn nằm ngay dưới chân nó, cây bồ đề vấp phải hòn đá, nhảy ngang qua người anh tù, trong nỗi nhẹ nhàng của những người chứng kiến ở dưới chân đồi. Tuy nhiên, công việc khai thác bồ đề với giá năm trăm gờ-ram sắn một ngày cũng làm hỏng mắt cho một anh tù. Cùng với một người tù khác, anh khiêng thân bồ đề để sắp xếp thành đống ở vệ đường. Vì thiếu phối hợp sao đó, khi bạn anh liệng đầu cây xuống rồi mà đầu cây của anh còn trên vai nên chấn động của cây đập vào mặt anh, tác động đến thần kinh mắt. Ðền bù lại, cộng sản đã cho đương sự ra trại sớm hơn để suốt đời thương tật, thế thôi!

Ngoài những công tác lẻ tẻ góp công cho các cơ quan địa phương, những tổ cơ động còn có những việc làm với quy mô lớn là phát hoang lấy đất rừng đưa vào canh tác cho trại. Xuất phát từ một con suối, đoàn tù cải tạo, mỗi người một con dao cán dài độ một thước mài thật bén, dàn hàng ngang cách khoảng nhau lối hai thước rồi từng bước một tiến lên phía trước, vừa đi vừa chặt cỏ và cây con hai bên hướng đi. Những cây to nằm trong vùng phát hoang, bộ phận phụ trách sẽ giải quyết sau. Khoảng vài tuần lễ sau, ngoái đầu nhìn lại không thể ngờ rằng cây rừng dày đặt hôm nào, giờ đây đã nằm rạp xuống để chờ đốt đi làm phân. Không cần hạch toán kinh tế chi cho phiền phức vì trên thực tế thì công sức bỏ ra không thế nào nhỏ hơn lợi ích thu vào, nhưng những con người cộng sản cứ lấy đó để tự hào rằng họ đã "bắt thiên nhiên phải cúi đầu".

Ðại loại, quá trình lao động của những tổ tù cải tạo phải gánh chịu nặng nhứt là như vậy. Thế nhưng, ngày làm việc của những tổ được coi như là lao động nhẹ cũng chỉ là hình thức vì nó làm xói mòn sức khỏe và tinh thần không ít. Vì được làm việc quanh quẩn cận kề trại nên nỗi niềm thiếu đói càng dằn vật tâm tư khi phải chờ bữa ăn sắp đến qua tiếng kẻng tan tầm, qua hình ảnh của làn khói nhà bếp và của các thau cơm di chuyển sau khi được phân chia từ chảo lớn lên giàn gác chờ phát ra vào giờ ăn. Tổ canh tác, sáng ra có hăng hái lắm thì cũng được một giờ đầu cuốc đất hay tưới rau. Tổ mộc thì cũng chừng ấy thời gian cưa, bào, đục. May ra, chỉ có tổ "anh nuôi" còn cựa quậy được lâu dài hơn, nhờ một vài chén nước cơm, một vài nắm cơm cháy hoặc vài ba củ khoai, khúc sắn. Dù được động viên hay bị trách móc, tù cải tạo cũng không còn sức để lao động hăng say khi mà cái đói không cho phép con người cố gắng hơn nữa. Chủ yếu, nhịp độ và mức độ lao động cũng chỉ là để chờ bữa ăn trước mắt, xong bữa trưa lại chờ bữa chiều. Một phần ăn vừa vào đến bao tử lại có nhu cầu về một phần ăn khác.

Sau cơm chiều rồi cũng chưa phải là hết một ngày sinh hoạt của tù vì còn phải họp tổ, một loại hình sinh hoạt không ai ưa thích nhưng ai cũng phải tham dự. Vào khoảng nhá nhem tối, từng tổ một ngồi vòng tròn lại ở ngoài sân, nếu là những ngày tạnh ráo mùa hè, và ngay trên sạp nằm, nếu là những ngày mưa hoặc lạnh lẽo mùa đông. Tổ trưởng chủ trì cuộc sinh hoạt này, chủ yếu để rút ưu khuyết điểm của ngày lao động và phê bình cũng như tự phê nếu có. Thỉnh thoảng, nhân dịp lễ này lễ nọ hay kết thúc đợt thi đua, sinh hoạt tổ cũng bình bầu ra cá nhân xuất sắc của tổ để đề cử đưa lên đợt tuyển lựa cá nhân xuất sắc của trại. Với tổ trưởng nào biết điều thì sinh hoạt qua đi nhanh chóng vì sau ngày làm lụng mệt nhọc, ai cũng muốn được thảnh thơi tâm trí hay được ngả lưng nghỉ ngơi. Gặp tổ trưởng tích cực hăng say, thậm chí "cách mạng hơn cách mạng" thì quả thật chẳng còn nỗi ngao ngán nào bằng! Sau sinh hoạt là tự do, nhưng khi bóng đêm đã về, người tù chẳng còn có hoạt động nào tốt hơn là chui vào chỗ nằm của mình, nhứt là vào những chiều lạnh lẽo mùa đông, để thả hồn về với những gì mình mơ ước.

Thế nhưng cũng chưa phải là lúc để bắt đầu đánh một giấc ngủ yên lành, quên đi cái đói và phục hồi năng lực đã mất vì phải qua một lần sinh hoạt nữa với cán bộ quản giáo. Cán bộ cũng có một phiên sinh hoạt nội bộ của khung để phân chia công tác cho mỗi cán bộ quản giáo liên quan đến ngày hôm sau. Buổi họp của khung kết thúc cũng khá khuya, khoảng từ hai mươi đến hai mươi mốt giờ. Sau đó, những đèn bấm cầm tay tủa ra đi về phía láng trại của tù cải tạo và tiếng còi tu huýt vang lên kêu gọi các tổ tù ra sân tập hợp. Ðây là dịp để cho những con người tuổi trẻ cỡ con cháu của tù lên lớp giảng dạy cho những người bậc cha chú. Thôi thì họ nói trên trời, dưới đất, bằng những luận điệu đầy tính chất bài học và tuyên truyền về cái hay, cái đẹp của chủ nghĩa xã hội, cố nhồi nhét vào tâm tư của những người tù đang ngáy ngủ và mỏi mệt sau ngày lao động vừa qua. Dĩ nhiên, họ thiếu kỷ thuật sư phạm vì những lời nói đó tất nhiên phải theo gió thoảng bay đi. Nhưng, đã là thân tù tội thì phải cố chịu đựng, thế thôi! Gặp hôm sung sức và cao hứng cách mạng anh hùng có cán bộ cũng can đảm nói hàng giờ một cách hăng say. Nhưng, dẫu tù cố tình muốn nghe thử thì cũng chẳng hiểu được ý nghĩa của "thông điệp" ra làm sao hết. Thực ra, những loại sinh hoạt đó cũng để chỉ trích tinh thần lao động của tổ trong ngày và để giao công tác cho ngày hôm sau, thế nhưng cán bộ cộng sản thường là những con người hay nói lại nói nhiều và với một luận điệu rập khuôn, thiếu vắng phần lý luận riêng tư nên người nghe dễ bị nhàm chán. Thậm chí không cần nghe cũng có thể biết được họ nói gì cho nên chẳng có một ai có ý kiến gì sau phần lên lớp đó. Chỉ mong sao chóng hết để còn đi ngủ mà sống với môi trường tự do của riêng mình, qua giấc ngủ cô đơn. Ngày mai lại là một ngày tù tội và lưu đày khác nữa, chẳng biết đến bao lâu, cũng như mỗi lần chuyển trại không biết được nơi sẽ đến.

 

ß

 

Trong lối sống đơn diệu, khổ nhọc nhưng không thấy được một tia sáng nào ở cuối đường hầm, một số người nôn nóng và vô cùng quả cảm muốn tự mình tìm một lối thoát. Vả lại, bối cảnh và hình thức quản lý tù của bộ đội cũng có phần gợi ý và mời mọc đối với người tù tội mà mục đích trước mắt dĩ nhiên là tự do. Những sự kiện ngẫu nhiên đồng quy đã tạo ra sự kiện mà thành tựu được đánh giá trên năm mươi phần trăm nên ý định vượt thoát đã xuất hiện, liên quan đến bốn anh thuộc quân binh chủng khác nhau, biệt động quân, pháo binh, không quân và quân nhu, và cũng thuộc những tổ cơ động khác nhau.

Âm thầm và lặng lẽ, trung thực với cá tính của từng người một, nhóm đào thoát đã quy hoạch dự định một cách tỉ mỉ. Liếc sơ qua thành phần nhóm này, người ta có thể thấy ít ra có hai người nắm vững được hành trình di chuyển đường rừng, một người có kiến thức về mưu sinh thoát hiểm và một người có tầm vóc đối ngoại. Chi tiết hơn nữa, trong số bốn người này có một anh rành về tử vi mạng số, nếu như quy hoạch của nhóm muốn một phần nào vựa vào những dữ kiện vận mạng để ước lượng mức độ thành công. Nhứt định là nhóm vượt thoát này không hời hợt chủ quan vì họ đã có nhiều cơ hội để tiếp xúc với dân chúng bên ngoài, trước khi có quyết định quan trọng đến cuộc đời của họ như vậy.

Là những người thuộc tổ cơ động nên lãnh vực lao động của họ rất rộng lớn, cho họ những cơ hội tiếp xúc với quần chúng bên ngoài, dĩ nhiên là đàng sau lưng bộ đội cảnh vệ. Dịp may thuận lợi nhứt là những chuyến đi lấy cát ở lòng sông Hồng tận Yên Báy. Ðể cung cấp vật liệu làm hồ cho tổ xây dựng, mỗi ngày trại thường đưa hai xe cải tiến[30], mỗi xe ba người đi ra tận Yên Báy, cách trại khoảng ba hay bốn cây số để lấy cát. Vì chuyến đi xa như vậy nên phải lao động thông tầm, tù được phát gạo và thực phẩm để nấu ăn trưa tại chỗ. Xuống lòng sông lấy xong hai xe cát đầy, tù được phép tụ tập trong bóng mát để nấu nướng ăn và nghỉ trưa. Bên trên mỏm đá ở phía đường đối diện có một căn nhà nhỏ của dân thường mà tù được bộ đội cảnh vệ cho phép vào để xin nước giếng nấu ăn. Khi tù đã ổn định và bắt đầu nấu nướng thì bộ đội súng dài đi rong chơi ở nhà dân chúng trong xóm, với những nhu cầu cá biệt của họ, để mặc cho tù ở gốc cây bên đường và bên dòng sông. Dưới bóng mát và trong cơn gió đồng nội hây hây, ngồi bên này sông mà nhìn thị trấn Yên Báy bên kia sông, tâm tư người tù trong giây lát bỗng thấy mình gần với tự do, đôi khi quên mất thân phận tù đày của chính mình. Trong giây phút đó, một vài bác nông phu mệt mỏi, một vài chú mục đồng nhởn nhơ với bầy trâu ghé tạm qua bóng mát hỏi han tù dăm ba câu chuyện. Qua những lần đối thoại đó, khôn khéo gợi chuyện thì những người trong nhóm vượt thoát có thể dò la được những gì họ muốn biết.

Ðến một ngày nọ, sau khi qua sinh hoạt đêm hôm trước được cán bộ quản giáo cho biết ngày hôm sau sẽ có một cuộc đi lấy chổm đại quy mô, kết hợp nhiều tổ cơ động, họ quyết định hành động. Trong một chuyến lao động đông người như vậy nếu hành động của họ bị phát hiện thì họ cũng đi được khá xa. Hơn nữa, khi lao động thông tầm tù thường mang theo túi đựng tấm đi mưa và chén đũa ăn trưa, do đó những người định vượt thoát không bị để ý nếu túi của họ cũng căng đầy vì lương thực, thực phẩm và thuốc men đem theo. Ðến giờ dừng tay ăn trưa, cán bộ mới nhận ra sự vắng mặt của bốn anh thuộc hai tổ. Sau khi cơm trưa đã được phát ra, tất cả được lệnh trở về trại, bỏ số chổm đã chặt được tại chỗ thay vì phải kết lại thành bè để thả trôi theo dòng suối đưa về trại như những lần trước. Dư luận tù nghĩ là có điều bất thường, nhưng ngay lúc bấy giờ chưa rõ đích xác, phải chờ đến khi về trại mới biết là có người trốn trại. Một nỗi xôn xao đầy xúc động, vừa mừng vừa lo sợ. Mừng cho những người đã ra đi, nhưng lại lo sợ cho sự bấp bênh của kết quả và cho thân phận của những người còn lại.

Sinh hoạt tổ đêm đó dĩ nhiên là một buổi lên lớp nặng nề và gay gắt, đầy tính chất răn đe đối với những người còn lại. Tổ nào cũng được chỉ thị phải mổ xẻ vấn đề để rút kinh nghiệm và "hạ quyết tâm", trong khi đó phía cán bộ có thái độ khắc khe trở lại. Từ đó trở đi, lao động bên ngoài tù cải tạo chỉ được phép mang theo mỗi tấm đi mưa và tất cả mọi bao bì gì cũng bị cấm. Những anh tổ trưởng liên hệ bị quấy rầy không thôi, nay cán bộ này kêu lên hỏi, mai cán bộ nọ gọi điều tra, tưởng chừng như tổ trưởng phải nắm được tư tưởng của tổ viên. Hết tổ trưởng rồi đến những người nằm bên cạnh và xong với những người đồng sàn là những người cùng mâm ăn.

Cuộc điều tra cứ chạy lanh quanh, nhưng ai biết được bây giờ và giả sử có biết đi nữa thì ai dại gì nói ra? Chung cuộc, cũng phải có một người còn ở trại để thiên hạ dằn vặt, giận cá chém thớt. Ðó là anh tù thuộc tổ nhà bếp bị nghi ngờ là đã cho một vài người trong nhóm đào thoát một số muối hột, thay vì nước muối như đã quy định. Thế nhưng, nghi vấn đâu phải là yếu tố để kết tội. Trong khi đó tâm tư của tập thể tù cải tạo Trại-2 Nhà Ngói trầm hẳn đi mấy ngày liền, một phần dõi theo bốn người bạn đang băng rừng lội suối tìm về cõi tự do mà ai cũng ước mơ, phần khác trăn trở với những soi mói của của cán bộ trại. Vì vậy mà nếp sống như có phần nào khựng lại, sinh hoạt lờ đờ và lao động uể oải như để trông chờ kết quả của biến cố, nếu có, chắc cũng phải lâu lắm.

Thế nhưng, chẳng bao lâu, khoảng ba hay bốn ngày gì đó, trong sinh hoạt đêm, cán bộ quản giáo cho biết tin chẳng lành là nhóm trốn trại đã bị bắt lại. Một lối thông tin kiêu căng và ngạo mạn như để cho tù ngầm hiểu rằng: "Chúng mày làm sao mà thoát khỏi tay chúng tao". Người ta còn kể công với tù: "May mà cán bộ trại đến kịp, không thì nhân dân đã thẳng tay trừng trị, các anh ấy chỉ có chết thôi". Theo lời thuật lại thì sau mấy ngày quanh đi quẩn lại trong vùng núi đồi, không cách xa trại bao nhiêu, nhóm đào thoát đã bị dân quân địa phương, được báo động và có sự trợ giúp của chó đánh hơi người, chận bắt trên đường di chuyển. Một công trình đổ vỡ và những anh tù xấu số phải gánh chịu đau thương. Càng đau thương hơn nữa là một trong bốn người tù quả cảm đó đã tự quyết định lấy mạng sống bản thân khi bị rơi trở vào vòng tay trại tù. Giấc mộng không thành, người cựu chiến sĩ Biệt Ðộng Quân, trẻ tuổi hơn hết trong nhóm, đã tự ru mình vào giấc ngủ thiên thu. Thế là chỉ còn lại "ba chàng hiệp sĩ", một hôm bị giải giao vể trại trong một cung cách được dàn dựng nhằm răn đe những tù cải tạo của trại. Ba người đi theo hàng một, hai tay bị còng ra phía sau lưng, áo quần thiểu não, tóc tai bơ phờ, dung nhan tàn tạ, chân đi đất, đôi dép râu cột dính lại treo tòn teng ở cổ, bộ đội súng dài theo sau, vũ khí cầm tay trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Họ như bị người bộ đội kia đẩy đi trên từng bờ con của cánh đồng minh mông trở về nẻo cũ. Bóng hình bi đát đó của "ba chàng hiệp sĩ" rọi xuống nước ruộng, qua một màn mưa bay lất phất, khiến cho cảnh tượng càng thêm não nề rùng rợn khi bạn bè của họ liên tưởng đến những hình phạt đang chờ đón ở cuối đường trở về.

Ngày "ba chàng hiệp sĩ" trở về trại, một tổ cơ động được phân công "khẩn trương" đào ba hầm kỷ luật ở chân đồi bên hông trại, đối diện với nhà ở của cán bộ. Ba cái hầm ngang tám tấc, dài hai thước và chiều cao ở phía trong cùng cỡ hai thước. Nhìn theo tiết diện, hầm có dạng gần như một phần tư hình tròn và trên chiều phẳng của mặt đất thì đủ một người nằm. Hầm đào xong, bên trên phủ bằng những thân cây tròn đường kính gần hai tấc, toàn bộ được lấp đất kín, nện chặt. Cửa hầm rất kiên cố, làm bằng những thân cây xẻ đôi, xếp khít nhau, xiềng xích bên ngoài. Chẳng khác gì một hầm nhốt thú dữ. Vào bên trong, người bị nhốt không làm sao với tới nóc hầm, vả lại còn bị đặt ở thế nằm và bị xiềng chân bằng một hệ thống cùm khóa bên ngoài. Một vòng rào bằng tre bao quanh khu hầm kỷ luật, một khu được một chòi canh quan sát thường xuyên.

Ðương nhiên là không một người tù nào được phép lai vãng khu "biệt thự" đó. Ngày hai lần, một tổ viên nhà bếp đưa cơm đến khu "biệt thự", dưới sự kiểm soát của một bộ đội. Mỗi chàng "hiệp sĩ" một nắm cơm với ít muối, khối lượng khoảng một chén cơm vì tiêu chuẩn chỉ có mười hai ký, và một phần nước uống. Nắm cơm đó thường bị bộ đội xâm xoi cẩn thận trước khi được đưa tới cửa hầm cho mỗi người. Chính tay bộ đội mở khóa cửa hang và mỗi ngày nhờ hai lần lãnh cơm, "ba chàng hiệp sĩ" mới có dịp hít thở không khí và trông thấy ánh sáng bên ngoài, mới có cơ hội cử động tay chân và thảy bỏ những gì không cần thiết trong cơ thể. "Chuồng cọp Côn Sơn" có lẽ còn thoải mái hơn những "biệt thự Hoàng Liên Sơn" này. Những ngày rét buốt giá lạnh mùa đông hay những ngày nóng bức tháng hè, nằm trong hang đó, không cần nói ai ai cũng thừa biết những thách thức mà cơ thể con người phải chịu đựng. Vậy mà các anh ấy đã phải sống như thế trên sáu tháng dài, qua hai trại. Ngày rời "biệt thự" để trở lại sống chung với tập thể, các anh ấy trông thật thảm thương, nước da trắng xám lạ thường, gần như nước da của một người chết! Nhưng, nhờ có nghị lực và niềm tin nên thể xác dẫu bị xói mòn, tinh thần vẫn bền vững.

Chuyện vượt ngục trong trại tù là một vấn đề đương nhiên nhưng khả năng thực hiện tùy thuộc ở nhiều điều kiện cùng hoàn cảnh, và cũng là vấn đề mà những người giữ tù quan tâm không ít. Từ khi đến những trại miền Bắc, tù cải tạo được lịnh phải tập trung quần áo có tính dân sự vào một nơi, chỉ được phép lấy ra khi có lịnh của cán bộ. Những ngày ở "Trại-2 Nhà Ngói", quần áo dân sự được dồn vào một kho khóa chặt lại. Thỉnh thoảng vì sợ ẩm ướt, hư hỏng và theo yêu cầu của các thành viên, tổ trưởng xin phép cán bộ cho lấy ra để phơi nắng và xem xét qua, nhân dịp những ngày không lao động. Ngoài ra, trại còn có biện pháp đề phòng khác như tạm giữ những tài sản quý giá của tù như nhẫn vàng, đồng hồ đeo tay,... Những thứ này đều phải được "đăng ký", giao nạp cho trại, đổi lấy một biên nhận. Người ta sợ rằng tù có thể bán những thứ đó để lấy tiền trong khi đào thoát hoặc để mua chuộc cán bộ "thực hiện ý đồ đen tối". Lúc ban đầu, khi chưa có lịnh đăng ký nhẫn vàng và đồng hồ, trong một chuyến đi rừng lấy chổm, một anh tù đánh rơi đồng hồ lúc nào không hay, đến khi tập hợp tổ để về trại mới phát hiện ra. Thế là cán bộ cho lịnh cả tổ dàn hàng ngang khu lao động, đi ngược trở vào rừng lục lạo từng gốc cây, hốc đá để tìm cho kỳ được mới có thể trở về trại. Người ta sợ rằng tù báo mất để che đậy chuyện buôn bán vì ở thời điểm bấy giờ trên quãng đường di chuyển của tù còn có những người dân làm đường. Hôm đó tù cải tạo lo ngại vô cùng vì giữa rừng cây dày đặc như vậy mà tìm cho ra một cái đồng hồ không phải là chuyện dễ. Thế nhưng, may mắn thay, khi lục lạo ở những bụi tre mà đương sự đã rảo qua để chặt thì thấy được chiếc đồng hồ đang nằm bên dưới lớp lá khô.

 

ß

 

Sau khoảng ba tháng sinh hoạt một cách nửa dơi, nửa chuột, học chẳng ra học mà làm thì cũng chẳng phải làm, nhưng chủ yếu là dằn mặt và làm cho thân xác rã rời, thì một buổi sáng nọ thay vì được phân công lao động như thường ngày tù cải tạo được lịnh chuyển trại. Lịnh đã ban, mỗi người tù hối hả lo lấy tư trang của mình sao cho gọn, nhẹ để có thể mang đi dễ dàng trên một hành trình đi bộ tối thiểu cũng phải vài ba cây số ngàn. Chuyện thay đổi chỗ nằm, thay đổi buồng ở, thay tổ đổi đội và chuyển trại là một sinh hoạt khá phổ biến trong nếp sống của tù cải tạo vì trại không muốn để tù cố định lâu dài ở một nơi sợ rằng tù có thể nghiên cứu cơ sở để trốn trại, hoặc câu kết với nhau trong những hoạt động chống phá trại. Trong tinh thần bảo mật, trại không bao giờ loan báo trước địa điểm sẽ đến. Giữ hình thức tổ đội sẵn có, cả trại cùng di chuyển theo sự hướng dẫn của cán bộ quản giáo. Không như những lần chuyển trại trước kia ở trong Nam, kỳ này chuyển trại bằng đường bộ và đặc biệt tổ nhà bếp được tăng cường một xe trâu để chuyên chở dụng cụ nấu nướng nặng nề như chảo  đụng, thau đựng thức ăn,...

Ði ngược trở ra trên con đường tiến vào ngày trước khoảng ba cây số, đoàn tù cải tạo rẽ vào một con đường đất quanh co, ngang một thước, một bên là núi, một bên là suối. Vào sâu trong rừng khoảng một cây số là trại mới gồm khoảng mươi dãy nhà nóc tranh, vách phên, cái ở trên đồi cao, cái nằm dưới thung lũng cạnh suối. Khu trại này, nằm trên một vùng đất rộng đường kính lối một cây số giữa núi rừng dày đặc bao quanh, có lẽ đã được thành lập từ lâu và trước đó đã có người ở vì tranh và lá đã cũ, quanh trại có đất đã canh tác. Trên ngọn đồi khống chế cổng trại là những dãy nhà của cán bộ khung. Những dãy nhà kho chứa lương thực, thực phẩm và bếp cán bộ nằm dưới chân đồi. Vòng rào giới hạn khu nhà ở của tù được làm bằng tre thô sơ, thậm chí một vài khoảng đã ngã đổ nhưng cũng không được sửa chữa hay thay thế. Cổng vào, không có cửa, được hình thành theo hình dáng đặc biệt của một cổng chào, bên trên có một khung đan bằng tre dành sẵn cho câu nói, đầy mỉa mai ở một trại tù nhưng bắt buộc phải có, của Hồ Chí Minh:"Không có gì quý hơn độc lập tự do" cùng khẩu hiệu và biểu ngữ vào những ngày lễ.

Bên trong khu trại, dãy nhà nằm cạnh con suối nhứt định phải là nhà bếp vì nhu cầu nước trong việc nấu nướng. Nước để uống và nấu ăn lấy ở giếng, một loại giếng miệng rất rộng, tối thiểu cũng phải hai mét đường kính, thậm chí có nơi cả chục thước. Mục đích là để được dễ dàng trong khi nhiều người đào cùng một lúc và trên một vùng núi đá. Trên khu đất vùng thung lũng dọc theo con suối, người ta dựng những dãy nhà dùng cho sinh hoạt tập thể của tù như hội trường, trạm xá, nhà "văn hóa"[31] và một sân rộng để tập hợp tù trước giờ xuất trại đi lao động. Hội trường là một ngôi nhà rộng rãi, nền bằng đất nện cứng và trần trụi vì người tù nào, mỗi khi được triệu tập, cũng có một vật gì đó để lót ngồi. Phòng khám bịnh mang tên trạm xá nghe khá hào hùng nhưng thật ra chỉ có hai phòng trong một ngôi nhà nhỏ, một phòng cho cán bộ y tế, một phòng nữa để người tù trợ y khám nghiệm bịnh nhân bằng cách hạch hỏi trước khi đưa sổ ghi kết quả "tra khảo" bịnh lý để cán bộ phụ trách quyết định cấp thuốc. Nhiều anh trợ y, "tràn đầy thiện chí", cách mạng hơn cả cách mạng, khiến cho người tù bịnh hoạn càng thấy tủi thân. Qua một vài trang sách y dược mang theo khi đi trình diện, một vài anh trợ y độc đáo đã tự ý cho mình trở thành những nhà bào chế thần dược, bắt tù cải tạo ăn những con rít núi, những con trùng đất, những chén cám luộc,... Nhà "văn hóa" chỉ là một trạm thông tin chứa những thứ báo, tạp chí và văn hóa phẩm không ai muốn đọc, nếu không bị bắt buộc. Những dãy nhà ở của tù nằm trên những ngọn đồi bao quanh khu lòng chảo và đối diện với ngọn đồi khu doanh trại của cán bộ khung. Vì vậy mà sinh hoạt của tù đều bị phía đồi bên kia thường xuyên theo dõi.

Sang trại mới, mỗi tổ được xếp vào những dãy nhà đã được quy định, tổ nào đông người chiếm trọn dãy, ít người thì nhiều tổ ở chung một dãy. Mỗi dãy nhà, dài khoảng hai mươi thước, ngang độ năm thước. Ðiểm đặc biệt của loại nhà tranh vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn là được xây cất hoàn toàn bằng tre, cột lạt giang, không cần đến một cây đinh hay cọng kẽm nào hết. Tên gọi nhà tranh, nhưng không phải loại tranh lá nhỏ và mịn như thường thấy. Tranh ở đây chỉ vì tên gọi đã quen chớ thật ra là những mảnh đan bằng tre, dài từ bảy đến tám tấc và ngang khoảng năm, sáu tấc. Tre (chổm) cỡ cườm tay, lấy ở rừng về, chặt sẵn từng khúc dài năm, sáu tấc, đập nát ra làm bốn hay năm mảnh gì đó, xong đan vào với ba thanh tre dài bảy, tám tấc xếp cách khoảng đều nhau thành một miếng tranh. Khi lợp lên, tấm này chồng lên tấm kia như kiểu lợp ngói, tấm trên phủ tấm dưới khoảng hai phần ba, ruột tre ngửa lên trên như trăm ngàn máng xối. Một mái nhà tranh như vậy, bên trong nhìn thấy được những mảnh trời nho nhỏ bên ngoài, nhưng nước mua khó lọt vào. Nếu bị dột, chỉ cần xê dịch miếng tre qua lại chút ít là có thể giải quyết được vấn đề.

Tù được xếp nằm thành hai hàng theo chiều dài của dãy nhà, đầu day ra vách, chân đâu vào nhau. Giữa hai dãy nằm là đường đi thông suốt từ đầu hồi này đến đầu hồi kia của dãy nhà. Mỗi dãy nhà có từ bốn đến sáu cửa, hai ở hai đầu hồi và hai hoặc bốn ở chiều dài. Giường ngủ là những tấm phên bằng tre nứa đan, hình chữ nhựt, theo kích thước của chỗ nằm ráp nối lại thành hai dãy giường dọc theo chiều dài của căn nhà. Những chiếc "giường âm nhạc" vì trong đêm thanh vắng, mỗi lần một anh tù trở mình là một điệu nhạc kẽo kẹt. Ở phía chân của mỗi chỗ nằm là một mảnh giấy ghi tên họ người nằm nơi đó, đã được cán bộ quản giáo chỉ định, chỉ được thay đổi nếu được phép hay có lịnh. Sinh hoạt ăn uống thì tùy tiện, bạ đâu ngồi đó vì phần ăn thông thường chỉ có cơm, rau và nước muối. Chỉ một phần cơm thôi mà thậm chí có người không có cái tô, cái chén để đựng vì qua những lần chuyển trại, dụng cụ ăn uống cứ lần hồi bị loại đi. Ai biết đan lát thì đan cái rổ nhỏ, lót lá chuối rừng lên trên để nhận phần cơm. Có người lấy lon sắt đồ hộp, săn nhặt được ở đống rác của bếp bộ đội, đựng phần cơm trại phát cho. Về mặt này, những người hành khất trên đường phố Sài Gòn trước kia có lẽ còn hơn tù cải tạo nhiều!

 

ß

 

Ở "Trại-2 Nhà Lá" này, cuộc sống của tù cải tạo đã rõ nét một cách dứt khoát, so với sinh hoạt ở những trại trước kia. Cộng sản đã tinh ranh "từng bước một vững chắc" đưa tù cải tạo vào tròng và giờ đây ở nơi rừng núi trùng điệp này họ yên chí không còn sợ tù cải tạo trốn trại nữa, nhứt là sau lần đào thoát không thành, họ chẳng cần phải mất công mơn trớn, đẩy đưa như những ngày còn trong Nam. Thế nhưng, ngoài mặt vẫn còn những luận điệu tránh né một cách hình thức. Qua cách trò chuyện cùng nhau giữa tù và tù, cũng như qua thơ từ về gia đình, nếu ai lỡ tự cho mình là tù đều bị cán bộ quản giáo sửa sai đúng mức. Chỉ có những tên gọi như "trại viên" hay "cải tạo viên" mới được chấp nhận, những tên gọi nặng tính cách bình phong.

Cũng như ở các trại trong Nam, mỗi tháng tù cải tạo được viết thơ về gia đình một lần, coi như là "một đặc ân của đảng và nhà nước đối với các anh". Giấy viết thơ, bao thơ và tem đều do trại phát, một thứ giấy mà người dân miền Nam phải sử dụng trong thời kỳ khó khăn của những năm bốn mươi. Giờ đây, vào buổi hạ huyền của thế kỷ hai mươi, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam anh hùng lại bắt đầu sử dụng. Một quá trình tiến bộ khởi sự bằng một bước chênh lệch đáng kể trong thời gian.

Viết thơ cho gia đình thông thường là một việc làm thích thú và thoải mái để gởi về người thương, kẻ mến tâm tư tình cảm của mình. Thế nhưng, trong hoàn cảnh này, viết thơ về nhà là cả một bài luận văn đầy trăn trở suy tư của tù cải tạo vì viết cho người nhận không quan trọng bằng viết cho người cán bộ kiểm duyệt thơ. Một tờ thơ trên một trang giấy nhỏ thế nhưng đòi hỏi không biết bao nhiêu là toan tính, là kỷ thuật viết và lách. Qua thơ từ viết về cho gia đình, cán bộ kiểm duyệt thơ sẽ đọc tư tưởng của tù để có một ý niệm về mức độ cải tạo tư tưởng. Thành thử ra thơ từ trại về quê nhà bị coi như là một khía cạnh của công tác "thu hoạch" về quá trình học tập cải tạo. Cho nên "đặc ân" kia cũng bằng một thanh kiếm của Damoclès treo trên đầu tù cải tạo. Do đó thơ về nhà tựu trung cũng chỉ là những bài viết ca ngợi cộng sản, đề cao "lượng khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân", và ngợi khen cung cách cư xử của cán bộ trại, dĩ nhiên là không được lộ liễu một cách trơ trẽn để cho những đối tượng liên hệ khỏi đỏ mặt. Chủ yếu là cho gia đình biết mình đang mạnh khỏe ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam, vì địa chỉ của trại mang hình thức "hòm thơ" ngụy trang bằng những chữ và số. Tên gọi "hòm thơ", thay vì hộp thơ, ban đầu đã đem lại cho tù cải tạo một ấn tượng rùng rợn khi liên tưởng đến cái chết dễ xảy ra trong đời tù tội.

Mỗi đợt viết thơ, bầu không khí của trại như chừng lắng đọng lại với những gương mặt nhiều suy nghĩ, với những dáng người đăm chiêu, như trong những kỳ thi ở trường học xưa kia. Cân nhắc và đắn đo dường ấy, thế nhưng cũng không khỏi có một vài trường hợp bị phê bình vì thái độ hoài nghi khắc khe của cán bộ quản giáo. Mượn lối tả cảnh để nói lên tâm tình, một lá thơ bàn đến khung cảnh "núi rừng, chim kêu, vượn hú" đã bị chận lại và người viết bị phê bình vì đã tiết lộ địa điểm của trại. Một cái thơ khác muốn xin gia đình một đôi dép để đi lao động nhưng vì quá cẩn thận, không tin tưởng ở những số chân ghi trên dép bán, người viết đã in hẳn bàn chân của mình lên trang giấy. Do đó, tác giả bức thơ bị kết tội "phạm thượng" vì "xem thường những từ có tính cách mạng trong thơ và chà đạp lên tình cảm dành cho gia đình". Những ai cắc cớ xỏ xiên đều bị phê bình đích đáng với những lời lẽ thậm tệ, nhưng lại là một niềm thích thú của những con người tự cho rằng thân phận mình đã kể như ở cuối đường và châm chọc được đối tượng cũng bằng một lối trả thù hả hê. Không than mình đói ăn, nhưng chỉ nói rằng "sức ăn nay đã giảm được nhiều để tăng năng suất lao động, làm lợi cho Ðảng và Nhà Nước" hoặc không nói mình ăn độn mà khen loại cơm pha khoai sắn, bảo gia đình ăn thử, như một thức ăn hiếm có xưa nay chưa biết, dĩ nhiên là bị phê bình. Phê bình như vậy không phải chỉ được tiến hành ở tổ mà có khi được đưa ra cấp toàn trại để cho mọi người rút kinh nghiệm.

Không phải chỉ lo âu về thơ đi mà tù cải tạo còn phải bận lòng vì thơ đến. Ðương nhiên gia đình bên ngoài cũng biết được tình trạng kiểm duyệt thơ trong trại tù nhưng đôi khi một vài lời tưởng chừng như vô tội vạ lại bị cán bộ cho là "ký tín ám hiệu" nên người nhận thơ bị gọi tới, kêu lui hạch hỏi khá lôi thôi. Từ đó, đương sự được lịnh phải "giáo dục gia đình" trong kỳ thơ tới và dĩ nhiên lá thơ đó không bao giờ tới tay người nhận. Trình độ văn hóa của người cán bộ cộng sản không bao nhiêu nên nhiều lúc kiểm duyệt thơ cũng có những thắc mắc lôi thôi, tập thể tù không sao hiểu được. Chẳng hạn như có người nhận thơ tên May và trong ngôn ngữ yêu thương giữa vợ chồng thường gọi nhau bằng danh tánh. Thế nhưng, người cán bộ duyệt xét thơ lại đọc khác đi nên ông chồng bị cán bộ gọi lên hỏi:"Tại sao vợ lại gọi chồng bằng mầy, có ý đồ gì đây?" Lại phải một lần giải thích, nhưng cán bộ có chấp nhận hay không đó là quyền của họ. Thơ đi tin lại trong tù là điều cần thiết và rất được tù trân trọng vì, tuy rằng thơ bị bắt buộc phải mang những nội dung nặng tính bài học tâm lý chiến, tối thiểu cũng là sợi dây liên lạc với gia đình. Dẫu rằng thơ nhà chẳng nói được gì nhiều, nhưng chỉ riêng những nét chữ run run của song thân tuổi đời xế bóng tà huy, những lời thơ trìu mến của người vợ yêu thương hay nét vẻ thơ ngây của đứa con tuổi mẫu giáo đều là cả một khối tình cảm làm ấm lòng những người tù cô độc bơ vơ. Một trang giấy bé nhỏ nhưng lại gói ghém cả một thế giới tâm tình của gia đình ở quê nhà. Có những bức thơ cứ bám mãi người tù, lúc nằm ngủ cũng như trong những giờ lao động giữa núi rừng, như lá bùa hộ mạng, để lúc nào cảm thấy nhớ thương thì lại dỡ ra xem. Mỗi tháng một kỳ thơ, người được gọi tên nhận thơ mặt mày hớn hở, reo vui như trúng số độc đắc và đương nhiên phải có trường hợp của những người buồn vì không được thơ, đành tự an ủi qua niềm vui của bạn bè. Bắt được yếu tố tâm lý đó, trại coi chuyện gởi và nhận thơ của tù cải tạo là một trong những yếu tố then chốt để quản lý. Cứ có vi phạm kỷ luật nhẹ, cứ mỗi lần cán bộ quản giáo có điều gì không vừa ý thế là người tù liên hệ bị cắt một kỳ thơ và trong thời điểm ở Hoàng Liên Sơn nếu không được phát giấy, bao thơ và tem thì không có cách nào để đưa tin tức về gia đình hết.

Tuy nhiên không phải vì vậy mà những gì gia đình và tù cần thông báo cho nhau không lọt qua được cái sàn gạn lọc của cán bộ kiểm thơ. Lần hồi cũng có những cách ngụy trang thông tin khá hữu hiệu. Nhờ cung cách mã hóa thơ từ mà ở trong trại, tù cải tạo cũng biết được phần nào những diễn biến trong gia đình hay những hoạt động ở ngoại quốc liên quan đến số phận của họ. Không phải chỉ riêng phương thức suy diễn thơ cá nhân mà còn có sự đối chiếu với thơ bạn bè. Thế nhưng cũng không phải là dễ dàng vì có lúc mật mã do gia đình sử dụng phải suy nghĩ nhiều mới hiểu được vi hai bên không có dịp để thỏa thuận nhau về chiếc "chìa khoá giải mã". Công việc mã hóa và giải mã thơ từ đã trở thành một sinh hoạt vui thích vì nhờ vậy mà thời gian được cảm nhận như là đi nhanh hơn. Trong quá trình mã hóa như vậy, "Bột Bích Chi"[32] được hiểu như là đài BBC của Anh quốc, "Voi" được hiểu như là đài VOA của Hoa Kỳ, một ai đó đi "vùng kinh tế mới để xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giàu đẹp với một bà con ở Tây Ninh hoặc ở Mỹ Tho" được hiểu là đã vượt biển, vượt biên thành công đến Pháp hay Hoa Kỳ... Thậm chí có những câu được gia đình sử dụng thẳng thắng, ngay tình, thế nhưng tù cải tạo lại cứ nghĩ là mật mã nên băn khoăn mãi không thôi, đem tham khảo với bạn bè thì bạn bè cũng chào thua!

 

ß

 

 Từ lúc bị chuyển về Hoàng Liên Sơn, việc học tập đích thực của tù cải tạo chủ yếu là lao động còn khía cạnh học tập lý thuyết coi như không đáng kể. Thảng hoặc, nhân một diễn biến quan trọng, một dịp lễ kỷ niệm có tính lịch sử, trại mới tổ chức một ngày học tập khi có cán bộ cấp trung ương hay một nhân vật nào đó về nói chuyện. Ngoài ra, chỉ là những "bài giảng luân lý" hàng đêm của cán bộ quản giáo, những bài giảng với luận điệu rất ngây ngô và rẻ tiền. Ðể trám vào chỗ thiếu sót về học tập lý thuyết, trại chủ trương đọc báo, nghe đài hàng ngày cũng là học tập.

Chuyện nghe đài phát thanh ở vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn là một sinh hoạt khá hiếm hoi. Cả trại có một máy thâu thanh, chạy bằng bình điện xe hơi, hoặc chạy pin gì đó và một vài ống loa bắt ở cành cây khu cán bộ bên kia đồi. Do đó, vào lúc bản tin hai mươi mốt giờ phải lắng tai lắm mới nghe được, nếu gặp hôm trời không gió. Phần lớn chỉ nghe điệu nhạc văng vẳng xa xa. Báo thì dĩ nhiên là báo chánh thức "Nhân Dân" và "Quân Ðội Nhân Dân", nhưng cũng không đủ số lượng cho toàn trại nên phải luân phiên mà đọc. Tổ này đọc báo ngày hôm trước, tổ nọ, báo ngày hôm sau và sau đó trao đổi nhau mà đọc. Nếu trong cuộc sống của người miền Nam trước kia, dù phải bỏ tiền ra mua, tờ báo chẳng có giá trị gì hết ngoài chức năng thông tin của nó thì trong trại tù báo lại được trân trọng vô cùng. Sở dĩ như vậy là vì nó có một giá trị tinh thần do chỗ báo chí chuyên chở những lời nói và hình ảnh của lãnh đạo, của đảng. Cũng giống như ông bà mình ngày xưa cứ coi trọng những gì có chữ Hán, vì là lời nói của thánh hiền.

Mỗi tổ chọn một người đọc báo mỗi tối cho cả tổ nghe. Người được chọn vào nhiệm vụ đó coi như chịu thêm một cực hình nữa trong án tù cải tạo của mình. Ðêm đêm, trước ngọn đèn chong leo lét, nhứt là những đêm khí lạnh tràn về theo cơn gió mùa đông-bắc, giương to đôi mắt lem nhem sau một ngày lao động mệt xác để đọc gần hết bốn trang báo, với những bài phần lớn nói về nông nghiệp, chăn nuôi, người tốt việc tốt, thành tích thi đua và những con số thống kê vượt bao nhiêu phần trăm so với cùng thời kỳ năm trước khi mà trên thực tế lại là những sự kiện phũ phàng dưới mắt người tù. Mỗi lúc đọc báo như vậy, cả tổ phải ngồi lên nghiêm túc ngay tại chỗ nằm, không được buông mùng, không được trùm mền. Sự mệt mỏi sau ngày lao động vất vả cộng với cái mát lạnh đêm đông lại được nhẹ ru bởi giọng đọc đều đều, êm êm của người đọc báo, nhiều khi giấc ngủ xâm chiếm lấy con người mà chính con người cũng không ý thức được. Cho nên, thỉnh thoảng có tiếng ngái ấm ức vang lên hay tiếng của khối thịt ngã  rầm xuống tấm phên giường ngủ, theo sau là một vài tiếng cười rúc rích. Nhiều khi buổi đọc báo kết thúc nhưng nội dung được ghi nhận chẳng được là bao. Nếu có nghe, hiểu và ghi nhớ được đi nữa thì phần lớn cũng chỉ là những bản tin nước ngoài ít oi, thông thường được đăng ở trang cuối cùng. Thái độ nghe báo lỏng lẻo như vậy đôi khi cũng bị bắt quả tang nếu hôm nào cán bộ bất chợt đi rình mò vào giờ đọc báo. Thế là sinh hoạt đêm lại có bài luân lý nên thân. Nhưng cũng là một chuyện vui nữa đối với tù thôi và cũng nhờ vậy mà luận điệu lên lớp của cộng sản đương nhiên bị hóa giải.

Có một lần, người đọc báo phát âm ba từ Iran, Irak và Italie bị cán bộ rình ngoài hè nghe được, không bằng lòng bèn vào chận lại ngay và chỉnh:

- Học tập bao nhiêu lâu mà anh đọc báo như thế à?

Người đọc báo ngơ ngẩn, chẳng biết mô tê ra làm sao cả thì người cán bộ lại tiếp:

- Ba nước đó sao anh lại đọc một cách xuyên tạc thế? Anh phải đọc là "một răn, một rắc, một tà  li" rõ chưa?

Ðêm đã khuya, trời càng lạnh và cơn buồn ngủ lại hoành hành, người đọc báo đành cười thầm chấp nhận "chân lý" của cán bộ một cách nhanh chóng và hứa sẽ sửa sai. Vả lại chân lý của cai tù thì lúc nào mà chả đúng! Những người nghe báo đêm đó thêm được một chuyện tiếu lâm thời đại cho đời tù đỡ buồn tênh. Thì ra chỉ vì ba địa danh đó trên báo cộng sản thường viết:"I-Ran, I-Rắc, I-Ta-li" nên phát âm theo kiểu cán bộ quả là đúng thôi.

Ðối với một xã hội mang truyền thống tôn vinh lao động, coi trọng công nhân theo một chủ đích thầm kín nào đó thì những gì liên hệ đến văn hóa và trí thức là một cái gì cao siêu và ghê gớm, mặc dầu giới trí thức bị khinh thường. Thế nhưng, tờ báo hàng ngày mang hình ảnh lãnh đạo và những chỉ thị của trung ương được trân trọng vô cùng. Cho nên, trong trại tù cải tạo thường có một anh tù được chỉ định phụ trách công việc nhận lãnh báo và phân phát cho các tổ để đọc hàng đêm, sáng hôm sau đi thu gom lại đem về lưu trữ. Vào những đợt học tập, có khi báo cũ được lôi ra để làm tài liệu căn bản vì trong đó có những "bài nói" của cấp lãnh đạo trung ương liên quan đến đề tài học tập, như đường lối, chính sách chánh trị hay kinh tế. Người tù đó tù gọi nôm na là "anh văn hóa". Ngoài ra, anh này còn có nhiệm vụ quản lý một số sách, báo, tạp chí. Cơ ngơi làm việc của anh là một gian nhà lá nhỏ, nơi mà tù có thể đến đọc sách báo hoặc xem báo tường do các tổ hình thành nhân những kỳ lễ lớn.

 

ß

 

Người đời thường nói "Có thực mới vực được đạo" nên chuyện đọc báo, nghe đài hay thường lui tới "nhà văn hóa" của trại chỉ là chuyện phụ thuộc vì tù cải tạo làm gì được mặc đủ ấm và ăn đủ no để quan tâm đến khía cạnh tinh thần trong nếp sống tù tội. Những năm tháng ban đầu, quân phục tác chiến ngụy trang của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã được đem ra phân phát cho tù. Nhờ vậy mới chịu đựng nổi sức trì kéo trong lao động. Lần hồi về sau, khối dự trữ đó không còn nữa nên tù phải chấp vá đủ mọi cách, quần áo càng dày thêm nhưng lại không bền. Ðầu mùa lạnh đầu tiên ở miền Bắc, trại phát ra cho tù cải tạo mỗi người hai cái mền và một áo bông cũ, lấy từ đâu không biết, có cái còn dính những vết máu, giặt không sạch mà tẩy thì lấy gì mà tẩy. Một chỉ dấu cho phép nghĩ rằng đó là những chiếc áo của bộ đội tử trận. Túng thì phải tính, tù tự tạo lấy những trang phục để chống lại cái lạnh nghiệt ngã của miền Bắc, nhứt là ở vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn, có ngày hàn thử biểu xuống đến bốn độ dưới không. Vải bao cát đấp chiến hào từ Nam mang ra, thậm chí bao bố tời đựng gạo nhà bếp vứt đi cũng được sử dụng để chế biến thành những chiếc áo chống lạnh. Tuy nhiên, tất cả những sáng kiến đường cùng này đều bị trại phê phán cho là có ý "bêu xấu chế độ".

Ngày đêm, lúc nào tù cũng trực tiếp với cái lạnh vì cảnh nhà tranh vách lá. Khi đi lao động và lúc nằm ngủ đều mặc nguyên vẹn từng ấy lớp quần áo. Ấy thế mà nửa đêm về sáng vẫn cứ run như lên cữ rét, mặc dầu đã nằm co rút như con tôm kho tàu. Vào mùa lạnh, không có rơm để làm ổ nằm tù phải lợi dụng các chuyến đi rừng thu lượm lá chuối khô để lót lưng vì cái gọi là giường chỉ là tấm phên tre, hơi lạnh của đất dễ thấm vào lưng. Những ngày khí lạnh tràn về cùng với gió mùa đông-bắc mang lại cái "rét ngọt", trại mới cho phép nổi lửa để sưởi bên trong nhà ở. Lò sưởi dã chiến là một cái hố đào giữa nhà trên đường đi giữa hai dảy chỗ nằm. Tù phải tìm lấy những khúc cây gút mắt loại "đầu bò"[33] mang về đốt để lấy hơi nóng sưởi ấm. Tuy vậy, muốn được ấm thực sự thì tù cũng phải ngồi quanh miệng hố vì nhà tranh vách phên không thể giữ được hơi nóng, do đó giấc ngủ không thể trọn vẹn. Thời tiết đã lạnh lại thiếu ăn nên nhiệt lượng trong người không được bao nhiêu, do đó sức chịu đựng của tù đi theo một chu kỳ trôn ốc khi đòi hỏi của lao động lại không giảm. Trời lạnh và mưa phùn làm cho bối cảnh lao động thêm phần khó khăn vì tay chân cứ rung, mất đi mức độ chính xác, nhứt là sáng ra phải lội qua con suối nước lạnh như cắt lên quá đầu gối mới vào được khu lấy củi, lấy tre. Một bó tre, bó củi trên vai, tay ôm, tay chống gậy, đường đất lầy lội hay trơn trợt vì lá rừng ướt đẫm trên đường đi, mũi miệng thở ra khói, mấy lượt lên đồi, xuống thung lũng mới về đến trại đổi lấy vài chén cơm với ít rau và nước muối thì nhiệt lượng thu vào liệu được bao nhiêu?

Về lâu về dài, mức ăn thiếu hụt càng tác động đến sức khỏe. Vấn đề thiếu đói tù cải tạo đã trải qua từ những ngày trong Nam. Giờ đây, thời tiết khắc nghiệt, mức độ lao động nặng và thời gian chịu đựng lại làm cho tù càng thắm thía hơn. Tiêu chuẩn ăn hàng tháng chỉ là trên lý thuyết vì thực tế thì tổng số gạo do hậu cần trại phát ra đã thiếu. Hơn nữa, phần lương thực phụ để độn vào gạo trong bữa ăn là sắn, bắp hột, khoai lang, khoai tây, bí rợ làm gì có độ dinh dưỡng cao nên không cung cấp cho tù đầy đủ sức chịu đựng. Vả lại, thành phần bữa ăn chủ yếu chỉ có cơm và rau, ít khi có chất béo, một yếu tố cần thiết để chống lạnh. Năm khi mười họa, nhân những ngày lễ lớn hay những cơ hội đặc biệt, như có phái đoàn này nọ đến viếng trại, tù mới có được một bữa ăn có thịt, cá, nhưng rất ít ỏi. Một con trâu ngả thịt cho trên ba trăm con người ăn từ ba đến bốn ngày, ăn toàn bộ kể cả da[34], thử tính ra liệu mỗi người được bao nhiêu chất béo? Ăn thiếu lại lao động nặng nên tù phải tìm cách độn cho đầy bao tử. Củ chuối và rau má rừng là hai thứ được tù cải tạo khai thác nhiều nhứt vì rừng miệt đó chẳng có rau trái gì khác hơn. Chuối rừng thì bạt ngàn thế nhưng trái không ăn được vì rất nhiều hột và chát vô cùng. Hơn nữa, có dư luận cho rằng củ chuối rừng ăn nhiều dễ bị bịnh rét rừng. Vào những ngày mưa[35] rau má mọc lên rất nhiều. Tù thường hái về độn với cơm, non một tô cơm độn với gần một thau rau má, ăn cốt cho đầy bụng. Do đó phân người trông như phân trâu, được những bộ phận phụ trách khâu phân tươi cho là "phân không hôi thúi". Cũng là một điều may cho những ai phải làm chuyện bần cùng bất đắc dĩ này.

Thế nhưng, hành động túng thế làm liều miễn sao no bụng như vậy đã gây ra khá nhiều tổn thất nhơn mạng của tù cải tạo. Trong rừng vùng đó có một loại trái hình thù giống trái nhãn mà dân địa phương gọi là trái "guốc" ăn vào là phải "xách cuốc ra đồng" để đào huyệt chôn. Tù không ý thức được điều đó nên sau khi nếm thử thấy hột guốc luộc ăn giống hột nhãn có thể tiêu thụ được. Tuy nhiên khi ăn lấy no, độc tố của hột guốc có một tác dụng khá mạnh. Gần cả chục trường hợp phải cấp cứu và cũng thiệt mất một vài nhơn mạng. Ngọn sắn, được một số tiến sĩ viết trên báo Ðảng đề cao chất lượng dinh dưỡng, nhưng khi một vài anh tù cải tạo đem thực nghiệm thì lại phải khiêng vào trạm xá. Việc nấu nướng cá nhân bị cấm triệt để ở những trại miền Bắc nên được tiến hành một cách lén lút, ngụy trang. Nhân dịp những lúc đốt rừng khai hoang, tù cải tạo hái đọt sắn dồn vào lon sữa Guigoz đổ nước suối vào luộc. Có thể vì ít nước lại quá nhiều đọt sắn nên độc tố càng cao, ảnh hưởng đến sức khỏe của người ăn. Theo phân tích, sắn chứa nhiều chất độc, thậm chí có cả chất Cyanure, dĩ nhiên là với một lượng thấp. Thực tiễn mà nói thì có trường hợp heo của trại ăn vỏ sắn đã nấu chín vẫn bị ngộ độc chết. Còn chuyện tù cải tạo ăn sắn tươi bị "say" ngã lăn là trường hợp khá phổ biến.

Bên cạnh ảnh hưởng sinh lý của nạn thiếu đói trong tù còn có hậu quả tâm lý, một trường hợp khá kỳ quái nhưng rất phổ biến, trại nào cũng có. Dân gian thường nói "miếng ăn là miếng tồi tàn" và trong trại cải tạo, cộng sản còn mạnh tay hơn nữa là lấy miếng ăn để quản lý con người và làm cho con người biến chất, mất hết phẩm giá và nhân tính. Mức độ tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng tùy thuộc vào từng loại lao động và cũng tùy theo chiều sâu của điều mà họ muốn khai thác tù. Một vài biệt lệ về ăn uống được trại áp dụng để mua chuộc những tâm hồn băng hoại làm tay sai, làm điềm chỉ viên cho trại để dò xét đồng đội rồi báo cáo cho trại trừng trị. Thế nhưng, chỗ thâm độc cao siêu của họ là những chênh lệch trong tiêu chuẩn ăn uống lại được xoay tròn trong số lượng lương thực, thực phẩm đã được tính chung cho toàn trại. Cho nên tăng tiêu chuẩn cho một số người trại cũng chẳng phải xuất thêm lượng thực phẩm nào, chỉ có những người tù khác chịu thiệt mà thôi. Do đó tình trạng chia rẽ giữa người tiêu chuẩn cao và tiêu chuẩn thấp lại càng gay gắt hơn.

Nạn thiếu ăn, đói bụng hành hạ con người một cách vô cùng nghiệt ngã, khiến cho tâm trí lúc nào cũng duy nhứt nghĩ đến miếng ăn và tìm mọi cách để trám đầy bao tử. Không ăn cụ thể được, tù lại liên tưởng đến chuyện ăn uống trong quá khứ, đến những nhà hàng một thời mình đã đặt chân vào, đến những món ăn ngon miệng mình đã một lần thưởng thức. Những đêm đông giá lạnh, mỗi người chui vào chăn mền và ổ lá khô để đương đầu với cái rét nhưng chuyện ăn uống của thời đã qua cứ râm ran, càng kể càng thấy đói. Thậm chí có những người, mà kỹ thuật làm bếp không biết đến mức nào, lại thích mô tả phương thức nấu món này, làm món nọ và dĩ nhiên cũng có những người thích làm học sinh gia chánh, ghi chép cả một tập dày, chẳng biết để làm gì. Bụng đã đói, phần ăn hàng bữa lại kém cỏi nên người đói ăn hay tính toán chi li, kèn cựa từng muỗng cơm, từng củ khoai bé nhỏ, từng con cá khô tí ti. Vì vậy, việc chia thức ăn hàng ngày đem lại những khổ tâm không nhỏ và đã có người sáng chế ra chiếc cân thô sơ để cân thức ăn. Nhờ đó mà những người cùng mâm ăn có được một tâm trạng yên ổn vì nghĩ rằng ít ra cũng có được sự công bằng. Dưới tác dụng của bao tử, tù cải tạo đã có những hành động làm cho họ phải xấu hổ khi đặt vào khung cảnh của đời thường. Thậm chí còn có những người không tự chế được phải ăn cắp thức ăn của bếp tập thể hay của bạn bè để dành, hoặc giấu bớt một vài củ khoai nhân lúc họ có phận sự lãnh phần ăn của tổ trên đường từ bếp tập thể về tổ ăn! Miếng ăn quả thật làm nhục con người, lúc dư ăn dư để cũng như khi chẳng có để ăn.

 

ß

 

Nạn thiếu đói kết hợp với thời tiết khắc nghiệt và mức độ lao động khổ cực lần hồi theo thời gian đã ảnh hưởng đến tinh thần và sức khỏe của tù cải tạo một cách rõ rệt. Với một ý đồ thầm kín nào đó, chớ chẳng phải vì lòng nhơn đạo, cộng sản mở một đợt cho tù gởi thơ về nhà yêu cầu gia đình gởi bưu phẩm, ba tháng một lần, mỗi lần ba ký lô, chủ yếu là quần áo và một ít thức ăn khô. Quy định của trại là như vậy, nhưng gia đình khôn khéo và linh động vì biết nhu cầu chánh của tù nên bưu kiện nào cũng thức ăn nhiều hơn, thậm chí có cả tiền mặt được giấu trong thực phẩm hay quần áo. Dĩ nhiên trại phản ứng nhưng tù chỉ biết cuối mặt chịu đựng thôi chớ chẳng có cách nào khác. Dựa trên điều gọi là tinh thần cộng sản "xóa bỏ bất công" trước trường hợp kẻ có quà, người không, trại đi xa hơn một bước bằng cách bắt những người cùng chung một tổ, nhận được bưu phẩm cùng một lúc, phải tập trung tất cả thức ăn nhận được lại để cả tổ cùng hưởng. Thế là bột dinh dưỡng, đường được nhập chung lại làm thành một nồi chè, nội dung chẳng giống ai hết. Nhưng đói quá nuốt cũng trôi qua. Như vậy cộng sản muốn rằng thức ăn có tính cách chiến lược, có thể sử dụng để trốn trại đều được tiêu thụ một lần một và một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, qua phương thức này người có quà phải đưa vào sử dụng tập thể có thể cảm thấy thiệt thòi mà người không quà lại được hưởng thụ đâm ra ái ngại.

Trong điều kiện thiếu thốn và tiêu phí ca-lo như vậy nhu cầu về chất ngọt rất gay gắt. Lúc bấy giờ, ở miền Bắc đường thuộc loại nhu yếu phẩm khan hiếm, được cung cấp theo tiêu chuẩn. Tù cải tạo mỗi ba tháng được trại phát khoảng một trăm gờ-ram đường. Nhân dịp gia đình có gởi tiền cho tù qua bưu phẩm, trại tổ chức những đợt đi mua chất ngọt[36] cho những ai có tiền đăng ký[37] ở trại. Mỗi chuyến mua mật đường phải di chuyển đi về gần mười cây số. Cứ hai người khiêng một cái xô hay một cái hũ chứa khoảng vài mươi ký mật đường, và mỗi chuyến đi khoảng mười người, có bộ đội hướng dẫn vào tận làng mạc xa xôi hay hợp tác xã nào đó để mua về chia ra. Mật đường vừa lấy từ mía ép ra chưa nấu nên có những trường hợp không được sạch gây ra những trận phiền toái cho đường ruột khá rắc rối. Nhưng dẫu sao cũng trấn áp được sự khao khát chất ngọt của cơ thể. Tuy nhiên vì thiếu thốn quá lâu và quá nhiều nên cũng có những trường hợp vì tiêu thụ với số lượng lớn nên bị phản ứng gần như say rượu hay say sắn, làm cho thân xác phải khốn khổ vì sự đòi hỏi của cái miệng. Ðúng là "thần khẩu hại xác phàm"!

Trong số những điều bất thường của trại học tập cải tạo còn có một việc khác thường đáng kể là chuyện thành lập một tổ phiên dịch trong khi trước đó cộng sản cho rằng ngụy quân, ngụy quyền cần phải học tập lao động chân tay. Với ý đồ khai thác tri thức văn hóa và khả năng ngoại ngữ của tù cải tạo, bộ quốc phòng Hà Nội phái người về trại bảo anh tù nguyên trưởng Phòng Nhứt của Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa tìm người để dịch tài liệu tiếng Anh và Pháp ra tiếng Việt Nam. Thế là trong một môi trường lao động tay lắm, chưn bùn lại xuất hiện một nhóm người lao động trí óc. Ban đầu người nào ở tổ nấy, lãnh tài liệu về dịch xong tập trung lại tổ trưởng để thỉnh thoảng Hà Nội cho người đến lấy về sử dụng. Về sau, trại cho một túp nhà tranh riêng biệt trên một mỏm đồi con, bàn ghế toàn bằng phên đặt nằm trên mấy cây trụ làm chưn. Ban đầu, tổ dịch gồm có năm hoặc sáu người, có lúc tăng lên ngoài hai mươi người. Nhưng chung cuộc lại, sau mấy lần chuyển trại, chỉ còn khoảng mươi người. Tài liệu để dịch chẳng có gì khác hơn là những quyển sách của Anh, Pháp và Mỹ liên hệ đến chiến tranh Ðông Dương và Việt Nam được bán ra trên thị trường. Thế nhưng trong trại tù và trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thông tin nên cứ mỗi khi một chi tiết nào đó trong bài dịch được dư luận bàn tán xôn xao là trại đặt vấn đề "tiết lộ bí mật" và tổ dịch lại bị một phen lên lớp. Buổi đầu, tổ dịch được bộ quốc phòng Hà Nội săn sóc "bồi dưỡng" để mong khai thác trí tuệ triệt để hơn nên cứ mỗi lần đến thu bản dịch và trao tài liệu mới là có tặng trà, cà-phê, thuốc lá và đường. Nhưng càng về sau thì mỗi khi quốc phòng đến là tổ dịch lại phải có trà, thuốc để mời người đại diện của bộ và phần bồi dưỡng cho tổ dịch chỉ có tính cách tượng trưng.

Một bất thường khác nữa, chỉ bắt đầu xuất hiện ở Hoàng Liên Sơn, là những điềm chỉ viên cho trại. Ðó là một loại người đứng về phía cộng sản để làm hại bạn bè trong khuynh hướng gọi là "xây dựng để cùng nhau tiến bộ". Trại đã đưa ra những ảo ảnh với một vài quyền lợi nhỏ nhen để lôi cuốn đôi ba con người thích được chút gì khác hơn thiên hạ, nhứt là trong bối cảnh thiếu thốn và không thấy lối thoát. Trại đã để cho họ có cảm tưởng rằng với sự hợp tác như vậy họ sẽ được ưu đãi hơn và biết đâu họ sẽ được cho về với gia đình sớm hơn. Cụ thể thì cũng có một vài ưu đãi về tiêu chuẩn sinh hoạt như được cán bộ lén lút mua hộ món này, vật kia, được ăn thêm một cái bánh chưng vào dịp Tết, được nhiều lần viết thơ về nhà hơn bạn bè,... Nhưng, vì chẳng có bí mật nào được giữ kín trong trại tù hết nên không sớm thì chầy những mật vụ kiểu đó cũng bị lật mặt nạ. Thậm chí có những trường hợp chính cán bộ cộng sản đã gián tiếp tiết lộ khi điệp viên của họ bị coi như là đã cháy. Giao du với cán bộ cộng sản chẳng khác nào chơi dao hai lưỡi vì bản chất của họ chỉ là một thứ "giáo Tàu đâm Chệc".

 

ß

 

Hệ thống chó săn đó hoạt động chưa được lâu dài để đem lại hậu quả mong muốn thì lại có lịnh chuyển trại. Lần này tổng số tù cấp đại tá bị chia đôi, một nửa ở lại "Trại-2 Nhà Lá", một nửa bị đưa vào "Trại-3". Trại này nằm sâu hơn nữa trong vùng núi rừng, cách "Trại-2 Nhà Lá" khoảng hai cây số, qua con đường đất ngoằn ngoèo ôm sườn núi chạy vào nương. Vì trại này nằm ở một thung lũng trong tận cùng nên thường được gọi là trại cốc. Trại này trước kia cũng đã có người ở nhưng bỏ đi khá lâu nên khi đoàn tù cải tạo vào thì đứng trước một cảnh hoang tàn. Một lần nữa lại phải bắt đầu chỉnh đốn nơi ăn chốn ở và vùng đất canh tác hoa màu. Trước mắt là mức ăn phải sút kém vì phần rau xanh phải mua bên ngoài nên không được dồi dào bằng phần rau do chính trại thực hiện. Khu nhà ở của tù nằm trên một khoảnh đất cao lưng chừng trong lòng chảo còn khu nhà ở của cán bộ khung được xây cất trên một ngọn đồi nhìn xuống lòng chảo. Mức độ lao động lại nặng nề hơn vì với một nửa nhân số mà diện tích phải khẩn hoang quanh trại lại khá rộng. Nhưng trại cho rằng sau thời gian thử lửa lao động ở các "Trại-2" trước đây, tù cải tạo có thể thỏa mãn được đòi hỏi của họ. Ngay từ những ngày đầu, sau khi đã ổn định xong chỗ ở, các tổ cơ động đã bắt đầu làm việc thông tầm để vào sâu phía trong khoảng trên một cây số, phá rừng trồng bắp, sắn và lúa nương[38]. Lúc vào phải đi theo con suối, rồi từ suối dàn hàng ngang phát hoang ngược lên đồi cao. Khoảng một tháng sau, khu rừng rậm ngày nào đã trở thành một vùng đất thênh thang, cây rừng làm củi còn cành lá thì đốt tại chỗ để lấy phân cho đất mà tỉa bắp, đặt hom sắn và gieo lúa mới. Công tác rất cấp thiết nên nhân viên tổ dịch cũng phải tham gia công tác của các tổ cơ động bằng cách đi rừng với tổ gốc vào ngày thứ bảy trong tuần. Công cuộc khẩn hoang vừa xong thì phải lao vào việc đấp đập chận con suối lại làm hồ nuôi cá và chứa nước dự trữ cho các trại cuối nguồn. Khi đập đã hoàn tất, vùng đất thấp bên kia đập biến thành một cái hồ khá rộng, mặt nước trên một mẫu tây. Hồ nước này làm nhẹ gánh cho những người phải đi rừng xa lấy củi vì có thể kết củi thành bè thả xuống nước đẩy tắt về trại, đỡ đi một khoảng đường lối một cây số, với mấy mươi ký trên vai.

Khoảng bốn tháng sau, nếp sống ở Trại-3 bắt đầu được ổn định. Một hôm vào giữa đêm, có tiếng tu huýt gọi tù tập hợp ngoài sân trống. Một số khoảng hai mươi người được gọi tên và được lịnh mang hết tư trang theo để "cách ly", chuẩn bị chuyển trại. Ngày hôm sau, họ được bồi dưỡng cẩn thận, được cấp phát thêm quần áo, được phát phần ăn đi đường và đêm đến họ được đưa đi trong âm thầm. Dựa theo những tiết lộ của trại, dư luận tin rằng:"Ðó là những phần tử ác ôn, có nhiều nợ máu", vì thành phần gồm có những cựu tỉnh trưởng và cựu sĩ quan an ninh quân đội nên bị đưa đi học tập riêng. Một loại tin đồn để trấn an cho những người ở lại có cơ sở để suy diễn tự thấy mình không ác ôn thì nay mai sẽ được tha thôi, khỏi cần đào thoát.

Sau một thời gian xôn xao bàn ra tán vào về chuyến đi đó rồi hoạt động trại cũng trở lại bình thường. Trại không khi nào để cho tù yên để suy nghĩ được cả với cái đói và với mức độ lao động gay gắt sáu ngày trong một tuần. Thậm chí có khi làm cả bảy ngày với ngày chủ nhựt được gọi là "ngày thứ bảy cộng sản" khi có đợt thi đua hay đợt "lao động xã hội chủ nghĩa". Sau Tết nguyên đán năm 1978, bắt đầu có những sinh hoạt khả nghi được dư luận của tù cho là sắp có chuyển trại. Các tổ cơ động được bố trí đi lấy củi thật nhiều cho bếp bộ đội, mức ăn có vẻ cải tiến, trại cho tháo đập bắt cá đưa vào thành phần thực phẩm, điều chỉnh phiếu đăng ký tiền và tang vật, tổ dịch không hoạt động nữa mà đi lao động cùng với tổ gốc và tập trung tài liệu, tự điển giao cho trại,... Thế nhưng, trong sinh hoạt hàng đêm dư luận đó bị cán bộ chỉ trích nặng nề, cho là "tung tin đồn nhảm, vô căn cứ có chiều hướng phá rối trật tự của trại". Thậm chí ngay buổi sáng, các tổ cơ động còn phải vào rừng lấy củi như thường lệ và đã đưa củi về đến bờ đập nhưng đã đến giờ cơm trưa đành phải để chiều trở ra vác vào. Sau giờ nghỉ trưa, khi kẻng lao động buổi chiều thì cả trại được lịnh tập hợp ở hội trường chờ lịnh. Thế là buổi chiều và suốt đêm hôm đó phải chuẩn bị cho chuyến chuyển trại mà, như thường lệ, nơi đến còn mù mờ hơn nẻo vào rừng hoang của vùng núi đồi Hoàng Liên Sơn.

------------------------

Ghi chú :

[15] Cộng sản rất kỵ tên gọi "tù cải tạo"

[16] Ðiểm đáng chú ý là quy định của các trại tù cải tạo cấm tù sử dụng tiếng nước ngoài. Thế nhưng, cộng sản vẫn còn có rất nhiều từ dựa theo tiếng Pháp.

[17] Ðây là trích đoạn mã hóa của thơ. Chú Tư: người nhận thơ; Long Biên: tên gọi ám chỉ Biên Hòa; Bà Ba Hiệp: Tam Hiệp.

[18] Của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa bỏ lại và đã mang cờ Bắc Việt.

[19] Mà tù cải tạo gọi là "đồng hồ Oméga".

[20] "La guerre est une chose trop sérieuse pour être confiée à des militaires", Georges Clémenceau.

[21] Một loại cây ít thấy ở miền Nam, lá có hình quạt dùng để lợp nhà và làm nón.

[22] Lời ca của một bản nhạc rất phổ biến khi cộng sản vào thành phố.

[23] Sau nầy gặp lại ở một trại khác, một vài người cho biết rằng họ là một trong những người "thợ xây cất" nhà tù đó.

[24] "Nhà đèn" của trại đặc biệt thuộc trách nhiệm kỹ thuật của một người da trắng, được biết là tù binh "phản chiến chiêu hồi", không rõ quốc tịch. Tù cải tạo không được đến gần người này mà chỉ nhìn thấy từ xa, khi sáng nào anh ta cũng đi từ nơi ở đến nhiệm sở, với chiếc sơ-mi trắng cụt tay và cái máy thu thanh đeo ở vai.

[25] Một loại cây to, khi đã đúng tuổi, thân thẳng, gỗ màu trắng và nhẹ, dùng làm vỏ hộp và que diêm, nhựa dùng làm thuốc gọi là an tức hương, chớ không phải là loại bồ đề thường thấy trồng cạnh các chùa miền Nam.

[26] Sáng xuất trại, đến chiều khi "tan tầm" (hết giờ lao động) mới trở về trại.

[27] Tên gọi thông dụng của bộ đội là "tổ anh nuôi".

[28] Tên gọi của trại là "trạm xá".

[29] Một loại tre rừng đầy dẫy ở Hoàng Liên Sơn.

[30] Một loại xe bằng cây, giống như xe bò nhưng nhỏ hơn, do một người kéo và một hoặc hai người đẩy tùy theo trọng lượng chuyên chở.

[31] Tên gọi của phòng đọc sách, báo, tạp chí và báo tường.

[32] Một loại bột dinh dưỡng làm bằng đủ thứ bột ngũ cốc rất phổ biến lúc bấy giờ.

[33] Chắc than, giữ lửa được lâu

[34] Da trâu thui lông, ninh lâu dài thêm tí muối, ăn chẳng hương vị gì, cứ như kẹo cao su, nhưng chủ yếu để đưa cơm.

[35] Ở miền Bắc gần như mưa đủ bốn mùa. Xuân: mưa xuân; hè: mưa rào; thu: mưa rươi; đông: mưa phùn.

[36] Chưa phải đường vì đây chỉ là mật đường vừa ép từ mía ra.

[37] Tiền mang theo khi đi trình diện học tập và tiền do gia đình gởi lén qua bưu phẩm.

[38] Một loại lúa trồng trên đồi núi không cần nước.

 


PHAN QUÂN

 
Tên thật: Phan Văn Minh
Ngày sanh: 17.02.1931
Dân Sài Gòn
Học sinh Pétrus Ký
Khoá I Thủ Đức (1951-1952)
Sĩ quan bộ binh: (1952-1953)
Sĩ quan Không Quân: (1954-1975)
Tù cải tạo: (1975-1987)
Định cư ở Pháp: (1990-...)
 
Tác phẩm :

Thay Lời Tựa : Như nẻo đường rừng.

1. Sài Gòn : Những ngày trăn trở.

2. Long Giao : Một bước đổi đời.

3. Tam Hiệp : Nửa từng địa ngục.

4. Hoàng Liên Sơn : Núi rừng trùng điệp.

5. Hà Tây : Trong gọng kềm công an.

6. Nam Hà : Ai cải tạo ai ?

7. Thành phố Hồ Chí Minh : Một thuở sắc không.

8. Paris - Chelles : Ta lắng nghe ta.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.