Viễn tưởng
Lời nói đầu :
Trong khi viết bài “Việt
Nam và vấn đề sử dụng người tài trong giai đoạn hiện nay”
(Thời Đại Mới – số 22, tháng 8 – 2011), như một tất yếu
khách quan, tôi đụng chạm phải nhiều vấn đề nóng bỏng trong
bối cảnh đất nước đang đứng trước ngã ba đường, hoặc là..,
hay sẽ là…. Ngay lập tức tôi bị thôi thúc: Phải nói suy nghĩ
của mình về những câu hỏi tự mình đặt ra trong bài viết này.
Lẽ đơn giản tôi không được phép chỉ đóng vai “người bình
luận”.
Tôi dự định sẽ tìm cách trình bày tập trung những suy nghĩ
của mình liên quan đến những câu hỏi đề ra vào 3 bài viết
tiếp theo:
Với tất cả nỗ lực, tôi cố bám sát thực tế nghiệt ngã, chỉ để
tìm ra những khả năng khả thi tối thiểu có thể có trong tình
hình hiện nay cho việc giải quyết một số vấn đề hệ trọng đất
nước. Tuy nhiên với nhiều lý do xác đáng, sẽ có những câu
hỏi khó hoặc đến nay tôi chưa thể trả lời được. Vì những lẽ
này, cả ba bài dự định viết này sẽ có cái tựa đề chung là
Viễn tưởng.
Sự thôi thúc trong thâm tâm khiến tôi bỏ qua mọi hạn chế và
ngần ngại của bản thân, liều lĩnh viết ra 3 bài viết này với
hy vọng sẽ nhận được sự trao đổi rộng rãi trong dư luận.
Tất cả vì tổ quốc yêu dấu của chúng ta.
Bài 2
Suy nghĩ về
sự nghiệp duy tân đất nước
Hay là ảo tưởng?
I. Ảo Tưởng?
I.1. Nỗi niềm
Những ý nghĩ thôi thúc tôi viết
Bài 2 đơn thuần là nỗi day dứt về sự yếu kém
hiện hữu kéo dài của đất nước và mong ước bằng cách nào đó
nước ta sẽ thay đổi được, để trên đất nước ta là cuộc sống
hạnh phúc của nhân dân, và trên thế giới là một Việt Nam
không thua em kém chị trong mối quan hệ cộng đồng quốc tế.
Trước hết xin nói rõ thế này: Lâu
nay tôi vốn dị ứng với bất kỳ một hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội nào ở nước ta có tên gọi “phong trào”.
Đơn giản vì trong thực hiện chỉ thấy nó có bề nổi, ít giá
trị thiết thực và không bền. Tôi cũng nghĩ rằng sau 35 năm
xây dựng đất nước kể từ khi giành được thống nhất và 25 năm
sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, chẳng lẽ bây giờ lại
nghĩ phải nghĩ đến một cái gì đó mang tính phong trào?-
nhất là một phong trào mang tính duy tân đất nước?!.. Song
ngẫm nghĩ mãi, tôi thấy đất nước ta trong quá trình phát
triển vừa qua của mình, bên cạnh cái được, cái tha hóa đang
lấn lướt trên nhiều mặt và có hệ thống, lại trong một bối
cảnh thế giới quyết liệt hiện nay. Tình hình trở nên nguy
hiểm đến mức đòi hỏi phải có sự thay đổi toàn diện và triệt
để - như đã trình bày trong Bài 1 và một số bài khác tôi
viết trước đó. Những trở lực phải vượt qua lớn quá, rất đa
dạng, trên mọi bình diện của đất nước. Nếu như giờ đây không
dấy lên được trong cả nước và trong toàn thể cộng đồng dân
tộc Việt Nam ta một phong trào thay đổi triệt để đất nước,
chẳng những sẽ khó giành được những thắng lợi mới trên chặng
đường tới, mà còn có nguy cơ đất nước bị tụt hậu nữa, sẽ
tích tụ thêm đủ mọi thứ nguy hiểm và ngày càng bị uy hiếp.
Còn chờ nước đến chân mới đem mọi chuyện ra bàn, liệu lúc ấy
có bàn được không?
Phải, làm gì? Làm thế nào? Tôi
chưa nghĩ ra được. Song nỗi niềm như vậy, tự nhiên khiến tôi
tưởng nhớ đến phong trào Duy Tân do các chí sỹ Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi xướng, nhất là vì
phong trào này tập trung vào yêu cầu mở mang dân trí và thức
tỉnh tinh thần dân tộc để thay đổi đất nước, với chủ đề:
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Đây còn
là một chương trình nghị sự nữa, một quy hoạch có lý để thực
hiện: Khai dân trí đi trước.
Theo tôi, yêu cầu cụ Phan và các
chiến hữu của mình đặt ra chính là cái nước ta cần trước
tiên trong tình hình đất nước lúc này trong bối cảnh thế
giới hiện nay.
Tôi tin rằng dân trí và tinh
thần dân tộc cao là yếu tố quyết định. Có trình độ dân trí
và tinh thần dân tộc cao, nhân dân ta sẽ tự chọn được, thiết
kế được, và sẽ có cách thực hiện được cho mình con đường
phát triển của đất nước – trước hết nhân dân ta sẽ tạo ra và
lập nên được đội ngũ tinh hoa lãnh đạo đất nước trên con
đường phát triển.
Tự giải phóng được mình về tư
tưởng và văn hóa, nhân dân ta chắc chắn sẽ xoay chuyển được
tình thế[1].
Suy nghĩ nói trên của tôi xuất
phát từ mong muốn: Nước ta phải từ chỗ đứng hiện tại,
tìm đường phát triển đi tiếp.
Các bài học đất nước ta thâu lượm
được trong hơn một thế kỷ nay rất nhiều, kinh nghiệm trên
thế giới cũng nhiều, làm sao chuyển hoá được thành sức mạnh
của trí tuệ và sáng tạo của cả nước, của toàn dân tộc?
Xin đừng bao giờ quên, những gì
đất nước này đang có trong tay cho đến hôm nay là thành quả
phải trả giá rất đắt của cả dân tộc này, dù là ai, dù là
theo chủ nghĩa nào, dù đứng về bên này hay bên kia –
suốt từ đêm dài 80 năm nô lệ và chiến tranh thế giới II đến
nay. Để có thành quả như hôm nay, máu Việt Nam nào đã chảy
và bao nhiêu tổn thất khác đều là những hy sinh của dân tộc.
Mọi vết thương của cả dân tộc này, cần sớm làm lành nó, chứ
không phải khư khư giữ mãi hay khoét sâu nó thêm nữa.
Tôi nghĩ đất nước lúc này còn
nhiều khó khăn gian truân lắm, nhất là nhìn vào cuộc sống
của một bộ phận đông đảo dân cư có thu nhập thấp dù ở nông
thôn hay thành thị, vùng sâu vùng xa… Đất nước nhiều mặt còn
chậm phát triển, tệ nạn quan liêu tham nhũng hoành hành,
thiên tai luôn tàn phá nghiêm trọng… Nhìn vào đâu cũng thấy
ngổn ngang không biết bao nhiêu việc phải làm. Đã thế, lúc
này đất nước đang có nhiều khó khăn trong, ngoài rất nhạy
cảm. Ngay hiện tại còn phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế
trầm trọng có thể còn kéo dài một số năm và sức ép trên Biển
Đông... Vì vậy, nên chắt chiu từng kết quả nhỏ để giảm bớt
khó khăn, nhất là đừng tự chuốc thêm vào nước mình những khó
khăn lẽ ra có thể tránh được, tất cả nhằm tập hợp sức mạnh
cả nước.
Dù chưa biết cụ thể phải làm gì
và làm thế nào, song tôi mong cho đất nước có một phong trào
duy tân xoay chuyển được tình hình. Khát khao như thế cũng
là thường tình. Bởi vì hàng ngày tôi thấy trên đất nước ta
có không biết bao nhiêu nỗ lực không mệt mỏi của từng cá
nhân hay nhiều cá nhân, của các hội, hiệp hội, hay các tập
thể, doanh nghiệp, cơ quan, các hộ gia đình ở nông thôn và
thành thị… hướng về mục tiêu này…
Trong những nỗ lực theo khuynh
hướng nói trên, có không ít những hoạt động đang dần dần xác
lập được chỗ đứng có ảnh hưởng và uy tín trong đời sống mọi
mặt của đất nước, mang lại ngày càng nhiều lợi ích thiết
thực.
Có không biết bao nhiêu ví dụ:
Hiệp hội Khuyến học, Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất
lượng cao, nhà xuất bản Trí Thức, tạp chí Tia Sáng…
Vietnamnet đã từng khởi xướng “Đổi mới II” (2006)… Gần đây
một số nhà kinh tế của nước ta cũng nhấn mạnh đến sự cần
thiết phải có đổi mới II… Khắp nơi trong cả
nước tiếng nói kêu gọi nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư
duy.., tuy chưa đủ mạnh như mong muốn, nhưng không nhỏ… Vân
vân và vân vân…
Cho phép tôi tại đây được bày tỏ
sự ngưỡng mộ và lòng trân trọng của mình đối với không biết
bao nhiêu nỗ lực có tên hoặc không có tên, không mệt mỏi của
những cá nhân, tập thể, trong đời sống hàng ngày. Nhiều
trường hợp là những việc làm âm thầm, trước hết là để tự cứu
mình. Không ít những nỗ lực phải trả giá đắt, song bản thân
từng nỗ lực ấy và những kết quả thu được để lại không biết
bao nhiêu gương sáng về những giá trị cần gìn giữ cho đời
này… Đó có thể là một nhân viên bưu vụ nghèo rách mướp nhặt
được của rơi trị giá hàng trăm triệu đồng song vẫn tìm mọi
cách trao lại bằng được người đánh mất, một em học sinh hoàn
cảnh hiểm nghèo vẫn tự lo liệu được việc nuôi mình đi học và
nuôi bố mẹ mắc hiểm bệnh vì chất độc màu da cam, một thiếu
nhi cứu được 2 bạn mình trong lũ – nhưng chính mình lại phải
chấp nhận thua sóng dữ vì kiệt sức trong khi cứu tiếp các
bạn khác; một nữ giáo viên già về hưu rồi nhưng vẫn đấu
tranh đến cùng chống tham nhũng – vạch tận tay day tận trán
từng vụ việc bà biết; một chiến sỹ kiểm lâm hy sinh vì kiên
quyết không khoan nhượng với bọn lâm tặc; một doanh nghiệp
đã chiến thắng cả tham nhũng tiêu cực trong nước và sự chèn
ép của bên ngoài; một chị hiệu trưởng trường đại học dân lập
– vì lợi ích học tập của 2000 sinh viên trường mình, đã hết
keo này đến keo khác, dũng cảm, không mệt mỏi, đấu tranh,
giành giật với cái bảo thủ trì trệ của hệ thống chính trị
từng ly từng tý một cái không gian tự do cho việc giảng dạy,
cho những hoạt động nuôi dưỡng chí hướng của trường…
Tôi đã có dịp gặp mặt một vài
doanh nhân trẻ, tất cả đều tốt nghiệp đại học trong nước
hoặc nước ngoài, tất cả đều chọn con đường lập nghiệp ngoài
biên chế nhà nước. Phải nói họ rất độc đáo và dũng cảm. Thực
sự là họ sáng tạo vô cùng và vượt qua được không biết bao
nhiêu rào cản. Chỉ tiếc là đất nước ta - nghĩa là cả hệ
thống kinh tế, chính trị và xã hội – chưa cho những “Bill
Gates” Việt Nam nho nhỏ này môi trường đáng có cho họ tung
hoành. Có người thành công ở nước ngoài trước, rồi quay về
tìm đất dụng võ trong nước… Duy tân đất nước rất cần những
tấm gương và những giá trị của từng con người hoặc tập thể
như thế - theo tinh thần có bột mới gột nên hồ, nhiều
người tốt và tập thể tốt sẽ tạo nên làn sóng mạnh trong cả
nước[2]…
Song cũng trong lúc tôi viết những dòng này, ngoài cuộc sống
hiện có hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ngắc
ngoải hoặc phải đóng cửa.
Câu chuyện cái tăm tre
và 2.000 tấn quặng
Anh Nguyễn Văn Hà
(12/79/18 Ngõ Thổ Quan, quận Đống Đa, Hà Nội, đt 04
38514597, di động: 0904108850), bạn vong niên của tôi,
sau nhiều năm kiếm ăn vất vả bằng nghề lái xe, dành
dụm được ít tiền, sự đời tình cờ dẫn anh tới quyết
định dốc hết vốn liếng đi sang Thái Lan mua cái máy
sản xuất tăm tre xỉa răng.
Vừa học vừa làm, vừa là
chủ vừa là thợ, trong khoảng thời gian khá ngắn anh
trở thành “nhà sản xuất tăm” từ khâu trồng tre đến bán
sản phẩm của mình đi khắp nơi trong ngoài nước, công
suất khoảng 180 tấn/năm, xí nghiệp tự lo tự diễn mọi
mặt; cả chủ và thợ tất cả các cơ sở gộp lại lúc cao
điểm khoảng 270 người…
Thế nhưng bỗng dưng:
Thương nhân Trung Quốc đến gặp, đề nghị hợp tác. Từng
bước, khách đưa ra các phương án: (1)mua đứt toàn bộ
xí nghiệp từ A đến Z, nghĩa là cả rừng trồng tre,
nhưng xí nghiệp cứ sản xuất như thường nhật, khách trả
lương cho xí nghiệp và độc quyền bao tiêu toàn bộ sản
phẩm mang nhãn hiệu mới Trung Quốc; (2) như phương án
1, chỉ sửa đổi ở chỗ giữ lại nhãn hiệu Việt Nam của
sản phẩm; (3) mua đứt rừng trồng tre, khách cam kết
tiếp tục giữ nguyên việc cung cấp nguyên liệu cho xí
nghiệp; (4) mua đứt khâu sản xuất tăm, nhãn hiệu gì
cũng được; (5) nhường cho khách bao tiêu sản phẩm
trong thị trường Trung Quốc; (6) góp vốn cùng kinh
doanh lời cùng ăn lỗ cùng chịu… Anh Hà choáng váng, vì
khách dai như đỉa đói. Anh còn muốn vươn xa nữa và đã
nhìn thấy các nguồn lực cho phép thoả chí vươn xa của
mình… Tất cả các phương án của khách, anh khước từ
quyết liệt. Nhưng khách không chịu buông tha.
Thế là sóng dữ cuồn cuộn:
Khách làm tăm rởm và tẩm độc hại, gắn nhãn mác của xí
nghiệp (nhãn mác nhái), tung ra thị trường rồi tố cáo
trên mạng và dư luận, về chuyện tăm của anh Hà chất
lượng bẩn. Anh Hà chạy vạy gõ cửa khắp nơi cầu cứu.
Sau rất nhiều tháng nỗ lực, anh Hà đã phản công được
trên tivi và báo chí nước ta, và nhận được sự giúp đỡ
bảo vệ nhãn mác của một số cơ quan hữu quan… Song kết
quả đến hôm nay chỉ là tồn tại ngắc ngoải: Xí nghiệp
bây giờ chỉ sản xuất khoảng 6 -7 tấn/năm, biên chế chỉ
còn lại 34 người. Trên thị trường Việt Nam tăm Trung
Quốc vẫn lấn át, vì tăm này bẩn, chế biến sơ sài, chi
phí thấp, nên giá bán chỉ bằng ½ giá tăm sạch của xí
nghiệp anh Hà.
Ngày ngày, nếu sau bữa ăn
các bạn dùng cái tăm tre tẩm quế có bọc giấy trong rất
nhiều các nhà hàng, khách sạn, các chuyến bay.., ở
nước ta cũng như tại khá nhiều nước khác, có nhãn mác
thường là tên nhà hàng, khách sạn bạn đang ở, hay các
hãng hàng không bạn đang bay.., có thể đoán chắc đấy
là cái tăm tre sạch của xí nghiệp anh Hà… Bởi vì tăm
sạch đáp ứng yêu cầu của những nhà hàng này.
Một chủ doanh nghiệp rất
nhỏ, để bảo vệ thứ sản phẩm vô cùng nhỏ của mình là
cái tăm, anh ta phải vật lộn vỡ óc là như thế và chưa
thắng được… Nhưng tại một điểm ở xã Chu Trinh – Cao
Bằng, cứ đêm về là có khoảng 2000 tấn quặng, theo báo
chí có lẽ là được xúc lậu lên xe tải (nghĩa là ăn
cắp?), để rồi đến sáng sớm ầm ầm xuất qua biên giới;
đã bao nhiêu lâu với những đêm êm ru như thế? (xem Sài
Gòn Tiếp Thị, 13-10-2011)…
Đến lượt tôi cũng choáng
váng như anh Hà, vì thực sự không sao hiểu nổi đất
nước mình!
Mới đây lại có chuyện
thương nhân Trung Quốc mua giá hời vài tấn chè với
điều kiện hàng phải trộn thêm bùn, phân trâu, rác bẩn
khác… Hàng được mang về Trung Quốc, không phải để bán,
mà để cho báo chí và tivi Trung Quốc ghi hình , viết
bài, tố cáo chè Việt Nam bẩn!.. Báo chí ta đã phải lên
tiếng… |
Ngày ngày, qua những gì tôi được
chứng kiến, tôi cảm nhận được sự mong muốn nóng bỏng trong
dân về những điều tốt đẹp cho cuộc sống của riêng mình và
của đất nước. Chắc chắn đấy sẽ là một động lực mạnh. Đồng
thời hàng ngày tôi cũng nghe được sự phê phán của dân đối
với những sai trái hay tiêu cực. Có thể nói đấy là sự phản
ứng rất quyết liệt, rất xây dựng, dù là phản ứng âm thầm,
không bộc lộ ra ngoài, nguyên do trước hết vì thiếu công
khai minh bạch và mất dân chủ. Sự âm thầm ấy nhiều khi thể
hiện ra bên ngoài như một thái độ vô cảm… Ước gì đánh thức
được nguồn năng lượng này!
Câu chuyên phi lý đến nỗi, ngồi
đâu cứ vài ba người trở lên, mọi câu chuyện đứng đắn lại
xoay quanh tình trạng tham nhũng tiêu cực trầm trọng của đất
nước, những bất cập mới… – dù là giữa người lái xe taxi và
khách trong một “cuốc” đường dài, mấy bác đảng viên về hưu
cụm lại với nhau chiều chiều bên bờ hồ, lúc trà dư tửu hậu
trong một bữa giỗ của gia đình… Thế nhưng cuộc sống trên báo
chí lề phải, các buổi truyền hình về những hoạt động chính
thống của đất nước.., lại là một bức tranh đời khoả lấp đi
quá nhiều mảng tối... Sao lại có sự khác biệt đến vậy?
Nếu người dân được cung cấp thông
tin và những hiểu biết cần thiết, nếu tạo ra được môi trường
công khai minh bạch, tạo ra được diễn đàn cho dân nói tiếng
nói của mình, chắc chắn sẽ tạo ra một bầu không khí mới tràn
đầy nghị lực cho cuộc sống đích thực về mọi mặt của đất
nước. Trong tôi càng khát khao đất nước có được một cao trào
duy tân.
Cũng xin cho phép tôi nhân đây
biểu thị sự phê phán, sự không đồng tình với không biết bao
nhiêu việc xấu hoặc chẳng hay ho gì đang diễn ra chung quanh
chúng ta hàng ngày hàng giờ.
Chỉ xin kể ở đây một ví dụ rất
rất nhỏ: Vừa mới đây tôi được chứng kiến trên tivi trong
bữa cơm trưa ở nhà, đó là việc biểu dương một em học sinh mồ
côi cha mẹ đã vượt khó nuôi được chính mình và các em mình
đi học - đương nhiên với sự giúp đỡ vô danh hoặc hữu danh
trong xã hội. Câu chuyện trên tivi đến đây rất đáng ngưỡng
mộ và ấm lòng người. Song tôi thất vọng, khi thấy thầy hiệu
trưởng đứng ra phát biểu, đại ý nói kết quả này còn là công
lao của nhà trường, rồi dặn dò như chỉ thị cho em… Tiếp theo
là một đại diện đảng ủy và chính quyền xã, rồi đại diện hội
phụ nữ xã.., cũng phát biểu tương tự.., ngoài ra còn thấy
xuất hiện trên màn hình vài người nữa – có thể là các chức
sắc nho nhỏ đại diện cho tổ dân cư thôn, xóm?.. Tôi tự hỏi:
Tại sao có thể nhầm lẫn trách nhiệm phải làm –
thậm chí đây là trách nhiệm ràng buộc về pháp lý và được trả
lương để làm – là công lao như thế được nhỉ?
Mà sao công lao của lắm người thế? Trong buổi tivi này còn
có các nhà hảo tâm trao cho em học sinh nọ tiền trợ giúp và
quà, tôi hoan nghênh những nghĩa cử này. Cứ giả định rằng
các nhà hảo tâm này rất muốn nhân tiện làm một chút “PR” cho
mình (public relation) – tiếng nói thời thượng bây giờ đấy,
dịch nôm na là quảng cáo cho bản thân, song tôi hiểu được và
chấp nhận. Nhưng đến cái chuyện tự nhầm lẫn trách
nhiệm phải làm với công lao, lại trên
lưng thành quả vượt khó của một em học sinh thì thật là quá
đáng. Trong trường hợp cụ thể này, chỉ là sự ăn bám trong
một phạm vi rất rất nhỏ cái vinh quang của người khác, song
hiện tượng nhỏ này cũng đủ bóc trần một căn bệnh trầm
kha của xã hội. Nó cho thấy đất nước đang bị kìm hãm, bị làm
hỏng mọi mặt từng li từng tí một và bất cứ ở đâu. Nói chi
đến cuộc sống đất nước hiện nay có không biết bao nhiêu sự
ăn bám khiếp đảm hơn, dã man hơn nhiều…
Đành tự an ủi, mình nhận thêm
được một nhắn nhủ nữa từ đời: Loại bỏ nhầm lẫn
kiểu này thật không dễ…
Câu chuyện tivi nho nhỏ vừa kể
giúp tôi hiểu thêm chiều sâu của vấn đề: Rồi đây duy tân sẽ
phải đụng độ với những gì và với không biết những ai trong
mọi giai tầng xã hội – từ đỉnh cao chót vót đến tận gốc rễ
của thượng tầng kiến trúc xã hội nước ta…
Tóm lại, trên quan điểm đất nước
phải từ chỗ đứng hiện tại, thay đổi triệt để và toàn diện để
tìm đường đi tiếp, tôi thấy có đủ lý do nên dấy lên một
phong trào sâu rộng duy tân đất nước. Xây thì phải như thế!
Chắc chắn duy tân sẽ là một cuộc vận động gian khổ và phức
tạp.
I.2. Xin bộc bạch một ý nghĩ
nữa
Trong Bài 1 tôi viết:
“Dù với cái giá đau thương như
thế nào, chặng đường đất nước đã vượt qua được trong thế kỷ
trước là chặng đường hoàn thành sự nghiệp giành lại độc
lập thống nhất đất nước. Chặng đường tiếp theo đất nước
ta bây giờ phải thay đổi tất cả để từ nay bước vào có thể
đặt tên là chặng đường phát triển đổi đời đất nước,
đổi đời chính dân tộc Việt Nam ta, để nước ta sớm trở thành
một quốc gia phát triển, có vị thế xứng đáng với chính nó
trong thế giới hiện đại ngày nay. Gọi đấy là chặng
đường tiếp theo, hàm nghĩa dứt khoát là kế thừa,
sàng lọc, cải tạo, phát triển những gì đã làm được trong
chặng đường trước, để đưa đất nước bước vào chặng đường mới,
để đi tiếp.”
Trước khi quyết định chia sẻ với
bạn đọc mong muốn của mình việc nước ta nên lựa chọn kịch
bản chặng đường tiếp theo với nội dung như vừa
trình bày trên, tôi đã “rà soát” lại chính mình,
không phải một lần. Cuối cùng tôi khẳng định cho chính mình:
…Có lẽ không có một kịch bản khả dĩ xảy ra nào về sự vận
động của đất nước, từ cực tả nhất đến cực hữu nhất - với mọi
sắc thái khác nhau - là xa lạ đối với sự tưởng tượng của tôi
và tôi không thể hình dung được.
Đương nhiên, tôi vẫn một mực
lựa chọn cho đất nước mình kịch bản chặng đường tiếp theo.
Vì lẽ này, tôi ước mong một trào
lưu duy tân cho đất nước.
Tôi không nghĩ rằng kịch bản này
là êm dịu. Thậm chí tôi tin rằng nó rất gian truân và có thể
cũng rất đau đớn. Nhưng tôi hy vọng nó tiết kiệm hơn
mồ hôi xương máu cho dân tộc. Nhưng điều quan trọng nhất,
tôi tin rằng kịch bản này sẽ từng bước gặt hái được những
thành tựu chắc chắn; càng thu hoạch được nhiều thành tựu
vững chắc, đất nước sẽ càng phát triển, sẽ càng đẩy ra xa
mãi nguy cơ phải xóa đi làm lại từ đầu theo kiểu cách
mạng hoa lan hoa nhài!
Ai muốn gọi kịch bản chặng
đường tiếp theo – kịch bản duy tân đất nước như vậy
là diễn biến hòa bình – không sai. Nhưng theo tôi, đây là
diễn biến hòa bình đáng mong muốn, ít nhất là tôi mong muốn,
nó chẳng liên quan gì đến cái diễn biến hòa bình được nhập
khẩu.
Trên mạng, tôi nhận được khá
nhiều ý kiến phê phán gay gắt việc tôi lựa chọn kịch
bản chặng đường tiếp theo (đã được nêu trong Bài 1).
Người lời lẽ ôn hòa nhất nói: Tôi ảo tưởng, mong con người
vượt qua được cái bóng của mình. Người khác nói: Tôi quỳ
xuống cầu xin quyền lực trở thành bồ tát. Không ít người có
lời lẽ còn thậm tệ hơn nhiều lần – ngay cả trong đám bạn bè
đồng tuế đồng học của tôi…
Nhưng ngồi viết Bài 2 này, tôi
vẫn kiên định với cách nhìn và sự lựa chọn của mình.
Có thể vì tôi sợ cái chết chóc –
một tâm lý của một người tuổi “U80” có tới hơn 40 năm trong
cuộc đời mình (1946-1989) trực tiếp trải qua hay tiếp xúc
với chiến tranh trên tổ quốc mình!.. Nghĩ về tôi như vậy
không oan.
Tôi tôn trọng các phản ứng tự
nhiên và sự khác biệt chân thực của mọi người đối với suy
nghĩ của mình. Nhưng tôi kiên định cách nhìn và sự lựa chọn
của mình. Bởi vì đấy là cách nhìn và sự lựa chọn của tôi,
được chắt lọc ra từ những gì tôi trải nghiệm, những gì tôi
quan sát được trên cuộc đời này. Đúng hay sai là chuyện phán
xét của cuộc sống. Về phần mình, tôi không đánh giá cao bất
kỳ “sự thông minh” nào theo kiểu cứ vẽ
hay phán cho thỏa thích (thỏa cái gì đó thì
còn tùy người), còn không quan tâm đến việc đất nước có thể
chịu hệ quả gì, sẽ rơi vào thảm họa ra sao.
Sự sụp đổ của các nước Liên Xô
Đông Âu cũ là một cuộc xóa đi tất cả làm lại từ đầu,
sự phát triển tiếp theo cơ bản là trong hòa bình, trước hết
bởi vì chỉ có những quốc gia này mới có tất cả những điều
kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị (và môi trường thế
giới nữa) để vươn tới sự phát triển tiếp theo cơ bản trong
hòa bình như vậy. Có lẽ trừ Cộng Hòa Dân Chủ Đức trước kia
bây giờ là một bộ phận hữu cơ của Cộng Hòa Liên Bang Đức
ngày nay, tất cả các nước LXĐÂ cũ còn lại cho đến ngày hôm
nay – trên 20 năm rồi – vẫn đang phải xây dựng tiếp thể chế
dân chủ của mình; riêng tại các nước thuộc Liên Xô cũ tiến
trình này còn dài và gian khổ hơn nhiều, cá biệt vẫn có nơi
có chỗ chưa thực sự có ổn định.
Tại Iraq và Afghanistan dân chủ
được bưng đến tận tay người dân. Nhưng cho đến hôm nay, tại
cả 2 nước này máu vẫn đổ và người dân làm gì có dân chủ và
hòa bình? Tình hình Sy-ri đang nóng bỏng không kém… Ai-cập
sau Mubarak và Ly-bi sau Kadhafi còn cả một chặng đường vô
cùng hiểm nghèo và gian truân phía trước. Cầu mong cho 2
quốc gia này không phải tốn thêm nhiều máu nữa cho tương lai
của mình bằng cách lựa chọn con đường đoàn kết hòa hợp hòa
giải dân tộc… Xin đừng bao giờ quên, con đường dẫn đến
Mubarak và Kadhafi lúc đầu cũng là một dạng con đường cách
mạng nào đấy. Lùi nữa vào lịch sử, trong Bài 1 tôi đã nêu
nhận thức của mình về các cuộc cách mạng đã diễn ra tại các
quốc gia trên trái đất này.
Thế còn Việt Nam?
Tôi đã nêu suy nghĩ của mình
trong Bài 1 cũng như tại đây. Đến lượt bạn đọc tự nêu suy
nghĩ của các bạn, xin mời. Tôi chỉ có thể nói trước: Tôi
kiên định.
Vâng, tôi kiên định tới mức không
loại trừ rằng khát vọng duy tân này vì những lý do nào đấy
có thể thất bại hoặc sẽ bị đàn áp, giập tắt.., như đã từng
xảy ra ngay trong lịch sử nước ta, và cả trong lịch sử nhiều
nước khác... Không thiếu lý do và sự kiện cho phép hình dung
một kết cục như vậy.
Tôi hiểu chứ. Ngay trong đời sống
báo chí hàng ngày hiện nay, một bài báo nho nhỏ, có hơi
hướng lề trái một tí, cũng phải chịu tới dăm bảy cú
điện thoại, rồi phải rút bỏ. Một IDS bé tí teo cũng phải
loại bằng được! Cho đến nay có không biết bao nhiêu kiến
nghị đúng đắn của giới trí thức về những vấn đề trọng đại
của đất nước bị bỏ ngoài tai… Nói gì đến chuyện duy tân to
tát!?.. Vân vân…
Song tôi vẫn mong rằng cả nước
không phân biệt ai, người dân và người cầm quyền, hãy nên
chủ động dồn sức cùng nhau nghĩ, xây dựng và thực hiện
kịch bản duy tân đất nước, làm cho những tư tưởng
của duy tân trở thành dòng tư tưởng mạnh mẽ trong xã hội
nước ta, thành những giá trị đáng khao khát, thành động lực
tinh thần của xã hội, thành hành động của xã hội. Hãy khởi
sự bằng việc tất cả trấn tĩnh lại, cùng nhau suy nghĩ như
thế! Người dân và người cầm quyền! Chỉ riêng việc tao ra
được sự hiệp lực với nhau suy nghĩ như vậy của cả nước, của
toàn dân tộc cho một ý tưởng như thế, đã có thể tự nó là một
thắng lợi mở đường cho một triển vọng tốt đẹp của đất nước,
của dân tộc. Duy tân như thế là ngay từ đầu đánh thức cái
tâm, cái thiện trong mỗi người, chủ động tránh mọi đổ vỡ,
tranh thủ mọi thuận lợi để cải cách, để phát triển. Đấy,
theo tôi, chính là con đường tối ưu nhất cần lựa chọn. Hay
là có thể vì Phật Thích Ca đã chiếm được một phần trong trái
tim tôi, nên tôi còn quá tin, hay chưa mất hết lòng tin vào
con người?!..
Tôi nghĩ đến Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam (MTTQVN) là người và cũng là pháp nhân thích hợp
nhất trong chế độ chính trị và tình hình pháp lý hiện nay
của đất nước. MTTQVN có đầy đủ năng lực và chính danh đứng
ra vận động trí tuệ và tâm huyết cả nước xây dựng và thực
hiện một phong trào duy tân như thế. Có thể gắn sự vận động
này với những vận động tham gia thiết thực của toàn dân
chung tay tháo gỡ những khó khăn và sớm đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế.
Làm được như vậy, vừa thay đổi
hẳn không khí nặng nề do mất niềm tin hiện nay trong mối
quan hệ giữa dân và thể chế chính trị, vừa tạo ra một hào
khí mới, cổ xúy cho cái mới, cái tốt. Chống tham nhũng và
mọi tiêu cực trong xã hội có hiệu quả nhất có lẽ cần bắt đầu
từ phía “xây” như thế, trước hết là tạo ra
công khai minh bạch để cổ xúy cho cái đúng, cái xây, cái
tích cực. Bắt tay vào sự nghiệp duy tân này, cả nước sẽ có
một khí thế mới hào hùng vì đất nước, đồng thời Việt Nam
ngay lập tức sẽ được sự cổ xúy của toàn thế giới tiến bộ, vị
thế quốc tế của đất nước sẽ được cải thiện mạnh mẽ. Xin
nói ngay, chắc chắn các nước phát triển trên thế giới kể từ
Mỹ trở đi, và cùng với họ là cả trào lưu tiến bộ rộng rãi
trên thế giới nữa, trong bàn cờ thế giới hiện nay tất cả đều
không ai muốn có một kịch bản “hoa lan hoa nhài” ở Việt Nam.
Dẫn chứng là họ có nhiều quan điểm “vênh” với xử sự của ta
trong nhiều chuyện, song tất cả đang tìm cách nâng cao quan
hệ với nước ta, mong muốn nước ta ổn định và tiếp tục phát
triển.
Đương nhiên, điều kiện tiên quyết
cho một kịch bản duy tân như thế là - xin mượn câu nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
– “Phải để cho người
dân mở mồm ra nói!”, phải có tự do báo chí, phải có
dân chủ, phải thực hiện công khai minh bạch.
Xin hỏi: Còn việc nào đáng làm
hơn nữa đối với MTTQVN?
Xin kể lại một chuyện cũ. Hà Nội
những năm tháng trước cách mạng Tháng Tám về nhiều mặt là
một cuộc sống lay lứt, chán trường, mất phương hướng; có
những mặt lam lũ, có những mặt bê tha trụy lạc ghê gớm (một
Hà Nội của lừa đảo, cờ bạc, nghiện hút, nhà thổ, cô đầu, của
tim la – [bệnh giang mai]…).., một Hà Nội vật vờ! Tình cảnh
này dễ hiểu vì chiến tranh (chiến tranh thế giới II đã lan
đến nước ta), vì nạn đói ở miền Bắc lúc đó, Nhật đến chiếm
đóng và làm đảo chính hất Pháp… Thế nhưng ngay những ngày
sau Cách Mạng Tháng Tám là một không khí khác hẳn ở hà Nội.
Một trong các yếu tố trực tiếp và sớm nhất góp phần tạo ra
sức sống mới lúc ấy là phong trào “Khỏe vì nước!”,
do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng.
Phải, hầu như mọi việc sau những
ngày cướp chính quyền bắt đầu từ Khỏe vì nước.
Có thể nói, sáng sớm hay chiều chiều rất nhiều đường phố,
công viên trở thành các bãi tập thể dục, tập võ cho cả Hà
Nội. Già trẻ lớn bé ganh đua nhau tập tành. Song phong trào
Khỏe vì nước này đã mở đầu và kéo theo một
phong trào khác lớn hơn chính nó rất nhiều. Đó là cả một
phong trào rộng lớn cổ xúy cho nếp sống lành mạnh, văn minh,
trung thực, đoàn kết, hòa đồng và hiệp đồng cùng nhau trong
xã hội – cái tên gọi chung lúc ấy cho sự vận động này là
thực hiện đời sống mới. Dân trong phố bắt đầu
gặp gỡ nhau, chan hòa (trước kia không thế), cùng nhau tự
làm, tự lo liệu việc này việc nọ cho phố xá mình mà chẳng
phải có bàn tay nào của chính quyền (lúc này đúng là nhân
dân tự quản toàn diện, bàn tay của chính quyền nếu có muốn
có cũng không đào đâu ra), trộm cắp và mọi tệ nạn biến mất.
Xã hội dân sự là như thế, vốn xã hội quả là có những khả
năng khó đánh giá hết. Một nếp sống mới trong xã hội thực sự
hình thành. Thực dân Pháp lúc này đã lăm le quay lại. Hà Nội
cùng với cả nước sôi sục các phong trào yêu nước: vào tự vệ,
tự trang bị vũ khí, quyên vàng cứu nước, đục tường nhà nọ
thông sang nhà kia để hình thành các tuyến, các phố cho sẵn
sàng chiến đấu…
Nếu như ngày nay, làm cho toàn
dân ý thức được tính hình và mọi thách thức đang đặt ra đối
với đất nước, nếu như có được một phong trào duy tân với hào
khí như phong trào Khỏe vì nước năm nào!..
Chế độ chính trị của nước ta bây
giờ, những người đang giữ vai trò cầm quyền đất nước bây
giờ, từng đảng viên và toàn thể Đảng cộng Sản Việt Nam bây
giờ có đủ bản lĩnh và nghị lực, trước hết là có đủ cái tâm
và ý chí, làm nên một phong trào duy tân đáng mong mỏi như
thế? Không một ai trong thâm tâm có thể trốn tránh nổi câu
hỏi này, dù muốn. Trong thâm tâm mỗi người cũng tự biết, trả
lời như thế nào thì chính mình là thế nấy. Không ai tự chạy
trốn được chính mình đâu.
Hôm nay, viết những dòng này,
trong tâm khảm tôi vẫn vang lên lời ca hào hùng năm xưa: “Khỏe
vì nước kiến thiết quốc gia, nào thanh niên ta góp tài ba…”
Xây dựng nên một cao trào duy tân
như vậy, có nghĩa là phải tạo ra được một cái đích mà trước
sau dân tộc ta nhất định sẽ hướng tới. Cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước bây giờ và về sau! Cái đích ấy
là gì, duy tân phải xác định cho đúng, xác định có sức
thuyết phục, làm cho cái đích ấy là của cả dân tộc, trở
thành cái đích và lẽ sống của từng người con trong cộng đồng
dân tộc này. Bảo vệ đất nước cũng trước hết phải như vậy.
Việc xây dựng và xác định một
cái đích như thế trong tình hình đất nước hiện nay không thể
là sản phẩm của một bộ não kiệt xuất nào đó, càng không thể
là một thứ gì đó “copy” vào – dù có cái tên là chủ nghĩa xã
hội hay định hướng xã hội chủ nghĩa. Một cái đích như thế,
chỉ có thể được tích tụ và hình thành từ khát vọng của dân.
Nhiệm vụ của trí tuệ và lòng yêu nước là phải tinh túy được
cái khát vọng ấy của người dân thành cái đích chung như thế
của cả dân tộc, trở thành cái cốt lõi của dân chủ cho nước
ta, nhất là đúng với tinh thần người dân là chủ của đất
nước.
Trong Di chúc của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tinh túy được khát vọng ấy thành cái đích:
Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
dân chủ và giàu mạnh. Cái đích chính đáng ấy đã và đang
bị rất nhiều sai trái, tiêu cực, tệ nạn quan liêu tham
nhũng, và cả dốt nát nữa làm cho mờ đi trong quá trình tha
hóa đang diễn ra trên đất nước ngày nay, đảy ra xa mãi người
dân, xa đất nước, xa dân tộc… Thậm chí cái đích đúng đắn ấy
được sáng tạo thêm những cái đích mới: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã
hội là sự lựa chọn của dân tộc.., nhưng lại trong một
bối cảnh kinh tế - xã hội – văn hóa của đất nước ngày càng
mang nhiều cái hoang dã của thời thời kỳ tích tụ tư bản ban
đầu. Rút cuộc, cái đích do Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết nên
ấy, chưa trở thành mục tiêu trung tâm bất di bất dịch và bất
khả xâm phạm đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Và chính
điều này làm cho nó chưa thu hút được toàn bộ tâm trí và
nghị lực của đất nước, lấy đi của nó bao nhiêu ý nghĩa
thiêng liêng, gây ra tâm lý hoài nghi trầm trọng trong nhân
dân.
Có lẽ vì thế, nên đã phải sáng
tạo ra cái định hướng xã hội chủ nghĩa rất co giãn để
thích nghi với những hiện tượng khó mà “khớp” với chủ nghĩa
xã hội? - một bước lùi hay là một sự khôn ngoan tương
tự như các nhà lý luận Trung quốc từng làm: Chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc. Đôi ba lần tôi đã có dịp thử
phân tích thực chất cái chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc này là gì[3].
Trong thực tế, cái quốc gia theo chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc ấy đang gây ra cho nước ta không ít mối uy
hiếp rất đặc sắc Trung Quốc...
Thế nhưng trong nhiều bài giảng
và giáo trình của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, trong không ít phát biểu
của những lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước… có sự khẳng
định dứt khoát như dao chém cột: Việt Nam kiên trì con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội… Xã hội loài người nhất định sẽ
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cái đích xây dựng một Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh dù
bây giờ chỉ còn tồn tại gần như là một khẩu hiệu như
thế, song vẫn chưa được yên thân. Khẩu hiệu này đang
bị những gì diễn ra trong cuộc sống hàng ngày trên đất nước
tiếp tục tước bỏ dần sự thiêng liêng còn lại của nó. Tìm
được những quyết sách, những chủ trương lớn bám sát được cái
đích Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết nên như thế quả là hiếm.
Những sai trái lớn, nghiêm trọng trong kinh tế, chính trị,
ngoại giao, văn hóa, xã hội đi ngược lại cái đích như thế
không hiếm! Trong tình trạng xã hội đang lâm vào một
cuộc khủng hoảng sâu sắc các giá trị như hiện nay (đã trình
bầy trong Bài 1) – kịch bản duy tân đất nước
phải làm sao xác lập nên được một cái đích tiêu biểu cho
khát vọng đích thực và thiết thực của dân tộc thật không dễ.
Tôi không có đủ tư cách, trí tuệ
cần thiết cũng không có nốt, để lúc này phác thảo ra một cái
đích như thế. Vậy xin khuyến nghị mọi trí tuệ và tâm huyết
cùng nhau động não suy nghĩ việc hệ trọng này. Hơn bao giờ
hết, cả dân tộc lúc này cần hội tụ lại triệu người như một,
tạo ra ý chí, ra sức mạnh thực hiện cái đích mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đúc kết nên trong Di chúc của Người. Viết cái gì
cụ thể ra bây giờ để thôi thúc, để tạo ra ý chí và sức
mạnh hành động thực hiện cái đích như thế, cần lắm. Hay
là có thể còn một cách gì khác nữa làm sống động cái đích
này?..
Không có cái đích làm động lực
như thế, không trải qua con đường duy tân đất
nước, mà cố ý hay sơ xuất để xảy ra bất khả kháng đất nước
rơi vào đổ vỡ, kể cả kịch bản xóa đi làm lại từ đầu, chắc
chắn sẽ đẩy đất nước rơi sâu vào thảm họa, sẽ tụt hậu nữa.
Mà như thế, thật chưa biết đất nước lại phải tìm đường ngoi
ra như thế nào. Đất nước trong hoàn cảnh như thế, chắc gì
thoát khỏi số phận con kiến mà leo cành đa..? Trong
khi đó thế giới thì chỉ tiến về phía trước, không biết chờ.
Không có một nỗ lực duy tân sâu
rộng và triệt để, chắc chắn cái tha hóa sẽ lấn tới và càng
trở nên ác tính hơn (acute), là sự chuẩn bị vô ý thức cho
cái đổ vỡ. Xin nhấn mạnh, vào thời khắc nhạy cảm hiện nay
của đất nước, theo tôi, càng phải chủ động dấy lên một phong
trào duy tân như thế, chứ không phải bàn lùi.
Trải qua kịch bản duy tân
của toàn dân tộc đáng mong muốn như trình bày trên, thành
công thì thật là toại nguyện và phúc đức cho dân tộc. Nhưng
cứ giả định là vì lý do nào đấy nó bị thất bại, thì chí ít
kịch bản duy tân bị đè bẹp này cũng có thể là
nền móng, là định hướng, là sự chuẩn bị nhất thiết phải có
trước, trước khi tình huống bất khả kháng xảy ra cho đất
nước một kịch bản tiếp theo nào khác.
Cứ giả thử là bị đè bẹp, một
cuộc duy tân bị bóp chết như thế sẽ lại một lần nữa
trong lịch sử thôi thúc đất nước bóc toạc mọi dối trá. Đất
nước sẽ đứng dạy phân định dứt khoát ai là ai?,
phân định trận tuyến đến lúc đòi hỏi phải phân định cho
những quyết định mới của dân tộc. Một sự vạch trần và phân
định dứt khoát như thế, đến lúc nào đó trong một hoàn cảnh
nào đó sẽ là cần thiết, là không thể tránh được.
Cho nên, con đường duy tân như
thế có thể tiết kiệm xương máu và thời gian cho đất nước,
tránh được từ trước những quanh co, hẫng hụt không đáng có,
trước khi kịch bản tiếp theo bất khả kháng phải nổ ra. Đơn
giản là thế này: sự nổi dạy khi bất khả kháng phải xảy ra
của một nhân dân được trang bị trí tuệ, sẽ khác rất nhiều sự
nổi dạy của một nhân dân với động lực là sự bức xúc của
tâm lý số đông (tôi tránh dùng cái tên gọi “tâm lý
bày đàn”). Nói cách khác, kể cả với khả năng xảy ra kết
cục xấu nhất, một phong trào duy tân như thế có thể được coi
là một dạng học phí trả trước, trước khi đất
nước bất khả kháng phải bước vào thử thách quyết liệt tiếp
theo.
Không ai “bói” đúng được bước đi
của cuộc sống. Ý kiến của tôi cũng chỉ là một ý kiến để tham
khảo, lựa chọn. Không loại trừ cuộc sống có thể còn có các
bản đồ và lộ trình khác.
Lại nữa, lịch sử đất nước có một
giai đoạn chuyển thời rất đáng để chúng ta ngày nay ngẫm
nghĩ, học hỏi. Đó là sự chuyển hóa hòa bình thành công từ
triều Lý lúc suy tàn sang triều đại nhà Trần huy hoàng – một
thiên sử sáng chói mãi mãi trong lịch sử dân tộc ta. Hòa
bình ở đây được hiểu với nghĩa tiết kiệm xương máu nhất, nhà
Trần không cần phải tiến hành chiến tranh giành quyền từ tay
nhà Lý. Hòa bình ở đây được hiểu là kế thừa tốt nhất mọi
thành quả của nhà Lý, phát huy tốt nhất những thành quả này
trong thời Trần kế theo.
Đương nhiên ở đây phải đánh giá
cao vai trò cá nhân mang tính khởi xướng, hoạch địch và hành
động quyết định của Trần Thủ Độ. Xin phép tạm đặt tên là
bài học Trần Thủ Độ cho dễ nhớ.
Có lẽ đây là cuộc chuyển hóa hòa
bình duy nhất thành công rực rỡ trong lịch sử nước ta từ
triều đại vua này sang triều đại vua khác, khẳng định rõ
ràng đã từng có một con đường, một công cuộc chuyển hóa hòa
bình như thế. Chẳng lẽ bài học thành công này không có ý
nghĩa gì đối với đất nước ta hôm nay?- giữa lúc đất nước bất
khả kháng đứng trước bước ngoặt phải chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới hoàn toàn khác trước! Rõ ràng
kịch bản duy tân cần học hỏi bài học này, học hỏi
trí tuệ của nhân loại hôm nay, để thành công như thời Trần
đã từng thành công. Những người đang nắm giữ vận mệnh đất
nước trong tay nghĩ gì về bài học Trần Thủ Độ?
Đầu óc tôi có lẽ đủ thực tế để
hiểu rằng trong những điều kiện của hệ thống chính trị - xã
hội nước ta như hiện nay, không thể chờ đợi xuất hiện một
minh quân. Trong bài
Việt Nam và vấn đề sử dụng người tài trong giai đoạn hiện
nay (Tạp chí Thời đại mới, số 22, xuất
bản tháng 7-2011), tôi đã chứng minh: Tệ hại của tiêu cực,
hệ quả của hiện tượng đảng hóa, cả hai thứ này
luôn luôn có bản năng đố kị và thải loại hiền tài.
Tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Nếu
không sao tìm được một minh quân lúc này, thì kịch bản
duy tân có thể thúc đẩy mọi cố gắng của cả nước tạo
ra một Trần Thủ Độ tập thể được không?” ngay từ những tâm
huyết trong hàng ngũ cầm quyền, từ những tinh hoa trong dân
tộc.
Hay là tạo ra trong toàn dân một
chí hướng tìm tòi sự chuyển hóa hòa bình theo bài học Trần
Thủ Độ, được vận dụng một cách sáng tạo? Được không?
Tôi tin rằng cái thiện và trí tuệ
trong lòng đất nước hiện nay vẫn đủ sức làm nên một Trần Thủ
Độ tập thể hay một chí hướng Trần Thủ Độ như thế. Rất cần
đánh thức và hội tụ cái thiện và trí tuệ ấy, trước hết làm
cho cái thiện và trí tuệ ấy vượt qua được nỗi sợ của chính
nó, đứng lên thực hiện trách nhiệm của nó.
Cho nên nhìn về mọi phương diện,
giả thử nếu không thành công mà lại bị giập tắt, ít nhất
kịch bản duy tân đất nước cũng là một chặng đường
nên trải qua, trước khi tình hình bất khả kháng xảy ra kịch
bản nào khác tiếp theo. Nói một cách khái quát hơn nữa: Vận
động là quy luật, là bản chất của cuộc sống; câu chuyện còn
lại là kịch bản duy tân này phải dẫn dắt sự
vận đông này đi qua chặng đường nào – chứ không phải kìm hãm
sự vận động này – sao cho có lợi nhất, tối ưu nhất, với cái
giá phải trả thấp nhất trong bối cảnh trong, ngoài hiện nay
của đất nước cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong Bài 1 tôi đã lưu ý: Thực sự
đang có cuộc chạy đua quyết liệt về thời gian giữa một bên
là sự phát triển của đất nước và một bên là sự tích tụ trong
lòng xã hội nước ta những mâu thuẫn đối kháng có thể dẫn đến
“mùa hoa lan, hoa nhài”. 70 năm Liên Xô còn đổ… Cũng
trong Bài 1, tôi thầm lo về cuộc chạy đua này, thâm tâm cầu
mong phát triển sẽ thắng cuộc, mong muốn sẽ không xảy ra
tình hình bất khả kháng dẫn tới các “mùa hoa” này nọ.
Mà nếu phải xảy ra các “mùa hoa” này nọ , mong sao là
với cái giá phải trả rẻ nhất (chứ không phải là rẻ - vì
chuyện này không có được) cho đất nước, cho dân tộc. Cần
phải có duy tân là vì vậy.
Nói đến đây, tôi phải thừa nhận
cuộc sống đất nước đang tồn tại một sự thật, một tình thế
tiến thoái lưỡng nan (một dilemma). Đó là tình trạng
giữa một bên là quyền lực thường không biết lẽ phải, bên kia
là những hệ quả không thể tránh được của “các mùa hoa
lan hoa nhài”. Kịch bản duy tân đất nước
không thể có chỗ đứng trong bất cứ bên nào ở đây cả. Làm sao
bây giờ?
Giải quyết “dilemma” này như thế
nào? – thiết nghĩ từng người con của đất nước đang nợ câu
trả lời. Phần tôi cũng vậy.
Hướng của câu trả lời tôi đang
theo đuổi trước sau vẫn là kịch bản phát triển đất nước của
con đường tiếp theo (hàm nghĩa không xóa đi
làm lại từ đầu), kinh qua duy tân thay đổi và chấn hưng đất
nước theo tinh thần và hào khí như cụ Phan một thời đã dấy
lên.
Sự thực đang tồn tại một tâm lý “sợ”
trong cả hai phía: người dân và người cầm quyền. Dân thì sợ
bị đàn áp, người cầm quyền thì sợ tuột tay để xảy ra tình
hình bị lật đổ. Bài 1 tôi đã trình bày: Dân được giác
ngộ, nhất định dân sẽ không sợ. Người cầm quyền lo cho dậu
không đổ thì cũng không phải sợ bìm leo! Nhất thiết
phải khắc phục bằng được cái tâm lý “sợ”, để
cả hai phía không tự mình tước đi nhuệ khí của mình phấn đấu
cho cái tốt, cho duy tân vì sự nghiệp quốc gia.
Người cầm quyền nếu vì dân vì
nước mà không lo giữ cho dậu khỏi đổ thì làm gì? Nói mà
không làm nổi là bất cập, nói mà không làm là nói dối, nói
mà làm khác, là lừa đảo - mà như thế câu chuyện trở nên hoàn
toàn khác mất rồi. Để cho tha hóa leo thang hoành hành nữa,
nguy cơ đổ vỡ sao tránh được? Vậy sự lựa chọn của người cầm
quyền nên là đừng để cho cái “sợ” này của mình biến tướng
thành thụ động đối kháng, là kiên quyết vượt qua cái “sợ”
của mình để cải cách sâu rộng kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa của đất nước, để chặn lại và đảo ngược xu thế tha
hóa.
Nội dung đích thực của keo vật
thời đoạn này của toàn dân tộc ta, theo tôi, không phải là
đập phá, mà phải là dũng cảm vượt qua nỗi sợ của chính mình,
dám đối mặt với quan liêu tham nhũng, quyết đẩy lùi tha hóa
- kể cả tha hóa của chính mình, trau giồi cái tiên tiến,
học hỏi cái mới và xả thân vì nó.
Khát vọng và sức mạnh của dân
tộc, xu thế chủ đạo trên thế giới mong muốn có một Việt Nam
giàu mạnh và phát triển cùng dấn thân với cả cộng đồng quốc
tế tiến bộ, đấy chính là những yếu tố vô cùng quan trọng cho
phép nhân dân ta thành công. Không làm được như vậy, nguy cơ
nước ta phải chịu nô dịch một lần nữa là hiện hữu – nô dịch
kiểu mới. Hiện nay đất nước đã lâm vào sự lệ thuộc ở mức
nguy hiểm.
Ngay trong khi tôi đang viết
những dòng này (tuần lễ thứ nhất và thứ 2 của tháng 10 –
2011), Thủ tướng Chính phủ đã đặt vấn đề phải xây dựng Luật
biểu tình. Tôi muốn bình ngay rằng, nếu không có các cuộc
biểu tình yêu nước bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia trong những tháng 7 và 8 vừa qua ở Hà Nội và Thành
phố Hồ chí Minh, có lẽ vấn đề này chưa được đặt ra (còn Luật
này sẽ là gì thì cần phấn đấu tiếp, chờ đợi và bàn luận
sau). Cũng thời gian này, hiển nhiên các cuộc đi thăm nước
ngoài của Chủ tịch Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng rõ ràng nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo thuận
lợi cho chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng. Những sự kiện cụ thể như thế là những ví dụ hé ra
triển vọng và không gian hoạt động của kịch bản duy
tân đất nước, nếu cả nước dấn thân thực hiện.
Vâng, cái khó nhất là làm
thế nào? để nhân dân đứng lên tự giải phóng! Tôi
mong được thảo luận rộng rãi để cùng nhau tìm câu trả lời.
Khoảng hai năm nay liên tục,
trong điều kiện có thể của mình, qua các cuộc tiếp xúc và
một số hội thảo, tôi đã làm một cuộc thăm dò ý kiến theo
cách của mình và được kết quả: Lý tưởng nhất trong hoàn
cảnh đất nước hiện nay là ĐCSVN nhận thức được vấn đề và tự
đứng lên trước, khởi xướng công cuộc duy tân này. Có thể
nói đó là nguyện vọng của nhiều người dân ở mọi tầng lớp
khác nhau. Ngay trong 3 kiến nghị gần đây nhất về những vấn
đề trọng đại của đất nước, cộng đồng trí thức trong nước và
đang sống ở nước ngoài gửi Quốc hội Việt Nam và Bộ Chính trị
ĐCSVN, cũng toát lên ý ĐCSVN phải đứng lên trước, và còn
nhấn mạnh đó là trách nhiệm phải làm của ĐCSVN. Đó là sự
lựa chọn tối ưu cho đất nước và cho ĐCSVN. Lại câu
chuyện: Phải quay mặt về phía mặt trời để vượt lên cái bóng
của chính mình mà đi!
Như vậy, hy vọng tôi đã trình bày
có đầu đuôi cách nhìn và sự lựa chọn của tôi về một cao trào
duy tân đất nước.
II. Lịch sử nói
gì?
Việt Nam dưới triều đại Gia Long và Nhật dưới thời Minh Trị
Từ lâu, mỗi khi nghĩ về thân phận
hèn kém ngày nay của quốc gia và dân tộc mình, tôi băn khoăn
với không biết bao nhiêu câu hỏi “vì sao?”. Trong những
vì sao? không đếm xuể như sao trên trời ấy, cộm lên trên
tất cả vẫn là những câu hỏi về vận mệnh đất nước ta trong
thế giới ngày nay.
Đất nước ta không nhỏ, dân tộc ta
có cả một bề dày lịch sử và văn hóa dù chẳng phải là tuyệt
đỉnh nhân loại, nhưng hậu duệ như chúng ta ngày nay chẳng
đến nỗi phải hổ thẹn về tổ tiên và nguồn gốc của mình, kể cả
đối với những ai đó quá nguội lạnh và để quên đâu đó niềm tự
hào về cội nguồn. Đấy là chưa nói hậu duệ chúng ta ngày nay
có không ít thua kém tổ tiên mình trong
những giai đoạn tổ quốc đứng trước những thách thức quyết
liệt nhất, nợ các bậc tiền bối của mình về
không biết bao điều!
Một đất nước như thế, một dân tộc
như thế, vì sao đến hôm nay vẫn đứng trong
hàng ngũ các nước nghèo và lạc hậu trên thế giới?[4]
Bài 1 và trong một số bài viết khác tôi đã đưa ra những số
liệu so sánh nước ta đi như vừa qua là quá chậm so với thiên
hạ.
…Nhất là trong thế giới đương đại
ngày nay, chỉ tính từ sau chiến tranh thế giới II, ở cả 5
châu lục cộng lại, đã có tới hàng chục nước từ hoàn cảnh
tương tự như nước ta, nay đã vượt lên bỏ xa nước ta về trình
độ phát triển. Trong những nước này, một số đã đứng vào nhóm
các nước phát triển, một số đã tham gia tổ chức OECD
(Organization for Economic Cooperation and Development), một
số nước là thành viên của “G” nọ “G” kia có vai trò nổi bật
đối với sự phát triển của cả thế giới. … Vì sao?
Điểm lại, Việt Nam thời Gia Long
là một quốc gia phát triển hoàn chỉnh nhất trong lịch sử của
mình, và đấy cũng là diện mạo của nước ta ngày nay. Việt Nam
thời triều đại Gia Long có thể được coi là một nước mạnh
trong khu vực của lịch sử đương thời. Có lẽ ngoài Trung
Quốc giữ vị thế lịch sử là “thiên quốc”, thời ấy nước
ta nếu không phát triển hơn thì có lẽ cũng không thua kém
các quốc gia còn lại khác trong khu vực châu Á bao nhiêu.
Thế nhưng, sau khi triều đại Gia
Long củng cố vững chắc địa vị thống trị quốc gia của mình
khoảng hơn 5 thập kỷ, ở châu Á vào những năm 1866-1869 xuất
hiện cuộc cách mạng Thiên Hoàng Minh Trị[5],
đưa nước Nhật đi hẳn về một ngả khác, bỏ lại bơ vơ “Thiên
Quốc” mà Nhật đã từng chịu không ít ảnh hưởng, bỏ lại cả
châu Á lạc lõng phía sau - trong đó có nước ta.
Không thể không hỏi: Điều gì đã
làm nên sự khác biệt giữa Nhật và Việt Nam như giữa trần
gian và địa ngục thế này?
Không có nước nào giống nước nào
trên thế giới. Nhưng so sánh tương đối mọi mặt, sự khác biệt
giữa Việt Nam và Nhật đại thể không đến nỗi một trời một
vực. Nói theo ngôn ngữ cổ, từ khi vua Gia Long lên ngôi năm
1802 đến khoảng giữa đời vua Tự Đức (trị vì 1847- 1883)
(nghĩa là khi xảy ra cách mạng Thiên Hoàng Minh Trị
1866-1869), nếu hai nước không được kẻ tám lạng kẻ nửa
cân[6],
chí ít ta cũng được năm, sáu lạng hoặc nhỉnh hơn chút chút,
nghĩa là đều có sự phát triển kinh tế, chính trị và nội trị
- bao gồm cả văn hóa – na ná ngang nhau, có những vấn đề về
phát triển phải giải quyết trong đối nội và đối ngoại gần
như giống nhau.
Sử liệu mách bảo, cái mà lúc ấy
nước ta không có hoặc khác hẳn so với Nhật là ở những điểm:
-
Sức ép mở
mang thương mại của các nước “Tây dương” từ đầu thế kỷ XIX
(đặc biệt là cuộc tiến công của tầu chiến Mỹ do đô đốc
Perry chỉ huy bắn phá Yokohama 1853), có thể được coi như
làn sóng cuối cùng dẫn tới sụp đổ triều đại Mạc Phủ, mở
đường cho thời đại Thiên Hoàng Minh trị. Từ đây nước Nhật
được thúc đảy cải cách, nhằm phát triển mở mang kinh tế
theo con đường công nghiệp hóa. Trước đó, tại Nhật đã có
những làn sóng, lúc âm thầm, lúc dữ dội, thường xuyên xói
mòn mãi đến tận gốc rễ chế độ chính trị phong kiến Tống
Nho của Nhật. Đó là quá trình hình thành từng bước và liên
tục qua nhiều thế kỷ kinh tế đô thị của các tầng lớp trên,
thường trực tạo ra sức ép về văn hóa và tư tưởng.
Sức ép này chỉ rình chờ bắt lấy cơ hội thay đổi. Và khi cơ
hội đến, chính nó đã trở thành động lực của sự thay đổi
nước Nhật[7].
(Sức ép văn hóa tư tưởng này chính là điều đã bị triệt tận
gốc ở nước ta suốt triều đại các vua Nguyễn).
-
Nhật tranh
thủ điều kiện này mở rộng tầm nhìn ra toàn thế giới.
-
Từ đây Nhật
đặc biệt chú trọng cải cách giáo dục; đề cao học tập nhiều
cái mới, ứng dụng khoa học và công nghệ phương Tây, xây
dựng được một chính thể với mục tiêu duy nhất là tạo mọi
điều kiện cần thiết để phát triển nước Nhật.
Song cách phản ứng của
nước ta thời ấy là:
-
Bế quan tỏa
cảng, coi mở rộng thương mại với bên ngoài chỉ làm hỏng
đất nước. Các sứ thần của ta như Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh,
Phan Lương…đi các nơi về báo cáo nhà vua là các nước đều
làm khác, khuyên phải thay đổi, nhưng nhà vua đều cho là
không hợp, mặc dù suốt toàn bộ sự nghiệp thành vương của
mình Gia Long tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, không
chi riêng với nước Pháp; khoảng năm 1839 vua Minh Mạng đã
cho sứ bộ của mình đi một số nước châu Âu để nắm tình
hình... Đã thế, sử liệu còn cho thấy nhìn chung triều
đình chủ trương phó thác việc buôn bán cho Hoa kiều, Hoa
kiều hầu như đứng ngoài luật pháp...[8]
Không ít các trí giả như Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Điểu… đã từng đi du học phương Tây, đưa ra nhiều
kiến nghị cải cách, song tất thảy đều bị bỏ xó. Mọi điều
mới mẻ được tâu lên, các cận thần thường bác bỏ trước – vì
cho đấy là những gì “khác đời” và trái với đạo lý
và triết lý của triều đình, sau đó đến lượt nhà vua tán
thành các cận thần của mình. Không ít trường hợp nhà vua
trực tiếp bác bỏ cái mới. Thực tế này đã triệt bỏ mọi khả
năng canh tân của Việt Nam khi thách thức và thời cơ đến
(Georges Condominas)[9]
-
Thế giới và
thế giới quan của triều đình nước ta ở giai đoạn này chỉ
có Trung Quốc và là Trung Quốc, mặc dù triều đại Gia Long
ý thức rất rõ Trung Quốc như một mối nguy xâm lược thường
trực. Nho giáo và Khổng giáo không những được tiếp thu
nguyên vẹn mà còn được nâng lên thành nền tảng trí tuệ,
đạo lý và kỷ cương cho đất nước mình, thậm chí còn được
vận dụng là chất liệu cho tầm cao văn hóa nước nhà… Tất cả
chỉ để nuôi dưỡng lề thói cũ như một giường cột tinh thần
gìn giữ sơn hà xã tắc, thực chất chỉ là để gìn giữ triều
chính tồn tại. Có thể xem đấy là một dạng ý thức hệ nguy
hiểm, được nâng lên tới mức như lẽ sống, một quốc đạo của
triều đại này.
-
Giáo dục
chẳng những hầu như không đếm xỉa gì đến khoa học - công
nghệ, càng không quan tâm mở mang dân trí, tri thức, mà
chỉ tập trung vào dùi mài kinh sử làu làu theo kiểu trích
cú tầm chương (chủ yếu là Tứ thư Ngũ kinh, Sử Tàu…), với
mục tiêu duy nhất là đào tạo ra các tầng lớp quan lại giúp
vua cai trị đất nước. Nguồn lực quốc gia thực hiện mục
tiêu này chủ yếu lấy từ thuế đánh vào đất đai rất hạn chế,
đương nhiên với mọi hệ quả hủ bại của tình trạng một đất
nước kém phát triển; quan liêu tham nhũng tệ hại trở thành
tất yếu[10].
Kết quả hai nước gặt
hái được cũng hoàn toàn trái ngược nhau:
-
Nhật trở
thành nước đế quốc trong khoảng thời gian rất ngắn, chỉ
vài thập kỷ sau đã cùng nhiều đế quốc khác tham gia cuộc
chiến tranh nha phiến… Sau hơn 3 thập kỷ,
năm 1895, Nhật đã có chiến thắng đầu tiên chống Trung Quốc
và chiếm được Đài Loan, thập kỷ tiếp sau đó lại
chiến thắng đế quốc Nga Hoàng trong thủy chiến ở Hoàng Hải
năm 1905 giành được Mãn Châu; tháng 12-1941 – nghĩa là chỉ
sau 7 thập kỷ kể từ cách mạng Thiên Hoàng - Minh
Trị, Nhật đánh trận Chân Châu Cảng làm nước Mỹ bàng hoàng
và trở thành một đế quốc gây chiến tranh thế giới II…
-
Khi quân
Pháp nổ súng chiếm Đà Nẵng 1858, Việt Nam từ đỉnh cao của
triều đại Gia Long phải ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhượng
địa Nam Kỳ, rồi lần lần sau nhiều diễn biến khác, phải
gông trên người mình ách thuộc địa Pháp cho đến tận 1945,
với không biết bao nhiêu hệ lụy.
Những điều kiện địa lý tự nhiên
và tình hình thời sự mọi mặt thời đó trong khu vực châu Á
cho phép giả định là sức ép mở mang thương mại từ các nước
Tây Dương dội vào Nhật lúc bấy giờ đại thể cũng tương
đương như tác động vào nước ta. Chỉ có cách tiếp cận và sự
lựa chọn giải pháp cho thách thức của hai nước lúc đó khác
nhau.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hai
kết quả trái ngược nhau của hai nước có lẽ bắt đầu từ tầm
nhìn.
Nhận thức thế giới một cách khác,
Nhật đã mau chóng học hỏi và tự tạo ra cho mình động lực
mạnh mẽ đi vào con đường công nghiệp hóa, bắt kịp sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản và vươn lên rất nhanh. Trong khi
đó các triều đại vua Việt Nam thay nhau tự trói mình vào tầm
nhìn thủ cựu của chính mình để tự vệ, và qua đó tự biến mình
trở thành kẻ nô lệ của quá khứ, trước khi bị ngoại bang áp
đặt ách thuộc địa.
Rất nên có những công trình
nghiên cứu tìm hiểu kỹ thêm khía cạnh Việt Nam thời ấy đã
tự trói mình vào triết lý hủ bại để tự làm suy yếu mình,
trước khi Pháp có thể dốc ra lực lượng chưa hẳn là mạnh áp
đảo về mặt quân sự để khuất phục được Việt Nam thành thuộc
địa. Từ điểm này của lịch sử, nên chăng tự hỏi: Ngày nay ta
đang tự trói mình như thế nào?
Trước hết phải nói tới bộ máy
quan liêu cai quản đất nước ta quá bất cập của thời ấy, được
đào tạo ra trên cơ sở một thế giới quan lỗi thời và từ một
nền giáo dục lạc hậu như đã nói trên. (So với ngày nay thế
nào?) Ngoài việc xây dựng lăng tẩm, khó mà nói rằng các
vương triều thời đại Gia Long đã để lại tiến bộ mới nào đáng
kể về kinh tế, khoa học công nghệ, hay kết cấu hạ tầng của
đất nước… – giữa lúc thế giới phương Tây đã chuyển sang thời
kỳ công nghiệp hóa, và chủ nghĩa tư bản đang trên đường trở
thành chủ nghĩa đế quốc.
Trên cơ sở một nền kinh tế ngày
càng sa sút nhanh chóng do sự kìm hãm của bộ máy cai trị
quan liêu, và với triết lý quốc gia lấy Nho giáo - Khổng
giáo làm gốc như thế, đã hình thành một thượng tầng kiến
trúc “gia cố” không ngừng sự lạc hậu của đất nước, làm cho
đất nước ngày một nghèo đi và tích tụ những mâu thuẫn xã hội
mới. Sức ép thương mại từ bên ngoài và sự thâm nhập của công
giáo (được vận dụng là những hình thức mở đường cho chủ
nghĩa thực dân) làm cho nội trị đất nước phức tạp thêm, đồng
thời làm cho triều đình càng tự trói mình chặt hơn nữa, càng
bảo thủ lạc hậu để cố thủ; từ đó quan liêu gia tăng, mâu
thuẫn xã hội và loạn lạc ở các địa phương cũng gia tăng.
Cuối trào – kể từ Tự Đức, đất nước còn phải chịu thêm gánh
nặng loạn các “giặc cờ” (các nhóm giặc cờ đen, cờ vàng khác
nhau là tàn dư tan vỡ của cuộc cách mạng Thái bình thiên
quốc ở Trung Quốc).
Có thể nói, đến triều Tự Đức đất
nước thật sự kiệt quệ, mục nát, triển vọng để phát triển
không có, sức đề kháng không còn lại bao nhiêu. Chúng ta
trân trọng và tôn vinh ý chí hy sinh chiến đấu của Nguyễn
Tri Phương trong bảo vệ thành Hà Nội. Song cũng cần chú ý
một chi tiết của lịch sử thành Hà Nội bị hạ năm 1882 (thất
thủ lần thứ nhất), được viên lãnh sự Pháp tại Hà Nội thời đó
là Kergaradec báo cáo về nước, Tsuboi đã sưu tầm được và đưa
vào luận văn tiến sỹ của mình: “…188 thủy thủ hay binh
sĩ Pháp và 24 người châu Á, với chỉ 8 họng súng (đại bác hay
súng trường?- NT) đủ đánh chiếm một tỉnh thành được bảo vệ
bởi những lực lượng thiện chiến nhất của Việt Nam, từ Huế
ra, gồm 7000 người, dưới quyền lãnh đạo của viên tướng tài
nhất của họ..”[11].
Một số sử liệu chi tiết khác còn ghi, khi tướng Nguyễn Tri
Phương từ Huế ra đến nơi để giữ thành, nhiều súng thần công
đã hoen gỉ không dùng được, kỷ cương trong thành mục nát… Có
lẽ một chi tiết này cũng đủ cho chúng ta thấy tận bên trong
mọi hệ quả mọt luỗng sâu xa của một triều chính quốc gia tự
trói mình làm nô lệ quá khứ.
Trong phần nói về đình thần
– nghĩa là về các tầng lớp quan lại kế cận triều đình của
các vương triều thời Nguyễn, sử gia Trần Trọng Kim nhận xét:
Nhà vua cai trị đất nước qua đình thần nên hầu như xa rời
và không nắm được thực trạng đất nước; đình thần vừa bảo
thủ, tranh giành lẫn nhau về ảnh hưởng và quyền lợi, vừa rất
sợ những ai hơn mình, coi bất kể cái gì mới đều là không hợp
và có nguy cơ làm bộc lộ yếu kém của mình… Sử gia kết
luận đau sót: “Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ,
đã ra đánh Bắc, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư
khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì
bác đi. Như thế thì làm thế nào mà không hỏng việc được.”[12]
Còn sứ Pháp tại Huế P. Rheinart báo cáo về thống đốc Pháp ở
Nam Kỳ năm 1875 “…Con số những người muốn chống đối vì
mất độc lập công nhiên của đất nước Việt Nam sẽ rất nhỏ
không thể lôi cuốn nhân dân. Dân chúng biết là chẳng còn có
thể mất gì thêm nữa, sẽ chỉ có thể được lợi trong sự đổi
thay, bất kể đổi thay thế nào khỏi tình trạng hiện tại…”[13]
Tâm thế dân tình như vậy, làm sao nước không mất?!
Sự tranh giành diệt lẫn nhau
trong nội bộ đình thần rất quyết liệt, như xưa và nay
thường thấy ở bất kỳ một triều chính chuyên chế nào trên thế
giới – nghĩa là không có ngoại lệ. Càng mục nát càng tranh
giành nhau. Đỉnh cao của sự vận động này trong lịch sử các
triều vua Nguyễn theo các sử liệu Tsuboi sưu tầm được có lẽ
là sự việc nhân vật quan đại thần Trương Đăng Quế loại bỏ
các kình địch của mình, tự tay tiến hành âm mưu phế con cả
của vua Thiệu Trị là Hồng Bảo (An Phong), để đưa con thứ
của vua là Hồng Nhậm lên ngôi – vua Tự Đức. Hậu họa là đất
nước đã kém, nát, lại không bao giờ được yên do những chống
đối phát sinh sau đó.
Cuối đời, vua Tự Đức cũng tiến
hành một số thay đổi: cải cách thuế ruộng đất 1875, cải cách
quân đội 1876, cải cách thi cử 1879… Tsuboi nhận xét: “…Tuy
nhiên mọi cải cách đều hỏng chỉ vì bản thân chế độ không đặt
ra một vấn đề nào cho cả Tự Đức lẫn các quan; họ thấy chính
quyền của họ điều hành tồi tệ, nhưng họ không ngờ vực gì
hết đối với những khuôn phép Nho giáo đang là nền móng của
triều đại. Sự tin tưởng mù quáng của họ vào hệ thống đó đã
ngăn cản họ…”[14]
(người trích dẫn tô đậm). Một nhận xét nhức buốt còn nguyên
tính thời sự cho hôm nay.
Chỉ có thể kết luận: Chính vì sự
mù quáng này, chung cuộc Việt Nam mất nước vào tay thực dân
Pháp ở thời điểm Việt Nam phát triển hoàn chỉnh nhất trong
lịch sử của mình và là một nước mạnh trong khu vực. Đấy cũng
là cảm nghĩ chua xót của tôi khi ngồi vào bàn phím viết “Thời
cơ vàng – Hiểm họa đen” năm 2006.
Vì vậy vẫn chưa hết, vẫn nhoi
nhói các câu hỏi:
- Vì sao Nhật thời Minh Trị có
được cách nhìn khác, dẫn tới tầm nhìn khác và sự lựa
chọn khác, trong khi đó Việt Nam dưới triều đại các vua thời
Gia Long không có được?
- Vì sao Nhật thời Minh Trị thực
hiện được cái mà tầm nhìn mới mở ra cho họ, còn Việt Nam các
triều đại Gia Long cuối cùng cũng nhận ra phải cải cách
nhưng hoàn toàn bất lực?[15]
- Vân vân…
Sử gia Trần Trọng Kim còn ghi
chuyện này nữa: Nước sắp mất, triều đình ta còn cử sứ Phạm
Thận Duật sang cầu cứu nước Tàu, mà không biết là chính Tàu
lúc này ốc không mang nổi mình ốc, cho nên chỉ rước thêm hậu
họa. Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc ấy là Trương Thụ Thanh báo cáo
về Bắc Kinh: “Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà
thế lực nước Nam thật suy hèn, không có thể tự chủ được nữa,
vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh
thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh phía
Bắc sông Hồng Hà…”[16]
Chuyện ngày xưa là như vậy.
Tôi tin rằng kìm hãm kinh tế phát
triển qua việc bế quan tỏa cảng đã trực tiếp giữ Việt Nam
đứng lại trong chế độ phong kiến nông nghiệp lạc hậu. Song
có lẽ chưa đủ. Đến nay tôi thực sự chưa có câu trả lời nào
thuyết phục được chính mình về khúc quanh lịch sử này. Chắc
chắn còn phải có các yếu tố gì khác nữa sâu xa hơn thuộc
phạm trù văn hóa. Xin thỉnh cầu mọi người lý giải.
Trong hầu hết những bài tôi viết
gần đây có liên quan, tôi vẫn chưa giải thoát được mình khỏi
câu hỏi: Chẳng lẽ dân tộc ta chỉ thông minh dũng cảm, chỉ
cố kết được với nhau khi bị ngoại xâm, còn trong thời bình
thì…? Xin nói ngay, sự cố kết để tự vệ, để tồn
tại như thế, cho dù anh dũng đến thế nào đi nữa, vẫn là
dạng thấp hơn so với cố kết để phát triển và để từ đó tạo
ra văn hóa của phát triển của dân tộc, của quốc gia. Có phải
như vậy không? Tự nhận diện lại dân tộc mình và vai trò của
thể chế chính trị – rõ ràng là một vấn đề rất trọng đại của
kịch bản duy tân.
Ngoài đời phong phú những đàm
tiếu: Một người Việt Nam nếu không hơn, không bằng, không
hẳn thua một người Nhật; ba người Việt Nam thường thua một
người Nhật; ba người Việt Nam chắc chắn thua ba người
Nhật!..
Rồi đây, đàm tiếu hay không đàm
tiếu, duy tân hay không duy tân… sẽ có thể tranh luận nổ
trời với nhau. Song trước hết xin hãy để lịch sử là tấm
gương soi lại mình khởi đầu cho cuộc tranh luận này.
Cuối cùng, dựa vào sử, tôi muốn
đặt ra ở đây câu hỏi cũ kỹ đã bao nhiêu người đặt ra và vẫn
đang tìm câu trả lời: Có hay không nguy cơ đất nước ta
ngày nay lại lỡ hẹn với con tầu thời đại, như triều đại Gia
Long đã từng lỡ hẹn? Lịch sự gợi ý cho ta những gì?
III. Những hòn
đá tảng và hố đen trên con đường
Có nhiều lắm. Từ lịch sử để lại,
và từ những hậu quả do thể chế chính trị - kinh tế - xã hội
của đất nước hôm nay gây ra. Chẳng có cách nào khác, ngoài ý
chí nhìn thẳng vào sự thật và chân cứng đá mềm.
Không thể đề cập hết được mọi
chuyện trong bài viết này, dù là chỉ lựa chọn những vấn đề
lớn. Trong phần III này tôi chỉ xin lẩy ra 2 vấn đề mà tôi
cho là nóng bỏng nhất:
1. Quán tính lịch sử,
2. Tình trạng đoàn kết
dân tộc hôm nay.
III.1. Quán tính lịch sử
Đây là một trong những chủ đề
lớn, tôi đã đề cập đến trong tiểu thuyết “Dòng đời” - xuất
bản năm 2006[17]
Gọi là quán tính lịch sử,
tôi hiểu đơn giản đấy là những gì lạc hậu vốn có trong quá
khứ của đất nước, cách mạng đã tìm cách xóa bỏ hay thay đổi
rất triệt để. Nhưng vì nhiều lý do và nguyên nhân khác
nhau, hôm nay những cái cần và phải xếp vào kho lưu trữ của
lịch sử như thế cứ tự nó sống lại, hoành hành dữ dội, như
thể theo một chu kỳ nào đó của quán tính.
Cái quán tính lịch sử này
rất oái oăm và gây ra không ít đau khổ cho đất nước, đã được
dân ta bao đời dưới chế độ phong kiến khái quát trong một
câu ca dao cửa miệng:
Con vua thì lại làm vua
Con lão sãi chùa lại quét lá đa
Đơn giản là vì cái quán tính
lịch sử này thường đảo lộn hay băng hoại hầu hết mọi giá
trị hay những nỗ lực tốt đẹp của xã hội, mà trước đó nhân
dân và những lực lượng tinh túy của mình phải đổ xương máu
mới giành lại hay mới xây dựng nên được, ví dụ chiến đấu dẹp
bỏ một triều đại thối nát để dựng lên một triều đại lành
mạnh mới. Một khi cái quán tính lịch sử này trỗi dậy, có
nghĩa là một chu kỳ mới của cái vòng đời oái oăm đầy đau khổ
của đất nước lại bắt đầu…
Tôi vấp phải cái quán tính
lịch sử này, đơn giản vì ngày càng cảm thấy, đất nước
độc lập thống nhất vừa mới đây thôi, nghĩa là cả một quá khứ
hào hùng đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm còn nóng hổi,
biết bao nhiêu giá trị cao quý rèn luyện được trong quá
trình này còn đang nóng bỏng con tim, thế nhưng sao những
tiêu cực trong cuộc sống mọi mặt của đất nước hôm nay cứ như
cỏ dại khắp nơi không sao diệt được, càng ngày càng khó
diệt. Tất cả chẳng dính dáng gì đến chủ nghĩa xã hội hay
định hướng xã hội chủ nghĩa được chọn lựa là mục tiêu phấn
đấu.
Tôi nhờ các nhân vật trong truyện
làm người phát ngôn cho nỗi lo của mình:
…“...bi kịch lớn nhất của cuộc
đời ở mọi quốc gia thường là thắng lợi của một cuộc cách
mạng trở thành một thứ chiến lợi phẩm! Kẻ thắng xô sát nhau
chia quả thực! Ai nhặt được cái gì thì nhặt! Ai giành được
cái gì thì giành!..” (tập II).
“…tệ nạn tham nhũng... Sự bóc
lột này lớn hơn hàng trăm lần, hàng nghìn lần, hàng nhiều
nghìn lần so với sự bóc lột thặng dư giá trị còn đang tồn
tại trong xã hội nước ta...” (tập III). Tất yếu dẫn đến
câu hỏi “Đất nước này bây giờ là của ai?”
Hệ quả của những tiêu cực này lớn
lắm. “...30 năm xây dựng rồi mà vẫn chưa bước ra khỏi
nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới! Vẫn còn là một quốc gia
lạc hậu!..” “...Chẳng lẽ đã giành lại đất nước rồi,
bây giờ lại chịu để mất nước vào cái kiếp nô lệ của nghèo
hèn và lệ thuộc?..” (tập IV) Làm gì? Làm như thế nào
chặt đứt vĩnh viễn các vòng xoáy của quán tính lịch sử hành
hạ đất nước?..
Truyện kết thúc, vợ của nhân vật
chính nhắc nhủ chồng – thương binh đại tá Quân đội Nhân dân
Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phạm Trung
Nghĩa,: “Anh chưa hiểu hết bao nỗi lo này đâu… Anh và các
đồng chí của anh đang phải bắt tay vào nhiệm vụ khó nhất
trong đời mình!..”[18]
Sao? Suốt một đời người trực tiếp
trải qua 4 cuộc chiến tranh rồi, bỏ lại một chân trên chiến
trường, tóc bạc răng long hết cả với nhau rồi, thế mà bây
giờ lại phải cùng với những chiến hữu của mình bắt tay vào
nhiệm vụ khó nhất của đời mình?.. Thế là thế nào?!..
Thăm thẳm nỗi lo khủng khiếp về
cái quán tính lịch sử, nỗi lo lại phải làm lại từ đầu!…
Từ cái chân giả làm bằng gỗ của
đại tá thương binh Nghĩa, trăm ngàn tiếng thét của những
người đã ngã xuống vang lên như búa bổ liên hồi trong đầu
đại tá:
- “Không được phản bội một hy
sinh nào!”
- “Không một mất mát nào được
bỏ qua!..”
[19]
- …
T
rên đây là những thứ từ ngoài
đời, được chắt lọc gửi gắm vào truyện.
Truyện mới ra mắt bạn đọc được
dăm sáu năm nay, nhưng cái quán tính lịch sử hiện hữu trong
đời sống hôm nay yêu quái hơn, hiện đại hơn nhiều lần trong
truyện; tinh vi, đau buốt, đồi bại, tàn phá hơn nhiều lần
trong truyện… Đất nước cũng đang oằn lên hơn nhiều lần – chỉ
cần xem tầm vóc các vụ tham nhũng đổ bể ngày càng lớn hơn,
xem các chỉ số lạm phát dăm năm trở lại đây, xem báo chí bị
bưng bít gắt gao hơn, quyền của người dân bị xâm phạm, bị
tước bỏ nhiều hơn, môi trường bị tàn phá nghiêm trọng… Chưa
nói đến tình trạng tội phạm hình sự quá trầm trọng và số
tuổi trẻ phạm trọng tội ngày càng nhiều. Lại còn thêm nỗi lo
thâm nhập của quyền lực mềm!..
Câu chuyện trong Bài 2 này không
còn bàn về sự hiện hữu của cái quán tính lịch sử nữa, mà
chuyển sang xoay quanh cái đang lên ngôi của
nó, với tất cả những mầm mống sẵn có của nó từ cái xã hội
phong kiến trước kia, ủ kỹ trong môi trường sống của đất
nước, đang được thời thi nhau trỗi dậy, nảy nở, bây giờ lại
được cộng nhập vào cái mới có hôm nay, với tất cả dây mơ rễ
má chằng chịt trên dưới ngang dọc chéo, mang đủ mọi màu sắc
xanh đỏ tím vàng, được sản sinh ra từ cái thượng tầng kiến
trúc mới tạp-pí-lù đang được hiện đại hóa một cách tạp-pí-lù
trong quá trình hội nhập hôm nay…
Một quốc gia vốn mang sâu trong
mình tàn dư phong kiến lạc hậu như thế, nhưng lại không có
đủ bản lĩnh chăm lo được cho mình có một cơ thể lành mạnh
với sức đề kháng tốt để hội nhập, làm sao có khả năng hấp
thụ có chọn lọc và sáng tạo? Cho nên cái du nhập và thâm
nhậm tạp-pí-lù vào phần xác và phần hồn cơ thể quốc gia mình
hôm nay như đang diễn ra là hệ quả tất yếu.
(Cái “chết” của nước ta bây
giờ có lẽ là ở chỗ trong thời hội nhập ngày nay nước ta cái
gì cũng có, cũng giành được chút xíu, song trong mỗi cái
chút xíu ấy cái của chính ta, cái trở thành là ta, không bao
nhiêu; mà trong khi đó cái lai căng, cái rởm thường là quá
nhiều, lấy đi của ta quá nhiều, lấn át đi quá nhiều cái là
chính ta và cái thành là ta. Không kể đến những cái không
mời,những cái không muốn mà tự nó cứ ùn ùn đổ vào nước ta…
Trạng thái này đều có trong kinh tế, trong nghiên cứu khoa
học công nghệ, trong đời sống văn hóa, trong giáo dục, trong
tư duy, trong lựa chỗ đứng cho đất nước trên thế giới, trong
tầm nhìn xây dựng và bảo vệ đất nước, trong đối ngoại…
Kết cục hiện nay cái ta là ta và thành là của ta còn quá
khiêm tốn, chưa tạo ra được bao nhiêu sự phụ thuộc lẫn nhau
cần phải có, mà chủ yếu hiện nay cái ta lệ thuộc vẫn nặng
hơn.
Không thể đổ lỗi cho yếu kém,
mà phải nhìn nhận ta chưa có bao nhiêu cái ý chí giác ngộ sự
yếu kém của mình. Trên đời này không gì buồn hơn khi ta tồn
tại mà lại không hẳn chính ta là ta! Trong thâm tâm tôi cứ
vấn vương câu hỏi: Kể từ khi nước ta tiếp xúc với thực dân
Pháp giữa thế kỷ thứ 19 cho đến nay, khoảng một thế kỷ rưỡi
trôi qua, nhưng vì sao nước ta vẫn cứ ở trạng thái chung
chiêng, lơ mơ, không biết người biết ta cho đến nơi đến chốn
trong cái thế giới chẳng dung tha chút nào cái lơ mơ thế
này? Hình như ta vẫn cứ phải mượn kính của người mà đọc cái
thế giới này, mượn được cái kính nào thì đọc như thế. Ta đọc
được cái xu thế tất yếu của thời đại, nhưng lại chưa sao
thấy rõ được cái xu thế phát triển của cái thế giới đương
đại, cách ta nhìn cái thế giới hiện hữu quanh ta càng lôi
thôi…Và cho đến hôm nay, hình như ta vẫn chưa sao đọc chính
xác được mình! Trong khi đó hòa nhập, hội nhập vào thế giới
đòi hỏi phải thực sự biết người biết ta... Nghĩa là ta đến
hôm nay – hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 này rồi, thế mà
vẫn còn lúng ta lúng túng chưa sao tạo ra được vị thế cần
phải có cho đất nước. Đổ bao xương máu từ thế hệ này sang
thế hệ khác mà đất nước hôm nay sao vẫn còn bị uy hiếp nhiều
bề: Sư uy hiếp của lệ thuộc, của vị trí quốc gia nghèo và
thua kém, của tình trạng rất dễ bị chấn thương từ bên ngoài
bằng đủ mọi thứ quyền lực!.. Cứ nhìn các bước đi của thiên
hạ như thế nào, để không thể nào dửng dưng, lại càng không
thể cứ dương dương tự đắc mãi không chán là đã từng đánh
thắng mấy đế quốc to!.. Đất nước phải thay đổi quyết liệt để
sang một trang khác…)
Từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay,
đất nước chưa bao giờ có nhiều như bây giờ những thứ có
tên gọi như chức tước, danh tước, chức sắc, quân
hàm, huân chương, bằng cấp, cấp bậc, cấp ủy, trật tự dọc
trên dưới… Chưa bao giờ có nhiều như bây giờ sự phân chia
lợi - quyền ngang dọc chéo, hoạt động lễ nghi, lễ lạp, hội
hè, cúng bái, mê tín dị đoan, có quá nhiều ma chay, cưới
xin, bói toán… Chất lượng của những thứ bên trong mỗi cái
tên gọi này nhìn chung thấp, lẫn không ít của
giả, có những thứ có thể mua được. Danh sách những tên
gọi này khá dài, trong khi đó văn hóa lai căng tràn
lan.
Chỉ cần hình dung mỗi một cái
tên gọi như thế chứa đựng bên trong những gì, rồi
tập hợp những cái tên gọi ấy lại trong một hệ
thống ma trận (matrix) cấu trúc hệ thống kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa của đất nước, cũng có thể hình dung ra toàn
bộ cái linh hồn, cái thượng tầng kiến trúc, các hệ thống, bộ
máy, cỗ máy, đơn vị vận hành hay là phục vụ cho sự vận hành
của sơn hà xã tắc nước ta hôm nay. Sẽ thấy được tất cả những
thứ này cồng kềnh, nhiễu nhương, phức tạp, riêm rúa, ít chất
lượng và kém hiệu quả như thế nào. Cũng không biết bao
nhiêu hủ tục rơi rớt lại từ ngàn xưa khắp chốn trong nước,
nay bỗng dưng được phục hồi, được nâng cao đến tầm nhìn nhận
nó là văn hóa, hay là cố ý nhầm lẫn nó là văn hóa… – và xa
hơn nữa là làm những việc này nhân danh gìn giữ truyền
thống, gìn giữ văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc… Các bước đi
của đất nước vì thế rất chậm chạp, hoặc có khi một bước tiến
vài bước lùi, tiến chỗ này lùi chỗ khác…
Khái quát lại về thực trạng
thượng tầng kiến trúc đất nước và ảnh hưởng của nó, tôi muốn
ký hoạ một hình ảnh thế này: Từ khởi sự đổi mới đến năm
1995, nền kinh tế nước ta là một thanh niên tràn đầy sức
sống, trên mình anh ta là bộ quần áo rách toác vì các cơ chế
chính sách chạy theo không kịp sức lớn và hoạt động năng
động của anh ta. Hình ảnh kinh tế nước ta hôm nay là một
người có nhiều biểu hiện già trước tuổi, sử dụng quá nhiều
thuốc “ICOR” tăng lực, trên mình anh ta có quá nhiều xiêm
áo, khung, mũ mão hàng mã và các đồ trang sức hàng tạp hóa,
anh ta bây giờ đi đứng chậm hẳn và khó có khả năng tung
hoành dọc ngang!..
Ví von là như vậy.
Cái chất phong kiến còn sót lại
khá đặm đặc như vậy trong phần xác phần và phần hồn cơ thể
đất nước hôm nay sao có những nét hao hao đáng sợ so với
những gì sử gia Trần Trọng Kim đã ghi lại về triều chính các
vua nhà Nguyễn và những gì có thể đọc được trong
Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Quả thực đã hai thế kỷ
trôi qua, nhưng đất nước chưa tiến xa cái quá khứ đau buồn
của mình được bao nhiêu.
Bác sỹ P. H…, Thành phố Hồ Chí
Minh, mổ xẻ: “Cho dù là người lạc quan nhất bạn cũng cảm
thấy bi quan và phẫn nộ khi nhìn chung quanh mình. Phải nhìn
nhận rằng tình hình đất nước không khả quan. Biên giới bị kẻ
thù xâm lấn. Ngư trường bị kẻ thù chiếm đoạt và kiểm soát.
Kinh tế suy thoái. Lòng người ly tán. Cái ác lên ngôi. Đạo
đức suy đồi. Hệ thống giáo dục và y tế rối beng. Nhìn chung,
nền tảng xã hội bị lung lay đến tận gốc. Tất cả những nét vẽ
đó làm cho bức tranh xã hội Việt Nam ảm đạm. Nghèo. Hèn. Câu
hỏi là “tại sao”. Tại sao nên nông nỗi này?... Ai
cũng có thể tìm cho mình câu trả lời. Có thể nhiều câu trả
lời. Nhưng quan điểm cá nhân, tôi nghĩ đến một câu trả lời
đơn giản nhất. Lãnh đạo. Nói chính xác hơn là do lãnh đạo
bất tài nên đất nước mới ở trong tình thế nghèo hèn như hôm
nay…”[20]
Xin tất cả - người dân và người
cầm quyền đất nước - cùng nhau ngẫm nghĩ cho kỹ, để nhìn
thẳng được, nhìn thấu được thực trạng đất nước hôm nay, nhận
diện chuẩn xác nó, cùng nhau hành động xoay chuyển nó. Đây
chính là công việc của cải cách, của dấy lên trong đất nước
một cao trào duy tân.
Người dân không đứng lên giành
lấy cho mình sự giác ngộ như thế, sao tránh khỏi hoạt động
thụ động theo kiểu bày đàn? Vâng, người dân phải vượt qua
nỗi sợ của mình, đứng lên giành lấy. Vì không thể trông chờ
vào bất kỳ sư ban cho hay lòng bác ái nào.
- A ha, thế là duy tân đang
xúi giục dân đứng dậy?
- Đúng. Nhưng với sự giác ngộ
tự giành lấy. Một khi sự giác ngộ như thế của dân được tạo
mọi điều kiện để trở thành tiếng nói phải được lắng nghe,
phải được chấp thuận, phải được thực hiện, có lẽ có thể
tránh được các cuộc nổi dạy, và như thế sẽ sang trang được
lịch sử.
Người cầm quyền không giác ngộ
như vậy, khác gì tự tay xây đắp cho chính mình sự đổ vỡ
không thể đảo ngược được? Trên hết cả, người cầm quyền, lại
do Đảng lãnh đạo, không đi với dân thì đi với ai? Không vun
đắp cho cái giác ngộ của dân, không tạo ra tiếng nói như thế
của dân từ sự giác ngộ này thì làm gì? Lãnh đạo là gì?
Vì vậy, xin người dân và người
cầm quyền đều phải cùng nhau ngẫm nghĩ, cùng nhau ai phải
thực hiện trách nhiệm nấy, không nhầm việc nhầm chỗ. Để sau
này đừng một ai nói rằng: “Tôi không biết!”.
Xin nói thêm một ý khác
nữa:
C
ó nhận xét “dân nào, chế độ ấy”.
Điều này cũng có cái lý của nó. Tình trạng đất nước như hôm
nay, có một phần nhất định do dân ta vốn như vậy, chấp nhận
như vậy, cam chịu như vậy.
Xin nói thực thà với nhau thế này
để cả người dân và người cầm quyền cùng nghe: Tình trạng như
hiện nay ở nước ta mà rơi vào các nước khác như Ai Cập,
Tuy-ni-di.., có lẽ phải xảy ra đến hai hay ba mùa “hoa
lan hoa nhài” rồi. Ở nước ta không. Vì dân ta tốt quá,
cái đó đúng. Vì dân ta còn thương Đảng lãnh đạo quá, cái đó
đúng… Vì nhiều thứ nữa… Song còn vì một phần là dân ta vốn
như thế… Tôi trạnh nhớ đến anh Hoàng Ngọc Hiến: “Cái
nước mình nó thế…”
Tuy nhiên, phải công bằng. Trong
bài viết về vấn đề hiền tài, tôi cho rằng: “Một xã hội chịu
tác động như thế ngày này qua ngày khác, cùng với nền giáo
dục như đang được tiến hành, dần dà cũng tạo nên một
thứ văn hóa cần thiết cho sự tồn tại hàng ngày của chính xã
hội ấy.”[21]
Cho nên, ngày nay “cái nước mình nó thế”
còn là hệ quả, là sản phẩm tất yếu của chế độ chính trị nước
ta hiện nay. Nhẹ nhàng hơn thì cũng phải nói: Chế độ chính
trị nước hiện nay góp phần không ít nuôi dưỡng và làm trầm
trọng thêm trạng thái “cái nước mình nó thế”.
Đây chính là một khía cạnh khác
nữa vô cùng quan trọng của cái quán tính lịch sử mà duy tân
sẽ phải đối mặt!
Có ý kiến viện dẫn câu nói của J.
P. Sartre để lý giải, đại ý: Sống trong xã hội gian dối,
người không biết nói dối trở thành kẻ vô lại. Cuộc sống
cũng thừa nhận có hiện tượng này. Song tôi muốn thiên về ý:
Nhận biết thực trạng này, là để khắc phục nó. Vì vậy duy tân
phải làm được vai trò đánh thức dân đối với thực trạng này.
Cụ Phan Chu Trinh đặt vấn đề khai dân trí
trước tiên, có lẽ vì coi nhiệm vụ duy tân trước hết là như
vậy. Tôi mong duy tân thay đổi được “cái nước mình nó
thế”.
III. 2. Tình trạng đoàn kết
dân tộc hôm nay
Xin nói rõ, trước bước ngoặt định
mệnh của đất nước, đoàn kết dân tộc trước hết phải là vì
nhau và cùng nhau xả thân cho một Việt Nam là tổ quốc ngay
trong tim của mỗi người con trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
ta, là cùng nhau xây dựng một thể chế dân chủ vận hành đất
nước có phẩm chất gần như đồng nghĩa với tổ quốc – nghĩa là
không thể để cho việc xây dựng một nhà nước của dân,
do dân vì dân chỉ là một khẩu hiệu.
Đoàn kết dân tộc với nội dung như
vừa trình bầy là sự cố kết của ý chí, trí tuệ, tâm huyết với
dân tộc, với đất nước, là cố kết của các giá trị chân chính
và của đạo đức, của sự khác biệt sáng tạo và phẩm chất của
từng cá nhân được tiếp tục trau giồi, rèn luyện, để từng
người và toàn dân tộc phấn đấu về một hướng cho một
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu
mạnh.[22]
Đoàn kết dân tộc với nội dung mới
như thế không thể chỉ là “xóa bỏ mặc cảm, định kiến về
quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điềm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc.., đề cao tinh thần
dân tộc, truyền thống nhân nghĩa khoan dung…”[23].
Đoàn kết dân tộc như vậy vượt ra
ngoài cả liên minh công nông và trí thức, vì nó là cố kết
lại với nhau của sự giác ngộ của từng người Việt Nam dù
là ai – sự giác ngộ về thực trạng đất nước, về vị thế
yếu kém hiện nay của Việt Nam trong thế giới này, về những
thách thức đất nước đang phải đối mặt, và từ đó quyết tâm
cùng nhau phấn đấu đưa đất nước mình vươn lên thành một quốc
gia văn minh trên thế giới. Bên cạnh một Trung Quốc bá quyền
và muốn siêu cường, dân tộc ta càng phải cố kết lại với nhau
như thế.
Đoàn kết dân tộc như thế còn vượt
xa rất nhiều cả “khép lại quá khứ, không ngoái lại quá
khứ”[24]
để cùng nhau giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ đã từng
làm nên mọi thắng lợi và thành tựu của nước ta từ Cách Mạng
Tháng Tám đến nay. (Đáng lo là đến nay cái việc “khép
lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ” vẫn chưa làm
xong, về nhiều mặt là chưa làm được!)
Đoàn kết dân tộc như thế từ nay
về sau trước hết phải được xây dựng, phải được vun đắp
thường xuyên và liên tục đời này sang đời khác bởi một nền
giáo dục chân chính.
Ngay sau 30-04-1975, nhiệm vụ
đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc đã được đề ra, song vì có
quá nhiều cái tha hóa, cái bất cập, nhất là vì nhìn nhận sai
về đòi hỏi phải thống nhất dân tộc trên nền tảng của dân
chủ, về chiến lược phát triển đất nước.., cho nên đến nay
nhiệm vụ này chưa thực hiện được bao nhiêu, và trên thực tế
là còn đứng xa đòi hỏi cố kết dân tộc trong giai đoạn mới
của đất nước.
Đoàn kết dân tộc
với nội dung như vậy là điều kiện tất yếu phải có cho tồn
tại và phát triển đất nước, được đặt ra trước bước ngoặt
định mệnh hôm nay.
Từ các phần trên của Bài 2 này,
mở rộng ra một chút là từ những vấn đề có liên quan tôi đã
trình bày trong Bài 1 và trong bài viết trước nữa về vấn đề
hiền tài, tôi kết luận: Chúng ta chủ yếu mới đạt được
cố kết dân tộc cho sự tồn tại, cho bảo vệ đất nước, chưa có
bao nhiêu yếu tố quan trọng này cho phát triển đất nước
trước bước ngoặt mới, cho việc xây dựng truyền thống và văn
hóa mới cho phát triển lâu dài sau này. Đấy là
kết luận 1.
Xem xét thực trạng đất nước hiện
nay như đã trình bày trong bài này và Bài 1 – trước hết là
xem xét tác động của tha hóa dẫn tới những biểu hiện của
trạng thái mất phương hướng, mất niềm tin, vô cảm, tâm lý bi
quan chán trường, tâm lý thực dụng không cần đến ngày mai…
trong tâm tư của đại bộ phận nhân dân, tôi đi tới kết
luận 2: Hiện nay trong xã hội nước ta đang tồn tại
cuộc khủng hoảng tinh thần lớn nhất kể từ Cách mạng Tháng
Tám đến nay – cuộc khủng hoảng các giá trị.
Song ngay trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội XI cũng chỉ nêu lên đơn giản đại đoàn kết là
đường lối chiến lược và diễn giải nội dung rất công
thức, song phần đánh giá thực hiện chỉ nêu “dân chủ và
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ..,
…chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật, hoặc đã thể chế
hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc…”[25],
nghĩa là nhận thức của đảng cầm quyền còn rất xa thực
tế cuộc sống và những đòi hỏi hiện nay, chưa làm rõ những
vấn đề mới đặt ra. Đây là kết luận 3.
Trong tình hình có 3 đặc điểm như
vậy, lại đang lúc đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế kéo
dài từ nhiều năm nay, thách thức bên ngoài rất lớn, nhiệm vụ
đoàn kết dân tộc cho giai đoạn này vừa càng
trở nên khó khăn, đồng thời càng vô cùng quan trọng, có ý
nghĩa quyết định vận mệnh đất nước. Nghĩa là thành hay bại,
sớm thoát ra được khỏi khủng hoảng hiện nay để đi vào một
giai đoạn phát triển mới, hay lún sâu vào những bước khủng
hoảng tiếp trong nước và thất bại trước những thách thức mới
từ bên ngoài, phụ thuộc rất nhiều vào thực hiện ra sao nhiệm
vụ đoàn kết dân tộc lúc này.
Tôi nghĩ và hy vọng trong vòng
vài năm nữa có thể ra khỏi khủng hoảng kinh tế hiện nay để
đi vào ổn định, phát triển, nếu… Nhưng tôi chưa thấy trong
vòng vài năm tới có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng các giá
trị, cũng chưa biết bao giờ có thể khắc phục được cuộc khủng
hoảng này. Điều này có nghĩa: Giả thử ra khỏi được khủng
hoảng kinh tế hiện nay mà không có cải cách chính trị đi
trước một bước, thì nguy cơ quay lại nó khá lớn và rất sớm
theo kiểu ngựa quen đường cũ[26],
chưa kể đến tình hình xảy ra những đột biến bất khả kháng
(tỷ như dịch bệnh, tsuinami, động đất…), hoặc tình trạng xảy
ra một domino nào đó, bắt đầu từ … - ví dụ, nước Hy-lạp vỡ
nợ chẳng hạn... -, dẫn tới những cơn địa chấn kinh
tế ngoài tầm kiểm soát của con người…
Ví dụ, sau khi ra khỏi khủng
hoảng kinh tế rồi, mà cái dối trá vẫn ở thế áp đảo trong đời
sống mọi mặt – có nghĩa là cái yếu kém vẫn có dinh lũy kiên
cố để ẩn nấp, cái ăn thật làm giả vẫn có đất sống, cái giả
vẫn có khả năng thắng cái thật..; trong một tình hình như
thế, xin hỏi cái trật tự mới vừa giành lại được hay
hình thành được sau khủng khoảng, rồi các thể chế, luật
pháp, chính sách đã được cải tiến, rồi một số cái tốt khác
vừa mới tạo ra được… – vâng, nghĩa là cứ giả định rằng có nỗ
lực (hay có phép tiên) đạt được một trạng thái như thế sau
khi ra khỏi khủng hoảng, song những cái tốt đẹp vừa mới
giành được ấy sẽ bền vững được bao lâu?
Các văn kiện chính thức của BCHTƯ
ĐCSVN khóa XI lần đầu tiên chính thức nêu đích danh và lên
án các hiện tượng “chạy ghế” và “nhóm lợi ích”, một tiến bộ
rõ rệt so với trước đó (cũng có nghĩa là hôm nay những cái
“ác” này đã quá trắng trợn, quá lộng hành, không thể lặng
thinh được nữa). Tuy nhiên, nhiều phát biểu – kể cả của
người có cương vị cao – thừa nhận đến nay chưa phát hiện
được một trường hợp “chạy ghế” nào, kêu gọi mọi người chỉ
giùm để trừng trị. Sờ mó vào các “nhóm lợi ích” càng không
dễ, báo chí đã nói công khai các đoàn kiểm tra, kiểm toán
của Quốc hội, Chính phủ nhiều khi không lấy được số liệu cần
phải có của các tập đoàn. Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư có lần
phải thừa nhận không kiểm soát hay không nắm được hoạt động
của tập đoàn… - nghĩa là căn bệnh đã nặng đến mức cái đầu
không vãy được cái đuôi. Vân vân… Cuộc sống thực đến giờ
phút này đang là thế.
Như vậy, tiếng nói của đạo đức,
của giá trị có được sức nặng bao nhiêu?
Bên trong sự “vô cảm”
của những cái “ác” này – đúng hơn có lẽ nên gọi đấy là sự “lỳ
lợm” (để tiếp tục vụ lợi), làm gì có có chỗ
đứng cho ý niệm về “accountability” (tạm dịch: tính trách
nhiệm, tính tin cậy được)? Tính khả thi nào của kỷ cương,
luật pháp, chính sách… có thể địch nổi sự lỳ lợm
này?
Đến nay, âm thầm hay lộ liễu,
sự lỳ lợm vẫn đang thắng. Đồng minh của sự
lỳ lợm này là tình trạng bất cập, tình trạng tác
trách không thể nào chấp nhận được của một bộ phận không ít
những người thuộc biên chế bên Đảng hay bên chính quyền sống
ăn lương bằng tiền của dân đóng thuế - một hệ quả tất yếu
của toàn bộ chính sách tổ chức – cán bộ và của nền giáo dục
nước nhà (bao gồm cả công tác đào tạo cán bộ cho hệ thống
chính trị của đất nước). Nơi nương trú của sự lỳ lợm
này là bộ máy nhà nước cồng kềnh, chồng chéo và kém hiệu
quả. Chỉ một ví dụ mỗi đêm mất 2000 tấn khoáng sản đem đi
xuất tại một cửa khẩu ở Cao Bằng mà không gây nhức nhối gì
trong toàn bộ hệ thống điều hành đất nước và cứ để cho nó
ngang nhiên tồn tại dai dẳng, đủ minh chứng tình hình này[27].
Bây giờ xin nói vài điều về sự vô
cảm trong dân, một hình thái phản kháng thụ động hiện nay,
một hiện tượng đang mầm mống không biết bao nhiêu hậu họa.
Bàn điều này, chí ít để thấy ngay được rằng mọi bưng bít,
trấn áp, che đậy, khỏa lấp, mỵ dân, xoa dịu… sẽ chẳng khác
gì mấy việc lấy một miếng vải bẩn băng bó một vết loét trầm
trọng, tất yếu dẫn đến nguy cơ hoại tử.
Hiện nay tâm trạng dân ta chưa
đến nỗi như viên sứ Pháp tại Huế, P. Rheinart, năm 1875 báo
cáo cho cấp trên ông ta[28].
Song hiện nay tâm lý chán trường, bi quan, mất lòng tin, thờ
ơ, tránh né, quay về tự lo thậm chí tự làm luật, quay về chỉ
quan tâm cho mình, quay về chỉ biết mình… trong dân không
thể xem thường. Phổ biến vẫn là câu chuyện ngàn xưa “đấu
tranh – tránh đâu?” nhưng ngày nay ở mức độ trầm trọng hơn
nhiều, giữa lúc ngoài đời đang xảy ra không biết bao nhiêu
việc xấu, việc nghiêm trọng, có bao nhiêu việc không thể
bàng quan được[29].
Sự thật của bức tranh toàn cảnh ngoài đời này khác rất xa so
với những gì có thể thấy được, nghe được, những gì được phản
ánh qua các buổi truyền hình “các đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri” – dù là ở ngay thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, hay ở bất kỳ một tỉnh nào, một khu vực bầu cử nào
trong cả nước. Có thể nhận xét: Bức tranh toàn cảnh ngoài
đời là sự thật, còn cách tiếp cận và xử lý sự thật theo kiểu
như trên tivi nói trên chỉ là “chuồn chuồn đập nước” – chủ
yếu vẫn là làm cho có làm, sờ mó được bao nhiêu vào sự thật
để xử lý? Nghĩa là cái dân chủ đại diện trong thể chế chính
trị của nước ta chỉ có thể đạt được kết quả có tính hình
thức như vậy. Làm thế nào bây giờ?
Đang xảy ra hiện tượng một số
nước ngừng nhận tiếp lao động Việt Nam sang làm việc, trước
hết vì số lao động theo hợp đồng bỏ trốn việc để cư trú bất
hợp pháp tại nước chủ nhà lớn quá, tình hình còn tiếp diễn.
Số phụ nữ ta lấy chồng nước ngoài ngày càng nhiều, có quá
nhiều bi kịch đau thương, có quá nhiều trường hợp biến thành
việc buôn bán phụ nữ một cách ghê sợ.., song tình hình này
vẫn tăng lên ở nhiều tỉnh. Có doanh nghiệp, có người, đã lo
“để” tài sản của mình ở nước ngoài, không phải là vì kinh
doanh hay là “tuồn ra ngoài” do gian lận, mà - có người đã
nói thẳng với tôi là - vì “tâm lý chợ chiều”…
Ngoài bao chuyện đau lòng về “hình
ảnh người Việt” ra, đằng sau, sâu xa bên trong tất cả
những hiện tượng vừa nêu trên là gì, là trạng thái gì của
đất nước ta hôm nay? Làm sao không lo lắng được trước những
hiện tượng như vậy? Cố kết dân tộc lại với nhau như thế nào
bây giờ trong tình hình như vậy?
Nhưng lúc này đất nước không thể
không thực hiện đoàn kết dân tộc. Chẳng lẽ cứ phải chờ đến
lúc Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông ta mới thức dạy cụm lại?
Song rõ ràng, chỉ có thực thi
luật pháp, thực thi dân chủ (giả thử là thực hiện được) mà
không đồng thời duy trì, phục dưỡng và tôn vinh các giá trị,
làm sao có đoàn kết dân tộc? Mà không có cái này thì cũng
chẳng có cái kia.
Hiển nhiên, như thế để
bảo vệ và xây dựng đất nước ngày nay đi lên văn minh hiện
đại, nhất thiết phải kinh qua một cuộc cải cái triệt để, sâu
rộng thể chế chính trị và thượng tầng kiến trúc của đất
nước, thậm chí cuộc cải cách này phải đi trước một bước. Bởi
vì, đoàn kết dân tộc để bảo đảm giành thắng lợi trước hết là
thực hiện sự cố kết các giá trị của dân tộc, chẳng cố kết
giai cấp nào thay thế được nó cả. Làm sao thiếu được một cao
trào duy tân cho một cuộc cải cách như thế?
Trí thức nước nhà và những người
nắm quyền lãnh đạo đất nước nghĩ gì?
IV. Phần kết:
Thay đổi cách nhìn
IV. 1 Thay đổi cách nhìn
Thiết nghĩ nên bắt đầu công việc
bằng thay đổi cách nhìn.
Nên vượt qua nỗi sợ của chính
mình, với tinh thần không cam chịu, để thay
đổi cách nhìn. Có ý chí, ai cũng có thể làm
được, kể cả những người ít hay không có điều kiện được học
hành nhiều. Quyết tâm và giúp đỡ lẫn nhau, chắc chắn ai cũng
làm được, cả nước làm được; hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước cũng có thể làm được hay sẽ được thúc đẩy. Dân chủ,
công khai minh bạch, xây dựng – làm như thế, chắc chắn sẽ
làm được.
Thay đổi cách nhìn, sẽ thấy nhiều
cái khác, nhiều cái mới.
Ví dụ, tái cấu trúc kinh tế để
chuyển sang phát triển năng động và bền vững đang được đặt
lên bàn nghị sự quốc gia. Nếu chúng ta thay đổi cách nghĩ,
cách nhìn về công nghiệp hóa như đã tiến hành hơn 2 thập kỷ
vừa qua, rút ra kết luận phải tận dụng tốt hơn nữa lợi thế
nước đi sau, phải phát huy hơn nữa nguồn lực lớn nhất của
đất nước là con người, tận dụng lợi thế lớn nhất (phần nào
còn là các thách thức nữa) của đất nước là đất đai, khí hậu,
vị trí địa lý tự nhiên trong hội nhập kinh tế thế giới, lại
phải nhằm vào phát triển một nền kinh tế có hàm lượng khoa
học công nghệ ngày càng cao, tiến tới một nền kinh tế của
tri thức, của văn hóa.., chắc chắn thay đổi cách nhìn như
thế, chúng ta sẽ tìm ra cách xắp xếp lại nền kinh tế nước
ta, thay thế cái gì bằng cái gì, bỏ bớt cái gì và bỏ như thế
nào, duy trì cái gì, phát triển cái gì mới… – nhất là trong
lúc bản thân cấu trúc kinh tế thế giới và phương thức vận
hành của nó đang thay đổi. Tôi đã có dịp trình bày một số
suy nghĩ riêng về chủ đề này trong các bài viết trước.
Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý thêm:
- Thay đổi cách nhìn trong kinh
tế, trước hết nên khắc phục bằng được cái nôn nóng, manh mún
cục bộ (ít nhiều mang tính tranh thủ, chụp giật, chia chác),
cái tư duy dễ làm trước, khó bỏ lại sau.., mà
phải kiên định chuyển sang cách nhìn chiến lược, bài bản, có
tính quy hoạch cao hơn, bước trước chuẩn bị bước sau. Cần
thay cách nhìn quá thiên về tăng trưởng để chú trọng hơn về
phát triển. Hiện nay không thế.
- Nên chú ý phát triển một nền
kinh tế của văn hóa nữa – văn hóa về sản xuất/tiêu dùng theo
những chuẩn mực của văn minh, về chất văn hóa trong sản
phẩm, về môi trường tự nhiên, về phương thức kinh doanh, về
sự hài hòa các lợi ích, về thân thiện với con người và phục
vụ con người, về đặc thù văn hóa và cái bản sắc riêng của
đất nước ta, về hòa nhập và hội nhập. Chí ít đấy là việc làm
ra những sản phẩm kinh tế mang tải nét văn hóa hay giá trị
tạo ra sự khác biệt của Việt Nam… Vân vân… Nó còn là gì
nữa, tiến hành như thế nào..? Là nước đi sau, ta nên chú ý
bỏ công sức bàn vỡ câu hỏi quan trọng này. Nó có thể góp
phần quan trọng làm nên sự khác biệt mà nền kinh tế nước ta
phải có để có chỗ đứng trong kinh tế thế giới.
- Trong chiến lược công nghiệp
hóa, nên đặc biệt quan tâm phát triển tốt hơn nữa 2 ngành
kinh tế rất quan trọng của nước nhà: (1) nông nghiệp, (2)
dịch vụ. Vì nước ta có lợi thế lớn nhiều mặt cho 2 ngành
này. Nói ngắn gọn ở đây là: Học hỏi và hình thành cả một
chiến lược lâu dài xây dựng bằng được 2 ngành này theo những
hình mẫu tiên tiến và đã thành công trên thế giới. Ta có lợi
thế nước đi sau và thị trường rất triển vọng cho 2 ngành
này, nhất là kinh tế thế giới đang thay đổi sâu sắc.
Tôi đã đôi ba lần có dịp nói tới
và bây giờ xin nhấn mạnh: Giáo dục trước hết, chứ không phải
công nghiệp hóa – hiện đại hóa sẽ là yếu tố hàng đầu quyết
định số phận nước ta trong thế kỷ 21. Nghĩa là giáo dục phải
tiến nhanh và trở thành một trong những yếu tố nền tảng phải
có cho công nghiệp hóa. Trước sau, nền giáo dục nước nhà cần
nhằm vào cái đích hình hài, xây dựng nền tảng và nuôi dưỡng
một quốc gia dân chủ của những công dân là con người tự
do.
Không thể nói hết chung quanh câu
chuyện thay đổi cách nhìn. Về quá khứ, hiện tại, và tương
lai. Về thế giới. Về ta và thế giới. Về quan hệ Việt –
Trung. Về chính nước ta và mỗi bản thân chúng ta… Về từ thế
giới nhìn lại chúng ta… Ở đây tôi xin được nhắc lại để nhấn
mạnh một điểm: Nên nhìn rõ những thách thức mới của thế
giới hôm nay, đặc biệt là khu vực Châu Á –Thái Bình Dương,
trong đó có nước ta. Chỉ có cách nhìn mới, có đoàn kết dân
tộc, có sự dấn thân cùng đi với cả trào lưu tiến bộ của thế
giới, nước ta mới tạo ra được chỗ đứng cần phải có tại địa
bàn năng động, không ít nóng bỏng và rất quyết liệt này.
Thay đổi cách nhìn về ta, rất nên
mạnh dạn nhìn thấu những yếu kém của ta. Nhất là nên từ các
bài học của lịch sử, cố nhìn thấu những yếu kém của ta.
Đương nhiên không phải để tự ti, mà là để không cam chịu,
trước hết là để khiêm tốn, để có ý chí giải phóng mình ra
khỏi các thứ bệnh cản trở sự tiến bộ của đất nước, ví dụ:
“tâm lý tiểu nông đậm mùi hủ nho” (manh mún, thiển cận coi
trời bằng vung, hẹp hòi, bảo thủ, đố kỵ, hợm hĩnh, nhiều khi
khôn vặt đến lưu manh nhưng lại dễ bị lừa trong chuyện
lớn…), “nếp nghĩ mì ăn liền và bóc ngắn cắn dài” (trong Đảng
còn có tư tưởng”nhiệm kỳ”), thói ỷ vào chi viện, thói tự
huyễn theo kiểu “nhất thế giới.., nhất Đông Nam Á”
và những thứ “xấu xí” khác, … (người Trung Quốc ngày xưa mắc
nặng chứng bệnh “AQ”, bây giờ có nhiều thứ bệnh thời nay của
“Người Trung Quốc xấu xí”[30]).
Tôi rất xin lỗi nếu bị khép tội phỉ báng người mình.
Sông có lúc, người có khúc.
Người ít hay người nhiều, con người
bao giờ cũng là người, không bao giờ là thánh. Thiết nghĩ,
muốn phát huy những phẩm chất dân tộc ta đã tạo dựng nên
được suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của mình, nhất
thiết phải khắc phục những yếu kém nói trên, đồng thời cần
bền bỉ xây dựng cho mình những giá trị và phẩm chất mới phải
có, để có thể cùng đi với trào lưu tiến bộ của thế giới,
nhất là tính trung thực, sự khoan dung lẫn nhau và ý chí dấn
thân vì sự thật, vì tiến bộ. Tạo ra chuyển biến này càng
phải là nhiệm vụ của duy tân.
Đang viết, điện thoại reo. Bạn
tôi, một nhà giáo tạm thời tử thần ung thư đang điểm danh,
xúc động chia sẻ: Học trò anh, cũng là một nhà giáo, khi
giải thích cho học sinh của mình lý do xin nghỉ dạy 2 ngày
để đi thăm thày cũ, học sinh thích quá vỗ tay hoan hô vì
được nghỉ học. Tôi hiểu được các em và nghĩ chắc là các em
tôi cũng vui như thế. Nhưng không biết vì sao, tôi vẫn
thoáng rùng người nhớ lại đã được đọc, hay được nghe ở đâu
đó câu chuyện một phụ huynh học sinh là thương binh
già…Trong một buổi họp trường ông ta phê phán (nói cho đúng
hơn là mắng) thầy hiệu trưởng, đại ý: …Tôi đã đi qua
nhiều chiến trường và chết chóc, đã chứng kiến nhiều người
thân thể bị bom đạn làm rách nát song vẫn có cơ may chữa
chạy lành lặn… Nhưng nếu một ai đó để linh hồn mình rách
nát, thì khó cơ chữa khỏi và hoàn toàn không có đồ thay thế
(kiểu như chân tay giả)! Tại trường này, cái khẩu hiệu “tiên
học lễ, hậu học văn” ở tường treo trên đầu ông kia kìa,
nó chỉ là “lễ” trước tiên! Nhà trường của ông làm ăn
như thế này là đang đào tạo ra những linh hồn như thế!..
Có thể hình dung nhiệm vụ
giải phóng khỏi thứ di sản văn hóa cần bỏ lại phía
sau, lại còn phải nuôi dưỡng cái chân, thiện, mỹ, cái mới
nữa.., quả thực là sự nghiệp khó nhất và vô cùng quan trọng,
nhất là lúc này và thường xuyên mãi mãi về sau đối với dân
tộc ta, sau khi từ nay trở đi Việt Nam là một quốc gia độc
lập.
IV.2. Thử nghĩ về được và mất
Thay đổi cách nhìn, cũng nên thay
đổi cách nghĩ về được/mất. Có lẽ phải ý chí,
trí tuệ và dũng cảm lắm, dám vì mục tiêu trong sáng, dám vì
chân lý, mới có thể đụng chạm được vào nhìn lại và thay đổi
cách nghĩ về được/mất. Được – mất đã xảy ra.
Được – mất cần và phải lựa chọn cho hiện tại và tương lai.
Ví dụ, thành quả cách mạng đã
giành được là cái được lớn lắm; song cứ mài
cái được rất vinh quang đã thành lịch sử này
ra mà hưởng thụ, mà sống, sẽ có nghĩa là mất,
rồi sẽ có lúc mất hết vì tha hóa. Cuộc sống của đất nước hôm
nay, nói cụ thể hơn nữa là cuộc sống tinh thần, đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước hôm nay, đã có ở
mức hơi quá nhiều cái trạng thái mài cái được
rất vinh quang đã thành lịch sử này ra mà hưởng thụ, mà
sống tiếp. Xin kể lại ở đây, lúc sinh thời cố Thủ tướng
Võ Văn Kiệt đã nhiều lần phải nhắc nhở, khuyến cáo điều này
một cách có ý tứ, kể cả trong những dịp quốc lễ lớn.
Mặt khác, sự thật cuộc sống đất
nước có nhiều cái được bị đánh mất đến bây
giờ vẫn chưa biết sao lấy lại được. Nhiều lắm. Những cái
mất ấy đang gây ra không biết bao nhiêu khó
khăn cho đất nước hôm nay, và có thể mai sau nữa, nhất là
mất niềm tin. Cứ nhìn lại những giá trị đã xây dựng được
nhưng ngày nay đang mai một hoặc bị đảo ngược sẽ rõ, bao giờ
làm lại được? Một trong những cái được rất lớn
ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công nay bị mất
(thoạt đầu có thể là mất do hoàn cảnh chiến tranh), đến giờ
chưa có cách gì lấy lại được, đó là Hiến pháp năm 1946.
Cứ đem ra thảo luận công khai trong cả nước, chắc sẽ thấy rõ
tổn thất này đối với hôm nay lớn như thế nào, và từ đó có
thể sẽ có được nhiều gợi ý cho công việc sửa đổi Hiến pháp
sẽ phải thực hiện. Sau khi đất nước thống nhất, có nhiều cơ
hội lớn tuột tay, đấy là những cái mất vô cùng xót xa, nhất
thiết phải nhìn lại.
Thay vì nuôi dưỡng niềm tự hào
chính đáng là động lực phấn đấu của hôm nay, nhằm đưa đất
nước ra khỏi số phận nghèo hèn, lại đi ngược dòng, muốn lấy
cái được đã thành lịch sử làm chân lý, làm
giường cột, làm khuôn vàng thước ngọc cho hiện tại và tương
lai, thì trên thực tế - dù thừa nhận hay không thừa nhận –
là đã chủ động tự quy hoạch và thực hiện cho mình cái
mất hết. Phải chăng không ít thứ đã mất
hết rồi? Đối với sự nghiệp của Đảng cộng Sản Việt Nam
tôi cũng nghĩ như vậy, xin trở lại vấn đề này trong Bài 3.
Trong cuộc sống, trong phấn đấu,
trong xây dựng đất nước luôn luôn có được và mất. Mất
mà có được bài học và chung cuộc là tạo ra được khả năng
xoay chuyển tình thế, thì thực chất và cuối cùng là
được. Nhưng được mà phải trả giá lớn,
làm hỏng cái được và chung cuộc là số âm với
nhiều hệ lụy xấu, thì chắc chắn đấy là mất.
Con người ta không phải là ông thánh, lại thêm những yếu kém
vốn có của chính nó; đồng thời cuộc sống luôn luôn đi theo
bản đồ riêng của nó mà con người khó biết hết được, nên hành
động có đúng, có sai là đương nhiên, có được
có mất là tất yếu. Tôi nghĩ, nếu có cái tâm
và ý chí Tổ quốc trên hết, có trí tuệ dẫn dắt, chắc chắn sẽ
có khả năng xử lý đúng đắn cái được/mất đã xảy
ra cho hiện tại và tương lai.
Trong lịch sử cận đại, nước ta có
nhiều cái được/mất vô cùng quan trọng, người
cầm quyền và người dân nhất thiết phải trấn tĩnh xem lại để
quyết định đường đi nước bước của tương lai đất nước. Phải
như thế, nếu muốn đất nước sang trang, đổi đời.
Trong Dòng đời, má
Sáu Nhơn, một cơ sở cách mạng tại Sài Gòn, đã cất gữ một bản
viết tay in litho Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 ngay từ
những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến (23-09-1945). Thế nhưng
chỉ vài năm sau ngày 30-04-1975, một đêm má phải dứt ruột
tiễn con cháu mình đi di tản. Trở lại nhà, ngay đêm ấy, má
xé bản Tuyên Ngôn Độc Lập, vừa xé vừa khóc. Song vì tiếc
xương máu của nhân dân mình – trong đó có xương máu chính
con cháu ruột thịt mình, má lại cất bản Tuyên Ngôn rách vào
chỗ cũ. Rồi một ngày, trăng trối trước giờ phút lâm chung,
má gọi bầy cháu nội của mình đến và trao tận tay bản Tuyên
Ngôn rách: “Các con phải giữ lấy! Bảo nhau cha truyền con
nối thực hiện bằng được!..” Còn cụ Phạm Trung Học, chú ruột
của đại tá thương binh Phạm Trung Nghĩa phải thốt lên: “Cái
giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt lắm!.. Đắt
quá!..”
Ai dám nói những gì nước ta đã
đạt dược trong 35 năm đầu tiên của quốc gia độc lập thống
nhất là không đắt?
Để giành thắng lợi phía trước,
nhất thiết phải học được từ quá khứ bài học được/mất.
♦
Khi tôi viết đến đây, trên thế
giới sôi nổi những tin tức về các cuộc biểu tình Chiếm
lấy phố Wall ở nhiều nơi phát triển nhất trên thế
giới này. Động cơ (motivation) và mục tiêu của hành động này
là chính đáng: Nhất thiết phải sửa chữa những khuyết tật của
phát triển. Cụ thể ở đây là sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn
và việc phân bổ gánh nặng của khủng hoảng quá nặng lên vai
tầng lớp thu nhập thấp hơn trong xã hội. Biểu tình như thế
không phải là phương thức sửa chữa khuyết tật, nhưng nó đặt
ra được vấn đề phải sửa chữa, nó thúc đẩy sự quan tâm và
những nỗ lực cho công việc sửa chữa.
Các nước phát triển này, - tư
bản hay đế quốc, muốn gọi thế nào thì tùy - lúc này khác có
những cuộc biểu tình rất lớn như thế. Vừa mới đây nhất là
các cuộc biểu tình ở Mỹ chống chiến tranh Iraq giữa lúc cuộc
chiến đang nóng bỏng. Những cuộc biểu tình này ở Mỹ cùng với
nhiều thể chế khác nữa của hệ thống pháp quyền Mỹ không phải
là không có tác động đối với chính quyền Obama bây giờ.
Những sự việc này cho thấy hệ thống chính trị những quốc gia
này được thiết kế sao cho có khả năng vạch ra quyết liệt các
điều cần vạch ra (dù rằng không phải khuyết tật nào cũng
vach ra được), và có khả năng điều chỉnh, sửa chữa những
khuyết tật được vạch ra (dù không hiếm trường hợp là không
thể, là bất lực). Làm gì có chế độ chính trị tiên thánh nào
trên thế giới luôn luôn sửa chữa được 100% khuyết tật xảy
ra.
Coi cuộc biểu tình Chiếm
phố Wall là sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản, là
những “triệu chứng” hay “bằng chứng” cho việc xã hội loài
người nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội… là tuỳ cách nhìn
của mỗi người. Tôi quan tâm đến một khía cạnh khác: Mong
muốn thể chế chính trị ở nước ta có được sức mạnh như thế
vạch ra và sửa chữa các khuyết tật. Một cỗ xe hiện đại thế
nào đi nữa cũng phải có cái thắng (cái phanh) mới đắc dụng
được. Còn hơn thế, phong trào duy tân đất nước
tôi muốn xới xáo lên trong Bài 2 này, để gợi ý, để xin được
bàn luận.., không phải chỉ có mỗi một việc là làm ra cái
thắng cần phải có, nó còn phải nhằm vào cải thiện và xây lại
cả bộ máy.
Như đã nêu trên, điểm khởi động
là người dân phải đứng lên tự giải phóng. Nên thông qua thực
hiện dân chủ và công khai minh bạch để khuyến khích người
dân tự đứng lên giải phóng. Cả nước, ngoài Đảng cũng như
trong Đảng, xin cùng nhau vắt óc tìm cách thực hiện sự khởi
động này.
- Suy nghĩ về duy tân như vậy,
tôi ảo tưởng?
- Gần như chắc chắn. Nhất là
ảo tưởng về khả năng thực hiện.
- Vậy nêu ra con đường duy tân
để làm gì?
- Vì theo cách nhìn của tôi,
muốn thực hiện được cải cách triệt để đất nước thì có lẽ nên
có một phong trào duy tân như thế làm động lực. Tôi tin đấy
là con đường cải cách thành công lâu dài, bền vững, để đất
nước đoạn tuyệt hẳn với cái quán tình lịch sử tai ác, đi vào
giai đoạn phát triển mới. Để đừng tái diễn cái cảnh sau 25
năm đổi mới, cái quán tính lịch sử bây giờ lại lên ngôi! Tôi
hy vọng như vậy!.. Con đường ấy có thể người dân và người
cầm quyền không thể đi được trong trạng thái hiện nay… Hoặc
là, con đường ấy người dân muốn đi, người cầm quyền không
dám, không muốn… Hoặc là, con đường ấy người cầm quyền không
muốn, chưa muốn, hoặc phải cân nhắc trong, ngoài nhiều thứ,
nhất là vào thời khắc nhạy cảm như hiện nay. Hoặc là, con
đường ấy người cầm quyền tự thấy không thể đi được. Hoặc là,
người cầm quyền dứt khoát bác bỏ nó… Hoặc là cuộc sống còn
có con đường khác?.. Hoặc có thể tôi nghĩ sai… Vân vân… Tôi
hy vọng sẽ đến gần sự thật tôi đang đi tìm.
Nguyễn Trung
Võng Thị, ngày 20
tháng 10, 2011
Chú thích
[1]
Cách nhìn này của tôi không giống quan điểm có cái tên gọi
là “giải phóng lực lượng sản xuất” như đã từng
thực hiện ở nước ta.
[2]
Ví dụ: (1) Chúng ta chắc sẽ rất khó hình dung nổi những cố
gắng lặng lẽ, bền bỉ, tự thân – nghĩa là hầu như không có
một sự trợ giúp nào có cái tên gọi là “quốc doanh” của
Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao,
những nỗ lực giành chỗ đứng cho sản phẩm Việt Nam ngay trên
thị trường Việt Nam và nước ngoài. Năm này qua năm khác, Hội
này tìm mọi cách đưa các sản phẩm ấy đến các chợ, các vùng
khắp cả nước hoặc ra bên ngoài, giới thiệu chúng, vận động
người tiêu dùng hiểu và yêu thích tiêu thụ, vận động các
doanh nghiệp cùng nhau bảo vệ nhãn hiệu và thương trường của
mình chống lại thị trường lậu và nạn cướp nhãn hiệu...
(2)Khó mà nói hết những khó khăn do nghèo thiếu và những khó
khăn do những cái đầu chật hep từ bên ngoài
NXB gây ra mà Nhà xuất bản Tri thức phải vượt
qua để dịch và mang đến bạn đọc chúng ta những bộ sách quý
giá của văn minh nhân loại đang vô cùng cần thiết cho nước
ta lúc này. Khỏi phải nói người đọc chúng ta vui như thế nào
khi có trong tay các cuốn sách như Bàn về tự do,
Nền dân trị Mỹ … Còn rất rất nhiều những ví dụ
làm ấm lòng người như thế, vân vân…
[3]
Tìm đọc các bài viết “Biển Đông, cái biển hay cái ao?”,
“Tô-tem sói…” vân vân… trên tạp chí Thời Đại Mới các số
trong năm 2011.
[4]
Ngày nay Việt Nam được đánh giá là nước đang phát triển có
mức thu nhập trung bình, song cách diễn đạt như vậy vẫn
không thay đổi vị trí nước ta đứng xa về phía cuối trong
bảng xếp hạng quốc gia tính theo GDP p.c.
[5]
Theo sử liệu,
[6]
Đơn vị đo lường cũ của ta: 1 cân ta = 16 lạng ta.
[7]
Xem: Cao Huy Thuần,
Từ bao giờ và bằng cách nào người Nhật
thoát ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc?
, tạp chí
Thời đại mới, số 19 – xuất bản tháng 7-2011. Trong bài này,
dựa vào tìm hiểu những công trình nghiên cứu của những học
giả lỗi lạc của Nhật, Cao Huy Thuần cho rằng sức ép về văn
hóa, tư tưởng thay đổi nước Nhật có trước cả thời kỳ
khai sáng ở châu Âu.
[8]
Xem Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”, NXB Đà
Nẵng 2001; Yoshiharu Tsuboi, “Nước Đại Nam đối diện
với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885”, MXB Nhã Nam &
NXB Tri thức, 2001
[9]
Xem thêm Tựa cho sách của Tsuboi, Tsuboi -
sách đã dẫn.
[10]
Tham khảo thêm (a) những sử liệu và những lời bình của Trần
Trọng Kim, trong “Việt Nam Sử Lược”; (b) những sử liệu rất
phong phú của các giáo sỹ ngoại quốc, các quan chức và nhà
buôn các nước, trước hết là Pháp, được Yoshiharu Tsuboi sưu
tầm, hệ thống hóa và lý giải trong luận văn tiến sỹ của
mình, bảo vệ tại Pháp năm 1982, sau đó đã xuất bản thành
sách với tựa đề “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung
Hoa” – đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam.
[11]
Xem Y Tsuboi, sách đã dẫn, trang 255, bản dịch của Nguyễn
Đình Đầu, do 2 NXB Nhã Nam và Tri Thức đồng phát hành năm
2011.
[12]
Xem Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, trang 420, bản do NXB Đà
Nẵng in và phát hành năm 2002.
[13] Xem Y Tsuboi, sách đã
dẫn, trang 136.
[14] Tsuboi, sách đã dẫn,
trang 339.
[15] Nên tham khảo thêm bài
viết của anh Cao Huy Thuần, nêu trong chú thích (4).
[16] TRần Trọng Kim, sách đã
dẫn, trang 522.
[17] Nguyễn Trung, tiểu
thuyết Dòng đời, NXB Văn nghệ, TPHCM, 2006.
[18] Nguyễn Trung, “Dòng
đời”, sách đã dẫn, tâp IV, tr 857, 858.
[19] Tìm xem thêm: Trần Bạch
Đằng, “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết Dòng đời”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/DongDoi_TranBachDang.htm
[20] Tôi chưa xin phép tác
giả trích dẫn, nên xin viết tắt tên tác giả như vậy.
[21] Nguyễn Trung, trong Tạp
chí Thời đạ mới, số 22, xuất bản tháng 8-2011.
[22] Gần đây và tại Đại hội
XI, cái đích của dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tinh túy
trong Di Chúc của người được viết lại là: xây dựng một “Việt
Nam hòa bình, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giầu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Viết
chi tiết và viết dài ra như thế vẫn là cái đích của dân tộc
mà Chủ tịch Hồ Chí minh đã đúc kết nên. Điều cốt yếu là phấn
đấu thực hiện thành công cái đích này.
[23] Văn kiện Đại hội XI, NXB
Chính trị Quốc gia, tr. 240.
[24] Xem Nguyễn Trung, bài về
vấn đề Hiền tài, TĐM số 22, đã dẫn.
[25] Văn kiện Đại hội XI, NXB
Chính trị Quốc gia, tr. 171.
[26] Theo dõi trong 25 đổi
mới, cũng thấy chu kỳ các cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước ta
có biểu hiện ngắn lại, nội dung cũng ngày càng phưc tạp hơn,
cuộc khủng hoảng hiện nay là phức tạp nhất vì chủ yếu là
khủng hoảng cơ cấu kinh tế.
[27] Trên thực tế bộ máy nhà
nước của hệ thống chính trị nước ta là hai bộ máy song
trùng, dính vào nhau, đan xen nhau, chồng lấn nhau ờ mọi
cấp mọi ngành giữa hai bên đảng và chính quyền. Nếu gọi mọi
người làm việc ăn lương ở cả hai bộ máy này dưới cái tên
chung là viên chức, hầu như chắc chắn nước ta có tỷ lệ này
tính theo số dân cao nhất Đông Nam Á và vào loại rất cao
trên thế giới. Song điều nguy hiểm nhất là nó rất kém hiệu
quả, tính trách nhiệm và tin cậy được thấp (accountability),
rất khó cải cách, một trong những nguyên nhân làm cho chống
tham nhũng trở thành gần như không thể. Cách đào tạo, tuyển
chọn và sử dụng đội ngũ viên chức này càng làm trầm trọng
thêm vấn đề.
[28] Tìm xem Tsuboi, sách đã
dẫn.
[29] Báo cáo Chính trị tại
Đại hội XI đã phải nêu khá rõ thực trạng này. Xem Văn kiện
Đại hội XI, sách đã dẫn, tr, 173.
[30] Tên quyển sách “Người
Trung Quốc xấu xí”, của Bá Dương.
Lên trang
viet-studies ngày 25-10-11
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_2.htm |