Viễn tưởng
Lời nói đầu :
Trong khi viết bài “Việt
Nam và vấn đề sử dụng người tài trong giai đoạn hiện nay”
(Thời Đại Mới – số 22, tháng 8 – 2011), như một tất yếu
khách quan, tôi đụng chạm phải nhiều vấn đề nóng bỏng trong
bối cảnh đất nước đang đứng trước ngã ba đường, hoặc là..,
hay sẽ là…. Ngay lập tức tôi bị thôi thúc: Phải nói suy nghĩ
của mình về những câu hỏi tự mình đặt ra trong bài viết này.
Lẽ đơn giản tôi không được phép chỉ đóng vai “người bình
luận”.
Tôi dự định sẽ tìm cách trình bày tập trung những suy nghĩ
của mình liên quan đến những câu hỏi đề ra vào 3 bài viết
tiếp theo:
Với tất cả nỗ lực, tôi cố bám sát thực tế nghiệt ngã, chỉ để
tìm ra những khả năng khả thi tối thiểu có thể có trong tình
hình hiện nay cho việc giải quyết một số vấn đề hệ trọng đất
nước. Tuy nhiên với nhiều lý do xác đáng, sẽ có những câu
hỏi khó hoặc đến nay tôi chưa thể trả lời được. Vì những lẽ
này, cả ba bài dự định viết này sẽ có cái tựa đề chung là
Viễn tưởng.
Sự thôi thúc trong thâm tâm khiến tôi bỏ qua mọi hạn chế và
ngần ngại của bản thân, liều lĩnh viết ra 3 bài viết này với
hy vọng sẽ nhận được sự trao đổi rộng rãi trong dư luận.
Tất cả vì tổ quốc yêu dấu của chúng ta.
Bài 3
Đảng Cộng Sản Việt Nam phải
giành lại
vai trò lãnh đạo bị đánh mất
hay là
Hoang tưởng?
Đặt vấn đề
Hy vọng các
bài về “vấn đề hiền tài”, Bài 1 và Bài 2 đã ít nhiều: (1)
phác họa ra được bước ngoặt quyết liệt phía trước
đất nước ta đang phải đối mặt, (2) phân tích đòi hỏi
bất khả kháng là phải thông qua cuộc cải cách sâu
rộng, triệt để thể chế chính trị, kinh tế, và đổi mới toàn
diện đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, (3) đặt vấn đề
trên cơ sở kế thừa sáng tạo những thành tựu đã giành được và
vận dụng mọi thành quả của văn minh nhân loại tìm đường đưa
đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới để tồn tại
và có chỗ đứng xứng đáng trong cục diện thế giới quyết liệt
này nay.
Điểm (3) nêu
trên đồng thời phản ánh niềm tin của người viết là: Thông
qua con đường cải cách phòng ngừa không để cho bất khả kháng
xảy ra đổ vỡ theo kiểu “cách mạng của các mùa hoa”
như ở châu Phi, thực hiện sự kế thừa sáng tạo cho phát
triển, thường xuyên thúc đẩy sự tiến hoá (evolution) về mọi
mặt, đưa đất nước đi vào con đường trở thành nước
phát triển.
Người viết
cũng hy vọng: Con đường của sự kế thừa sáng tạo là kịch bản
tiết kiệm xương máu nhất và tối ưu nhất về mọi mặt trong
tình hình đối nội và đối ngoại của đất nước ngày nay. Kịch
bản này là hiện thực, nếu trí tuệ và lý trí, nhất là ý chí
không cam chịu số phận nô dịch và lệ thuộc một lần nữa,
giành được tiếng nói quyết định trong cuộc sống đất nước.
Chủ động cải cách trước khi đổ vỡ có thể xảy ra, hoặc cải
cách sau khi đổ vỡ xảy ra, một trong hai con đường ấy bằng
cách này cách khác sẽ diễn ra. Bởi vì chắc chắn dân tộc ta
không thể đứng yên tại chỗ cam chịu số phận lệ thuộc và bị
uy hiếp như hiện tại, trước sau nhất định sẽ tìm đường trở
thành nước phát triển.[1]
Ý thức vừa
trình bày trên của người viết là lý do phải có Bài 3, dành
riêng bàn về vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Vì trong những điều
kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ĐCSVN là vấn đề cốt lõi,
sẽ quyết định có hay không có, thực hiện được thành công hay
thất bại cuộc cải cách sâu rộng và triệt để cần phải có này.
Bài 3 không
làm nhiệm vụ đánh giá những thành tựu đã đạt được, mà chỉ
tập trung phân tích một số vấn đề liên quan đến đòi hỏi bức
thiết đối với đất nước và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng.
I. Nhìn thẳng vào sự thật:
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời bình bị tước bỏ như thế
nào?
Có thể nói
khái quát, (1) ý thức hệ - nhất là quan điểm về đấu tranh
giai cấp và thiết lập chuyên chính giai cấp, (2) quán tính
quyền lực thời chiến kể từ khi tiến hành Cách mạng Tháng Tám
đến hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất đất
nước, (3) di sản của truyền thống phong kiến bắt rễ sâu
trong đời sống tinh thần và văn hóa của dân tộc và ngày nay
còn hằn sâu trong nếp nghĩ mọi người, (4) tình trạng kinh
tế, văn hóa, xã hội của một nước tiểu nông manh mún lạc hậu
và chậm phát triển, và (5) tác động của thế giới bên ngoài –
nhất là quá trình toàn cầu hóa phức tạp và sự sụp đổ của hệ
thống thế giới xã hội chủ nghĩa tạo ra tình huống vừa “miễn
cưỡng phải đổi mới”, vừa ra sức “cố thủ” trong dinh lũy của
ý thức hệ, đấy là 5 yếu tố hiện nay đang chi phối quyết định
sự hình thành và vận động của quyền lực Đảng trong thời
bình.
Năm yếu tố nói
trên tác động quyết định vào việc thiết kế, xây dựng và hình
thành hệ thống chính trị và toàn bộ đường lối, chính sách
của Đảng trong thời bình.
Nhìn lại lịch
sử, có thể nhận xét: Trong chính trường quốc gia, quyền lực
Đảng Cộng Sản Việt Nam là tối thượng đã làm tốt vai trò của
nó trong thời chiến, bởi vì chiến tranh đòi hỏi như thế.
Có hiện tượng
tích cực nói trên, trước hết bởi lẽ cuộc (a) cuộc sống khách
quan khắc nghiệt của chiến tranh đòi hỏi phải có sự thống
nhất tuyệt đối từ tư duy đến hành động, (b) trong hoàn cảnh
thời chiến, chất lượng con người và chất lượng Đảng thường
xuyên phải tôi luyện, thử thách trong những đòi hỏi khắc
nghiệt. Tình hình này diễn ra xuyên suốt thời kỳ chiến
tranh, tạo ra trong Đảng sự thống nhất gần như đồng nghĩa
với nhau giữa một bên là quyền lực trong Đảng và một bên là
Đảng. Đó cũng là thời kỳ có sự thống nhất gần như tuyệt đối
về mọi mặt trong Đảng: sự thống nhất giữa đường lối chủ
trương của Đảng và nhận thức tư tưởng của đảng viên, giữa
cấp trên và cấp dưới, giữa mục tiêu chiến đấu của Đảng và lý
tưởng của đảng viên… Và trên hết cả, thời kỳ này còn tạo ra
sự thống nhất rất cao giữa một bên là lợi ích của Đảng cần
hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất đất nước
để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, và một bên là mục
tiêu kháng chiến cứu nước của toàn dân tộc.
Sự thống nhất
nói trên đã tạo ra được hài hòa và bản chất tốt đẹp của thể
chế chính trị tồn tại trong thời chiến, thiết lập được các
chuẩn mực đạo lý trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của đất nước, qua đó có khả năng mãnh liệt loại bỏ
mọi tha hóa. Chính sự thống nhất này là nguồn gốc sức mạnh
của kháng chiến.
Tha hóa là
hiện tượng thường xuyên diễn ra với tính cách là một mặt
khác của sự vận động tất yếu (khách quan) trong mỗi sự vật.
Song như đã nói trên, trong suốt thời chiến, quá trình tha
hóa này được kiểm soát chặt chẽ bởi những thử thách khắc
nghiệt của chiến tranh và bởi ý chí thống nhất mọi mặt trong
Đảng và bởi sự thống nhất giữa Đảng và dân tộc như vừa trình
bày. Trong bối cảnh như vậy, đây chính là thời kỳ đất nước
có được chế độ chính trị về mặt tinh thần gần như đồng nghĩa
với tổ quốc.[2]
Tất cả cho thấy, để thực hiện được sứ mệnh được giao, quyền
lực tối thượng của một đảng cách mạng nhất thiết phải được
kiểm soát chặt chẽ, kể cả trong trường hợp nó giữ vai trò là
quyền lực duy nhất trong một quốc gia.
Trong thời
bình của hệ thống chính trị một đảng, quyền lực Đảng
là tối thượng mất hẳn mọi yếu tố nhất thiết phải có
cho việc kiểm soát quá trình tha hóa tự nhiên của nó.
Trong khi đó,
quá trình vận động và phát triển của đất nước trong thời
bình không có một hệ thống chính trị và pháp quyền cũng như
những điều kiện văn hóa, xã hội khác để có thể kiểm soát có
hiệu quả mọi diễn biến tiêu cực, do đó tự quá trình phát
triển này của đất nước cũng làm nảy sinh quá trình tha hóa
rất đặc thù của chính nó.
Vì thế xuất
hiện tình hình, một là sự tha hóa nội tại của Đảng
trong tình hình có những hẫng hụt mới trong thực hiện các
nhiệm vụ của thời bình và không còn môi trường kiềm chế phải
có, hai là sự tha hóa tất yếu trong quá trình phát
triển của một đất nước có những hoàn cảnh và điều kiện yếu
kém ban đầu của nước ta (nhất là từ khi buộc phải đi vào con
đường của kinh tế thị trường),[3]
– cả hai nhân tố này đẩy nhanh hơn nữa sự
tha hóa tự thân hôm nay trong Đảng.
Diễn tiến tha
hóa trong Đảng đến từ hai phía như vậy là sự vận động khách
quan của bản thân sự vật, nghĩa là trở thành vấn đề của bản
chất hệ thống, không một ý chí hay đạo đức nào có thể phủ
định nó. Thực tế này cắt nghĩa vì sao trong thời bình Đảng
và hệ thống chính trị một đảng lại tha hóa nhanh và toàn
diện như vậy, cái quán tính lịch sử (nêu trong
Bài 2) lên ngôi nhanh như vậy, sức đề kháng chống lại diễn
tiến tha hóa này ngày càng yếu đi. Đây là nguyên nhân chính
của thực trạng khủng hoảng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội hiện nay của đất nước.
Trong khi đó,
vì sự tồn tại của mình trong thời bình, lại phải đối mặt với
những bất cập mới, Đảng đứng trước yêu cầu phải làm tất cả
để củng cố vị thế và quyền lực duy nhất và tuyệt đối của
mình với tính cách vừa là người lãnh đạo và vừa là người
cầm quyền. Những yếu kém và bất cập tất yếu của Đảng vì thế
ngày càng nhiều. Càng củng cố theo hướng không phát huy dân
chủ như vậy, càng yếu kém và lúng túng. Như một vòng xoáy
luẩn quẩn, hệ quả là lại vấp phải bất cập nhiều hơn. 19 điều
cấm đối với đảng viên, nhiều luật lệ mới và những quy định
khác ra đời trong hoàn cảnh như thế, song không đem lại kết
quả mong muốn[4],
tha hóa cứ tiếp tục diễn tiến theo con đường của nó.
Hệ quả chung
nhất là chất lượng Đảng sau mỗi Đại hội toàn quốc thấp dần;
uy tín, ảnh hưởng và quyền lực lãnh đạo của Đảng giảm sút,
càng thúc đẩy xu thế đảng hóa mọi mặt đời sống đất
nước để củng cố vị thế của mình. Mặt khác bản thân sự tha
hóa và tệ nạn quan liêu tham nhũng trong xã hội cũng thúc
đẩy ngày càng mạnh xu thế đảng hóa. Toàn bộ sự
vận động này đã từng bước đẩy lùi Đảng từ người lãnh đạo
xuống vai trò người trực tiếp nắm toàn diện và tuyệt đối mọi
quyền hành đối với đất nước: người cai trị.
Vai trò thực
chất nói trên của Đảng hiện nay có những đặc điểm sau đây:
(1) Tính
chuyên chính – được thực hiện nhân danh bảo vệ sự lãnh đạo
tuyệt đối và toàn diện của Đảng, nhân danh tính giai cấp của
hệ thống chính trị và của nhà nước pháp quyền định hướng xã
hội chủ nghĩa.
(2) Tính thiếu
công khai minh bạch, được thực hiện với mục đích bảo đảm
quyền lực của Đảng là người quyết định tất cả mọi việc liên
quan đến toàn bộ vận mệnh đất nước, được thực hiện triệt để
trong toàn Đảng và trong cả nước. Đây là nguyên nhân trực
tiếp nhất gây mất dân chủ nghiêm trọng trong Đảng và trong
toàn bộ đời sống đất nước.
(3) Vì đặt yêu
cầu “quán triệt” bảo đàm vai trò lãnh đạo tuyệt đối và
toàn diện của quyền lực Đảng, nên duy ý chí, không
lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, ngày càng xa dời thực tế
khách quan của đất nước và bối cảnh thế giới. Chính vì
lẽ này, quyền lực Đảng không quan tâm nuôi dưỡng, phát huy
trí tuệ, ý chí, khả năng và quyền năng của từng công dân và
của toàn thể nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất
nước. Thực hiện yêu cầu bảo đảm sự “quán triệt” và
sự “lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng” như thế, Đảng
giữ độc quyền chân lý, nhiều khi bưng bít sự thật, đi ngược
nguyện vọng của dân, bóp chết nhiều sáng kiến. Trên thực tế
và về nhiều phương diện là thực hiện chính sách ngu dân, kể
từ trong giáo dục trở đi.
(4) Cần đặc
biệt lưu ý 3 đặc điểm nêu trên dẫn đến đặc điểm (4) như là
một hệ quả tất yếu: Sự quán triệt như vậy chi phối tuyệt đối
và toàn bộ nội dung sinh hoạt Đảng, trực tiếp phân hủy sức
sống và ý chí cách mạng của đảng viên, lấy đi năng lực và
phẩm chất tiền phong chiến đấu Đảng vốn đã gây dừng được cho
mình trong suốt quá trình kể từ ngày thành lập đến khi hoàn
thành sự nghiệp giải phóng, giành lại độc lập và thống nhất
đất nước. Trong Đảng, tất cả hầu như chỉ còn lại sự quán
triệt của cấp dưới đối với ý chí của cấp trên, sự quán triệt
của toàn Đảng đối với ý chí của những người nắm thực quyền
trong Đảng; sinh hoạt Đảng chủ yếu chỉ còn lại hai nội dung
là (1) nghe phổ biến và (2) quán triệt, nghĩa là rất nghèo
nàn. Chính thực tế này đã làm cho trí tuệ và tính tiền
phong chiến đấu của Đảng teo tóp dần. Hệ quả là: (a) quyền
lực Đảng từng bước và về nhiều mặt trở thành quyền lực trực
tiếp của những người, những nhóm có quyền lực hay có ảnh
hưởng chi phối trong Đảng, (b) làm cho toàn Đảng trở thành
người đầu tiên thực thi mọi điều mà ý muốn
quyền lực của Đảng đòi hỏi phải “quán triệt” trước khi đưa
ra thực thi trong cả nước. Kết cục: Chính
bản thân Đảng cũng trở thành đối tượng, thành nạn nhân,
thành phương tiện của quyền lực Đảng.
Bốn đặc điểm
nêu trên là nguyên nhân chủ yếu tạo ra trong đời sống quốc
gia sự tồn tại một kiểu nhà nước trên thực tế (the state
de facto) có thực quyền là hệ thống đảng trị; nhà nước
pháp quyền được được thiết lập theo Hiến pháp trên thực tế
trở thành người thừa hành quyền lực Đảng, thừa hành quyền
lực của cái “the state de facto” nói trên. Trước và
sau các Đại hội X và Đại hội XI đã có nhiều ý kiến phân tích
sâu sắc sự phát triển nguy hiểm này trong Đảng, đã đặt tên
cho hiện tượng này là làm vua tâp thể (Nguyễn
Văn An). Đây là nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất đang kìm
hãm sự phát triển của đất nước.
II. Sự cố thủ bảo vệ quyền lực Đảng và đòi
hỏi phải cải cách
Giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quan điểm
quyền lực của nhà nước là thống nhất – đấy là
hai tiêu chí quyết định tư duy và hành động của Đảng, chi
phối mọi chủ trương chính sách của Đảng, cố thủ giữ cho Đảng
và đất nước không chệch hướng.
Có rất nhiều
vấn đề để bàn chung quanh sự cố thủ này. Trong phạm vi Bài 2
chỉ xin tập trung vào hai vấn đề dưới đây.
II.1. Về
tập đoàn kinh tế nhà nước
Trong thực tế,
các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nắm giữ ước lượng
khoảng 60 – 70% vốn và tài sản quốc gia, được giao cho nhiều
quyền lực chính trị, và tự thân các tập đoàn này cũng tạo ra
cho mình nhiều quyền lực và ảnh hưởng quan trọng mang tính
độc quyền. Những yếu kém của hệ thống chính trị, cùng với
những yếu kém khó tránh khỏi trong quản lý nền kinh tế quốc
dân, sự lũng đoạn của các tập đoàn, tất yếu dẫn đến sự xuất
hiện các nhóm lợi ích có ảnh hưởng chi phối
toàn bộ đời sống đất nước và hầu như vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của Cương lĩnh và Điều lệ Đảng cũng như của Hiến pháp
và luật pháp của quốc gia.
Một trong
những “sản phẩm” quan trọng nhất của tình hình nêu trên là
quy định cho phép các tập đoàn được huy động tới 30% tổng
vốn của mình cho mọi hoạt động kinh doanh khác nghề
(nghĩa là kinh doanh các sản phẩm không thuộc chức
năng chính được giao cho tập đoàn). Hệ quả là trên thực tế
khó mà nói dứt khoát được rằng cái gì là sản phẩm chính của
tập đoàn kinh tế nhà nước; tính công khai minh bạch của các
tập đoàn kinh tế nhà nước hầu như là không thể, thị trường
nhiễu loạn, tính quy hoạch của nền kinh tế bị phá vỡ, và vai
trò kiểm soát của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng, nhiều
trường hợp là không còn.
Gần như tất cả
các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay đều là các nhân vật
chính trong hệ thống ngân hàng, trên thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản, và n các thị trường
khác của những sản phẩm dễ “đánh quả” nhất – vô luận những
sản phẩm này có thể để lại những hậu quả gì ngắn hạn và dài
hạn cho đất nước. Chỉ riêng tình trạng cả nước không còn một
sông suối nào thoát khỏi ô nhiễm, khai thác khoáng sản đào
bới tanh bành đất nước, quy hoạch công nghiệp và đô thị
chồng chéo giẫm đạp lên nhau, càng phát triển càng ách tắc,
hàng trăm hàng nghìn dự án treo, sân golf la liệt khắp nơi
trong một đất nước đất hẹp người đông, chất lượng sản phẩm
của các tập đoàn cung cấp cho nền kinh tế quốc dân nói chung
thấp và đắt… Những hiện tượng này đủ nói lên mức độ nghiêm
trọng của tình hình. Trong khi đó sẵn sàng để cho vốn nước
ngoài chiếm ngày càng nhiều hoặc chiếm đứt thị trường của
những sản phẩm quan trọng – mới đây nhất là toàn bộ sản xuất
trong nước thức ăn gia xúc đã bị tư bản (vốn) Trung Quốc tóm
gọn.
Nhìn vào tình
hình nợ và lỗ của nhiều tập đoàn, nhìn vào khả năng thanh
khoản thấp của nhiều ngân hàng thương mại, sự đổ vỡ từ nhiều
năm nay của thị trường địa ốc, nhìn vào giá trị tài sản trên
thị trường chứng khoán ngày nay chỉ còn lại khoảng ⅓ hay ¼,
thậm chí có khi chỉ còn lại 1/5 so với thời cao điểm cách
đây một số năm… đều thấy dấu ấn của các tập đoàn kinh tế nhà
nước. Thật dễ hình dung nền kinh tế quốc dân bị rút ruột như
thế nào. Đất đai và nhiều tài nguyên khác Nhà nước có thể
bán đi đã bán khá nhiều rồi, có thứ đã bán gần hết, song Nhà
nước vẫn thiếu vốn và nghèo, trong khi đó xuất hiện những
đại gia một cách khó hiểu và rất điển hình của sự tích tụ tư
bản ở thời kỳ hoang dại.
Việc các nhà
thầu Trung Quốc thắng thầu EPC có tới cả trăm công trình
kinh tế quan trọng của quốc gia, thuê được nhiều nghìn ha
rừng tại những địa điểm xung yếu trong cả nước, chiếm được
thị phần quan trọng trong nhiều thương vụ, vân vân… về nhiều
phương diện và trong nhiều trường hợp là kết quả hợp tác hay
có sự môi giới của các tập đoàn kinh tế nhà nước hữu quan;
ví dụ dự án EPC cho khai thác bô-xít Tây Nguyên là kết quả
hợp tác của tập đoàn TKV (Tập đoàn than và khoáng sản Việt
Nam). Một số công trình nhiệt điện do tập đoàn EVN là chủ
đầu tư, bên trúng thầu EPC là các công ty Trung Quốc, đang
chậm tiến độ nghiêm trọng và chất lượng có nhiều vấn đề.
Trong khi đó tuy còn hiếm, nhưng không phải không có những
công trình do các công ty của ta trúng thầu EPC với giá
thành thấp hơn, tiến độ thi công nhanh hơn và chất lượng tốt
hơn – ví dụ những công trình khí, điện, đạm do tập đoàn
Lilama trúng thầu và đã được thực hiện tốt.
Tình hình
nghiêm trọng nói trên đã đặt ra cho Hội nghị Trung ương 3
(tháng 10-2011) đòi hỏi phải tái cấu trúc doanh nghiệp nhà
nước mà trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước,
và phải thực hiện việc này xong trước năm 2015.
Tuy nhiên, làm
thế nào để thực hiện được đòi hỏi nói trên, nếu quyền lực
của Đảng và quyền lực của Nhà nước bị mất hiệu lực đáng kể
do cấu trúc lồng ghép chồng chéo vào nhau như hiện nay của
hệ thống chính trị và do sự chi phối nghiêm trọng của các
nhóm lợi ích?
Hơn thế nữa
nhóm lợi ích và khuynh hướng bảo thủ trì trệ chắc chắn sẽ
bám vào quan điểm đã ghi thành văn trong Nghị quyết và trong
Cương lĩnh của Đại hội XI để cố thủ:
- “Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” (Cương
lĩnh).
- “Kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô.” (Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 – 2020)[5].
Trí tuệ trong
Đảng và ngoài xã hội từ lâu đã có nhiều ý kiến đúng đắn: Cần
phải sớm cắt bỏ khoản “30% vốn cho kinh doanh khác nghề” ra
khỏi các tập đoàn nhà nước, đẩy các tập đoàn này vào thị
trường để họ hoạt động một cách bình đẳng như các thành phần
kinh tế khác, chỉ giao cho các tập đoàn này những sản phẩm
mà khu vực kinh tế tư nhân không làm tốt bằng hoặc không
cáng đáng nổi, đẩy mạnh cổ phần hóa, thực hiện quy chế công
khai minh bạch, xây dựng hệ thống kiểm tra thanh tra độc lập
với Chính phủ (có thể nên đặt dưới quyền điều hành trực tiếp
của Quốc hội) để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, vân
vân...
Các nhóm lợi
ích chi phối các tập đoàn kinh tế nhà nước có khả năng khống
chế tới mức trong điều hành công việc nhà nước nhiều khi xảy
ra hiện tượng cái đầu không vẫy được cái đuôi. Có
người đã nói tập đoàn A này là sân sau của ông XYZ…
Vì vậy rất cần
ý chí và quyền lực để thực hiện được những điều đúng đắn mà
trí tuệ cả nước đã kiến nghị đối với việc tổ chức lại tập
đoàn kinh tế nhà nước.
II.2. Về
quyền lực nhà nước là thống nhất
Quan điểm này
được đưa ra với mục đích bác bỏ nguyên tắc tam quyền phân
lập trong thiết kế bộ máy nhà nước, thực chất là để bảo đảm
quyền lực tuyệt đối của Đảng chi phối toàn bộ hệ thống chính
trị và bộ máy chính quyền.
Có thể nói
ngay thế này, chính vì Nhà nước trên thực tế là bộ máy thừa
hành quyền lực Đảng, do đó nhìn về bất kỳ phương diện nào
nguyên tắc tam quyền phân lập là không thể.
Ở đây có vấn
đề: Nói quyền lực nhà nước là thống nhất, cần làm rõ là nó
phải được thống nhất với cái gì, trên nền tảng nào?
Nếu là sự
thống nhất nằm trong khuôn khổ quyền lực của Đảng, hay đấy
là sự thống nhất với quyền lực của Đảng, hiển nhiên sự thống
nhất ấy chỉ có thể đẻ ra một nhà nước đảng trị, một nhà nước
chủ yếu làm nhiệm vụ thừa hành quyền lực của Đảng. 35 năm
qua nước ta đã có và hiện nay đang có một hệ thống nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa, do Đảng nắm quyền
tuyệt đối.
Đúng, ở mọi
quốc gia quyền lực nhà nước phải thống nhất. Song nếu là nhà
nước pháp quyền đích thực và thực sự có quyền lực, thì nhất
thiết cấu trúc của quyền lực này phải thống nhất trên cơ sở
của Hiến pháp và duy nhất chỉ trên cơ sở của Hiến pháp mà
thôi!
Cho đến nay,
văn minh nhân loại chắt chiu qua những bài học không ít
xương máu từ thời đại này sang thời đại khác, chỉ thiết kế
nên được một hình mẫu nhà nước pháp quyền khả dĩ thành công
là nhà nước thống nhất trong khuôn khổ của Hiến pháp và được
thiết kế theo nguyên tắc tam quyền phân lập – đấy là nguyên
tắc kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau giữa 3 quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Thực tế này xuất phát từ một nguyên lý
mang tính quy luật của cuộc sống: Quyền lực ở đâu cũng luôn
luôn đòi hỏi phải được tiết chế, được kiểm soát để không bị
lạm dụng hay trở thành bạo lực. Một nhà nước pháp quyền
không có quyền lực thì chỉ có thể là một công cụ của một thứ
quyền lực khác. Một nhà nước pháp quyền có quyền lực mà
không có tam quyền phân lập thì dễ là con mồi của mọi ý đồ
xấu, và nếu nó có thực quyền thì đấy sẽ là thực quyền của
bạo lực hoặc có khả năng luôn luôn bị bạo lực lũng đoạn.
Một nhà nước
có Hiến pháp tốt nhất và thực hiện đúng nhất nguyên tắc tam
quyền phân lập cũng không thể tránh khỏi khuyết tật, vì tất
cả đều là sản phẩm của con người, được vận hành theo phẩm
chất hay bản năng của con người. Dù thế đi nữa, cho đến nay
trí tuệ loài người vẫn chưa phát minh ra được một thứ gì đó
tốt hơn. Và chính vì lẽ này, cuộc sống đòi hỏi phải thường
xuyên có điều chỉnh, thay đổi và phát triển, phải thường
xuyên thực hiện được sự kiểm soát của nhân dân thông qua
thực hiện dân chủ và công khai minh bạch. Cần phải có một xã
hội dân sự mạnh để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền lực của
mình cũng chính vì lẽ này.
Hiến pháp năm
1946 được thiết kế theo đúng mục đích xây dựng một nhà nước
pháp quyền có quyền lực, được xây dựng theo nguyên tắc tam
quyền phân lập, để có khả năng thực thi nhiệm vụ là nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
So sánh Hiến
pháp 1946 với những Hiến pháp đang hiện hành ở nhiều quốc
gia tiên tiến trên thế giới như Đức, Pháp, Mỹ, Anh.., phải
nói Hiến pháp 1946 là thuộc loại hiện đại, giản dị, dễ hiểu
và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta, bảo đảm tối
ưu tự do và các quyền và nghĩa vụ của người dân. Hiến pháp
1946 khẳng định quan hệ giữa người dân và Nhà nước là quan
hệ của công dân với tính cách là người chủ đất nước, ủy thác
những quyền nhất định cho Nhà nước thi hành (các Điều 1, 4,
5, 6, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 15, 17,18, 21, 32, 70). Hiến
pháp 1946 nhấn mạnh quyền phúc quyết của người dân đối với
Hiến pháp và các vấn đề quốc gia trọng đại (các Điều 21, 32
và 70). Hiến pháp 1946 làm rõ quyền lực nhà nước chỉ được
phép làm gì (các điều trong các Chương III, IV…). Hiến pháp
1946 phòng ngừa và loại bỏ khả năng nhà nước bị các lực
lượng chính trị đứng ngoài hay đứng trên Hiến pháp chi phối:
Ngoài các thể thức ứng cử và bầu cử, xây dựng Nghị viện, bộ
máy Chính phủ và chính quyền các cấp, Hiến pháp không có một
quy định nào dành riêng cho bất cứ một lực lượng chính trị
nào bất kể quyền gì.
Do được xây
dựng cách đây gần 65 năm, Hiến pháp 1946 không thể tránh
khỏi một số điều còn giản lược, nhất là trong phần tư pháp
còn thiếu hẳn phần nói về Tòa án Hiến pháp. Tuy nhiên, xin
lưu ý ngay cả ở nhiều nước phát triển – ví dụ Cộng Hòa Liên
Bang Đức – Tòa án Hiến pháp cũng chỉ bắt đầu có từ những năm
1950, nhiều nước khác ở châu Âu mới có Tòa án Hiến Pháp từ
những năm trong một hai thập kỷ chót của thế kỷ trước…
Đương nhiên
Tòa án Hiến pháp là một đòi hỏi mới của phát triển. Cuộc
sống ở mọi quốc gia trong thế giới ngày nay tất yếu đòi hỏi
phải có Tòa án Hiến pháp đứng trên mọi quyền lực quốc gia để
xử lý những vấn đề của quốc gia trên cả 2 phương diện đối
nội và đối ngoại. Sự phát triển của mỗi quốc gia càng cao,
các mối quan hệ trong - ngoài càng có nhiều
vấn đề mới và phức tạp, quá trình hội nhập quốc tế càng phát
triển, Tòa án Hiến pháp ngày nay càng trở thành một đòi hỏi
tất yếu đối với mọi quốc gia.
Từ là người
dân mất nước, giành lại được độc lập tự do của tổ quốc,
khẳng định quyền độc lập của đất nước và các quyền của công
dân một nước tự do, Hiến pháp 1946 là một thành quả cách
mạng vỹ đại, đoàn kết toàn dân tộc không phân biệt một ai để
bảo vệ và thực hiện những quyền ấy. Lời nói đầu của Hiến
pháp 1946 xác định 3 nguyên tắc để xây dựng Hiến pháp:
-
“Đoàn kết toàn dân
không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp tôn giáo,
-
Đảm bảo các quyền tự
do dân chủ,
-
Thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.”[6]
So sánh bao
giờ cũng là một công việc rất khó, tuy nhiên về mặt nào đó
mà xét, Hiến pháp 1946 còn là một tài sản chính trị và tinh
thần quý báu của dân tộc ta, mở ra hay đánh dấu một thời đại
mới của đất nước ta: Thời đại của một quốc gia độc lập trong
thế giới văn minh hiện đại. Với tính cách như thế, Hiến pháp
1946 có giá trị thiêng liêng có thể sánh với Hịch Tướng Sỹ,
Bình Ngô Đại Cáo. Hiến pháp 1946 chính là hiện thân sự thực
thi ý chí quyền lực của nhân dân nói trong Tuyên Ngôn Độc
Lập 02-09-1945.
Nhân dân là
chủ thể của Hiến pháp. Bài viết của đại tá tiến sỹ Nguyễn
Văn Quang “Đừng nhầm lẫn từ “nhân dân” trong hiến pháp”
đăng trên QĐND online ngày 23-10-2011 là một sự giải thích
tùy tiện quá đáng khái niệm “nhân dân” trong Hiến pháp năm
1946 và qua đó hiểu sai toàn bộ Hiến pháp 1946. Giải thích
tùy tiện như vậy của người viết là một sự xúc phạm không thể
chấp nhận được đối với văn kiện lịch sử này của đất nước.
Mức độ sai
trái và ảnh hưởng của bài báo này và những bài báo tương tự
như thế trên các báo chính của Đảng và Nhà nước dù thế thế
nào đi nữa cũng là chỉ có giới hạn, cùng lắm là nhằm giải
thích sai một sự thật nào đó, hoặc để cung cấp một số lập
luận cho những người thi hành công vụ khi họ làm những việc
được giao. Tác hại lớn hơn nhiều và khó lường lại nằm ở chỗ
các cơ quan chức năng hữu quan hay các cơ quan có quyền lực
của Đảng lại chủ trương dùng những bài báo như thế như là
một thứ vũ khí để bảo vệ tính chính đáng của mình, hướng dẫn
dư luận và thực hiện chuyên chính với mọi điều trái với sự
chỉ đạo của quyền lực Đảng. Kết quả đạt được chỉ làm cho
nhân dân thêm xa Đảng và làm yếu đất nước.
Kỷ cương của
đất nước, Cương lĩnh và Điều lệ ở trong Đảng, Hiến pháp và
luật pháp của quốc gia sở dĩ không thực hiện nghiêm túc
được, trước hết là do hệ thống chính trị có cấu trúc chồng
chéo giữa Đảng với chính quyền, bộ máy của toàn bộ hệ thống
được đảng hóa, vận động dưới sự chỉ huy của quyền lực Đảng
nhân danh bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng và nhân danh quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất
như đã ghi trong các văn kiện chính thức của Đảng và trong
những bài phát biểu của các lãnh đạo cao cấp.
Xem xét riêng
trong bộ máy nhà nước, tình trạng đất nước có nhiều chuyện
không nghiêm như hiện nay, có một phần quan trọng là do sự
thiếu vắng trong hệ thống nhà nước nguyên tắc tam quyền phân
lập trên cơ sở của Hiến pháp, do sự hoành hành của cơ chế
xin cho, của các hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy
tội.., do quyền lực Đảng quyết định mọi công việc của Nhà
nước nhưng không thể truy cứu trách nhiệm khi mắc sai lầm.
Gần đây nhất,
Nghị quyết Đại hội XI ghi “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI,
toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta
trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.”[7]
Song để đi tới quyết định quan trọng này, cho đến nay chưa
thấy một đánh giá chính thức và công khai nào của Đảng về
tình hình thực hiện mục tiêu chiến lược “đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020” đưa ra cho nhân dân, cho Quốc hội, để trí tuệ
cả nước bàn bạc xem xét đúng/sai thế nào, ưu khuyết gì, nên
hay không nên tính đến 2050, chấp thuận hay không chấp
thuận... Làm như thế, hiển nhiên là Đảng đã quyết thay dân,
thay Nhà nước, đưa ra cho dân và cho bộ máy nhà nước cứ thế
mà làm... Chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên, phá bỏ
nhà Quốc hội cũ, xáp nhập Hà Tây vào Hà Nội… là những ví dụ
cụ thể khác ở tầm quy mô khác của phương thức cầm quyền như
vậy. Nếu có ý kiến không đồng tình hay phản bác từ phía dân,
thường thường được giải thích: …đây là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước… Chấm hết.
Hiện tại đang
có nhiều ý kiến sôi nổi trong nhân dân về sửa đổi Hiến pháp.
Song đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo là sửa đổi gì cũng
phải trong khuôn khổ Cương lĩnh của Đảng… Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Sinh Hùng giải thích cụ thể hơn, đại ý: Sửa đổi gì
cũng phải bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng, sửa thế nào phải
báo cáo Bộ Chính trị!.. Vậy ai là người cuối cùng phúc
quyết Hiến pháp?
Đấy là những
ví dụ mới nhất về đảng trị đang diễn ra.
Xin hỏi,
tại sao không đặt ngược lại:
Bộ Chính trị phát huy dân chủ trong toàn Đảng và cả nước
nghiên cứu kỹ tình hình mọi mặt đất nước hiện nay, huy động
trí tuệ cả nước và những kinh nghiệm quý báu của thế giới,
lãnh đạo cả nước dựa vào đó đem hết trí tuệ và tâm huyết xây
dựng Hiến pháp mới đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của đất nước
trong tình hình mới; sau đó Đảng căn cứ vào Hiến pháp mới và
căn cứ vào đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới mà tổ chức lại
chính mình, đề ra Cương lĩnh và chương trình hành động của
mình, với mục đích lãnh đạo cả nước thực hiện thành công
Hiến pháp mới và những nhiệm vụ mới?
Làm như thế
nước ta yếu đi hay mạnh lên? Hay là làm như thế không phải
là lãnh đạo?
II.3. Đòi
hỏi phải cải cách toàn diện và triệt để đặt ra đối với Đảng
Các ý kiến,
kiến nghị của các trí thức và tầng lớp nhân nhân dân khác
nhau gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những tháng vừa qua
đã nói lên đầy đủ vì sao phải tiến hành cải cách toàn diện
và sâu rộng chế độ chính trị, hệ thống kinh tế của đất nước,
đồng thời phải đổi mới toàn bộ đời sống tinh thần, văn hóa,
xã hội cả nước, nêu ra những việc cần làm.
Phần này
xin bàn riêng về Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Trước hết xin
nhắc lại
Một là
chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều thay đổi và
thách thức mới sâu rộng, toàn diện, khó lường. Vận tốc và
quy mô, tác động của những thay đổi này nhiều khi làm chúng
ta chóng mặt. Xin nêu một ví dụ gần đây nhất để minh họa:
Chỉ mới đêm hôm trước họp Hội nghị G20 ở Cannes (Pháp,
03-11-2011), việc Thủ tướng Hy Lạp George Papandreouthấy cần
phải nêu ra trưng cầu dân ý để cáng đáng những gánh nặng vỡ
nợ, khiến cho nguy cơ đồng Euro bị vỡ cận kề, thị trường
tài chính tiền tệ cả thế giới nín thở - vì lo lắng có thể
xảy ra những hệ lụy domino khó lường; ngày hôm sau kết quả
của hội nghị Cannes trước mắt đã tạm thời giải tỏa
tình hình này, nhiều quốc gia thở phào! Những ví dụ thời sự
có tầm vóc như thế trên thế giới ngày càng nhiều: từ sự kiện
Tunisie hôm qua… đến nhiều quyền lợi của con người bị quá
trình toàn cầu hóa đầy chông gai nuốt mất, đến sự kiện chiếm
phố Wall, đến đồng USD tiếp tục mỏng đi và đồng Euro bị sứt…
vân vân… Tất cả khiến chúng ta không kịp thở, và sẽ còn tiếp
tục như vậy. Chỉ có thể kết luận: Cùng với cộng đồng
các quốc gia trên thế giới, nước ta đang bước vào một thế
giới khác hẳn trước, đòi hỏi phải có những thay đổi sâu sắc.
Nhìn vào khu vực Đông Nam Á, điều này chắc càng nóng bỏng
đối với nước ta.
Hai là:
Sau 35 năm đầu tiên phát triển trong thời bình, nhất là sau
những gì 25 năm đổi mới đã làm được, nước ta đứng trước đòi
hỏi nhất thiết phải chuyển sang một thời kỳ phát triển khác
cao hơn, chất lượng hơn. Đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc
tế và khu vực đặt nước ta trước bước ngoặt định mệnh trên
con đường phát triển của mình: Phải tiến lên trở thành một
nước phát triển, hoặc chấp nhận thân phận một quốc gia èo
uột và chịu sống trong sự nô dịch mới.
Hai điểm vừa
nêu trên, tất yếu đòi hỏi nước ta phải có được một thể chế
chính trị dân chủ có khả năng đoàn kết toàn dân tộc và phát
huy được tối đa nguồn lực lớn nhất của đất nước là con
người, vận dụng được trí tuệ và nguồn lực của thế giới, tất
cả để thích nghi với vận động của thế giới và đổi đời đất
nước; đồng thời đất nước đòi hỏi phải có một đội ngũ tinh
hoa của dân tộc lãnh đạo một thể chế chính trị quốc gia đủ
mạnh để thực hiện thành công nhiệm vụ của nó.
Trên đây là
những đòi hỏi khách quan, được đặt ra cho nước ta từ bối
cảnh quốc tế và từ chính những đòi hỏi phát triển tự thân
của nước ta. Không một sự duy ý chí nào có thể thay đổi
những đòi hỏi này; mà chỉ có vấn đề Đảng Công Sản Việt Nam
với tính cách là người nắm trọn trong tay quyền lực đất nước
sẽ lựa chọn gì từ thực tế khách quan này cho đất nước và cho
sự tồn tại của chính mình. Quyền lực hiện nay không nằm
trong tay dân, nên trên thực tế là dù có muốn dân cũng không
có quyền lựa chọn; tuy nhiên dân sẽ tùy sự lựa chọn của Đảng
mà xác định cách ứng xử của mình đối với Đảng.
Bài viết về sử
dụng người tài, Bài 1 và Bài 2 đưa tôi đến nhận xét: Nhìn
lại lưng vốn Đảng đang có trong tay, có thể nói cái Đảng có
còn quá ít, quá thiếu, về cơ bản là không thể đáp ứng được
những đòi hỏi mới đang đặt ra cho đất nước hôm nay. Đồng
thời không bao giờ có chuyện Đảng tự nguyện từ bỏ quyền lực
của mình.
Nhìn thẳng vào
sự thật thì phải nói như thế. Vì Đảng hôm nay đang giữ lại,
đang bảo tồn, và hiện đang dùng quá nhiều cái của hôm qua,
từ trí tuệ, đến tư duy, cho đến tổ chức, cho đến sinh hoạt
Đảng.., có quá nhiều cái không khác hay không đi xa được bao
nhiêu so với những cái gì đã có và đã làm trong thời chiến.
Những cái cũ
như thế từ thời chiến xa xôi nhiều lắm, trong nếp nghĩ,
trong tổ chức và trong sinh hoạt Đảng, tiêu chuẩn kết nạp
đảng viên, là các luật và lệ không thành văn chi phối toàn
bộ hoạt động của Đảng, trong thiết kế và vận hành bộ máy của
toàn bộ hệ thống chính trị - kinh tế - xã hội - văn hóa của
đất nước, với không ít quan điểm theo tư duy rất lạc hậu,
trong tổ chức xã hội và trong xây dựng thượng tầng kiến trúc
xã hội… Nghĩa là còn rất nhiều thứ đậm sắc thái văn hóa
phong kiến, manh mún, tiểu nông lạc hậu.
Phải chăng có
thể kết luận:
Đảng hôm
qua từ là một tổ chức tiền phong chiến đấu giữ vai
trò đầu não lãnh đạo cách mạng, hôm nay trở thành lực
lượng chính trị nắm thực quyền trong hệ thống chính trị
một đảng; qua đó hệ thống nhà nước pháp quyền trở thành
người thừa hành quyền lực của Đảng, Đảng vận động trong sự
phát triển biện chứng như thế nên hôm nay đã trở thành đảng
cai trị.
Quyền lực của
Đảng như hiện nay, hoàn toàn đủ sức duy trì một chế độ chính
trị có một đảng cầm quyền như hiện nay, tạo ra cho đất nước
một kết quả phát triển như hiện nay, song về lâu dài sẽ
không thể đưa đất nước lên con đường trở thành một quốc gia
phát triển. Cái tên gọi là nước xã hội chủ nghĩa hay là định
hướng xã hội chủ nghĩa, hay là gì gì đi nữa… không phải là
thước đo chất lượng và sức mạnh của một quốc gia. Đã có
nhiều phân tích của các học giả Việt Nam sống trong nước hay
sống ở nước ngoài và nhiều học giả nước ngoài khác cảnh báo:
Nước ta đã quá sớm rơi vào cái bẫy của nước đang phát triển
có thu nhâp trung bình thấp.
Ở góc độ và
mức độ nào đó mà xét, với tính cách là một lực lượng chính
trị chứ không phải là một tổ chức tiền phong chiến đấu, Đảng
bây giờ tự phân hóa thành 2 phần: (a) phần quyền lực Đảng ở
trong Đảng, (b) phần toàn Đảng nói chung. Hệ quả của sự phân
hóa này là tự thân Đảng cũng trở thành người đầu tiên thực
thi ý chí của quyền lực Đảng trước khi nó được đưa ra thực
thi ngoài xã hội - (như đã trình bày ở đặc điểm 4 trong
phần I).
Quyền
lực Đảng như thế đã tước đi vai trò lãnh đạo vốn có của
Đảng. Nói Đảng phải phấn đấu giành lại vai trò lãnh đạo bị
đánh mất, nghĩa là bị tha hóa cướp mất, là nói theo ý này.
Đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bước vào thời
kỳ phát triển mới ngày nay của đất nước là phải có sự lãnh
đạo sáng suốt của một lực lượng chính trị có sức mạnh, có
tầm nhìn, có trí tuệ, có ý chí kiên định đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết, để có thể làm tròn sứ mệnh lãnh đạo của
nó. Không có sự phát triển nào của một quốc gia lại không
cần một sự lãnh đạo như thế. Nước Việt Nam bước vào thời kỳ
phát triển mới trong cục diện thế giới mới lại càng đòi hỏi
phải có sự lãnh đạo như thế.
Song cần khai
thác kho tàng kinh nghiệm của thế giới về đòi hỏi nói trên.
Sự đổ vỡ và phát triển của thể chính trị ở hầu hết mọi quốc
gia trên thế giới suốt hai thế kỷ nay cho thấy: Thực hiện
dân chủ, xây dựng một thể chế dân chủ ở một quốc gia trước
hết còn phải là kết quả của một quá trình của học hỏi, của
một quá trình phát triển, là kết quả của sự nâng cao không
ngừng dân trí và ý chí phấn đấu cũng như tinh thần trách
nhiệm của từng người dân của quốc gia đó, là kết quả của
nhiều sự chuẩn bị khác... Trên thế giới chưa từng có một thể
chế dân chủ ăn sẵn nào (được cho không, do được người khác
đem đến…) hay một loại thể chế dân chủ tự phát nào có thể
thành công và tồn tại. Các cuộc cách mạng mang tên các mùa
hoa đang diễn ra ở một số nước trên thế giới hôm nay tiếp
tục khẳng định sự thật này.
Chế độ chính
trị một đảng ở nước ta là kết quả vận động của lịch sử cận
đại của nước ta. Thừa nhận hay không thừa nhận, đấy là một
thực tế khách quan, tư duy chủ quan chẳng có nghĩa lý gì.
Nhất thiết nước ta cũng phải trải qua một quá trình phát
triển rất có ý thức, rất tự giác học hỏi cái mới và chuẩn bị
mọi điều kiện cần thiết khác mới có thể đi từ chế độ chính
trị hiện nay tới một thể chế dân chủ do đội ngũ tinh hoa của
đất nước lãnh đạo. Không thể có sự thần kỳ nào bước một bước
lên tới trời, vả lại trời trên cao thì có nhưng làm gì có
trời để mà đặt chân bước lên như thế!
Các nước Liên
Xô – Đông Âu cũ thực hiện cải cách đi thẳng vào thiết lập
thể chế dân chủ mà không trải qua một quá trình học hỏi và
chuẩn bị cần thiết nên đổ vỡ. Đấy là bài học rất có ý nghĩa
đối với nước ta là nước đi sau: Không thể không cải cách,
nhưng thực hiện thể chế dân chủ không thông qua quá trình
học hỏi và những quá trình chuẩn bị cần thiết khác nhất định
thất bại.
Đã nói nhiều
lần rồi và vẫn xin nhắc lại: Ở nước ta nếu từ thực trạng
hiện nay bước thẳng đến chế độ chính trị dân chủ nhiều đảng
sẽ dẫn tới thảm kịch đổ vỡ nồi da xáo thịt. Đây hoàn toàn là
lẽ tất yếu của sự vật vận động trong hoàn cảnh và trình độ
phát triển của nước ta hiện nay, không hề là lời đe dọa, xin
đừng ai mơ ngủ chuyện này.
Cái mà đất
nước lúc này cần nhưng Đảng chưa có là Đảng phải trở thành
đầu não lãnh đạo sự nghiệp đưa đất nước ta tiến bước thành
công trên con đường trở thành nước phát triển.
Cái mà Đảng có
rất mạnh, song đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới không
thể dùng được là cái đảng trị. Thậm chí sự phát triển của
đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải loại bỏ thứ quyền
lực đảng trị. Quyền lực Đảng không muốn điều này.
Cái mà Đảng có
và lúc này đất nước đang rất cần, đó là một loại sức mạnh
Đảng đang có trong tay được tạo ra từ cái vốn lịch sử to lớn
và là lực lượng chính trị mạnh nhất trong xã hội nước ta
hiện nay không một lực lượng chính trị nào khác của đất nước
có thể sánh được. Nhưng một sức mạnh như thế lại chưa phải
là của dân, nên dân chưa dùng được. Có cách gì biến nó thành
sức mạnh của dân?
Vì thế, nếu
cái lực lượng chính trị mạnh nhất ấy trong xã hội nước ta
hôm nay là Đảng, bây giờ được trang bị mới cái đầu não lãnh
đạo có khả năng ngăn chặn sức mạnh ấy trở thành sức mạnh để
trấn áp, đồng thời biến sức mạnh ấy thành đầu tầu thực hiện
cải cách thành công phát huy sức mạnh của dân, với mục đích
đưa nước ta trở thành một nước phát triển – một Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh
– thử hỏi có trở lực nào nước ta không thể vượt qua để
đi tới cái đích mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh lợi
ích dân tộc, lợi ích quốc gia đã tinh túy nên như thế?
Tôi thiển
nghĩ, giao cho Đảng, với tính cách là lực lượng chính trị
mạnh nhất trong so sánh tương quan các lực lượng trong xã
hội hiện nay của nước ta, nhiệm vụ Đảng phải trở thành một
đảng lãnh đạo như thế hoàn toàn không phải là
một sự ưu ái hay đối xử thiên lệch nào, mà đấy chỉ là sự
lựa chọn của lý trí, tìm cái khả dĩ thực hiện nhất và
tiết kiệm xương máu nhất, phù hợp với so sánh lực lượng của
nội bộ xã hội nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện tại.
Cần giao cho
Đảng nhiệm vụ phải trở thành người lãnh đạo như thế chí ít
là vì 6 lý do dưới đây:
(1) thuận
theo sự phát triển của lịch sử cận đại của đất nước,
(2) song trên
hết cả sự lựa chọn con đường kế thừa để phát triển theo tôi
là tối ưu đối với lợi ích đất nước,
(3) sự lựa
chọn con đường cùng đi với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước của dân tộc trên con đường đưa nước ta trở thành một
nước phát triển là cách giữ cho Đảng trung thành với trách
nhiệm đã cam kết trước dân tộc và bảo vệ Đảng tốt nhất,
(4) nguyện
vọng sâu xa của nhân dân muốn có cuộc sống hòa bình, ổn
định, để có thể chuyên tâm vào làm ăn sinh sống,
(5) mong mỏi
của các đối tác chiến lược và của bạn bè khắp 5 châu về một
Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển,
(6) món nợ
lịch sử Đảng nhất thiết phải trang trải đối với dân tộc
[8].
Đấy có lẽ là
con đường chắc chắn nhất dẫn tới cái đích một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu
mạnh. Cuộc sống vô cùng nghiêm khắc, thiết nghĩ phải
suy tính rất kỹ. Một bước đi sai có thể dẫn tới rối loạn,
tăng thêm sự cố thủ của quyền lực Đảng, xấu nhất có thể dẫn
tới đổ vỡ.
Sẽ có ý
kiến hỏi:
Cái đích như thế chính là điều các Nghị quyết Đại hội Đảng
đã viết ra cho đến hôm nay, Đảng vẫn theo đuổi đấy thôi! Sao
còn bầy vẽ ra lắm chuyện thế?
Trả lời:
Vâng, đúng vẫn là cái đích như vậy, Đại hội XI còn cụ thể
hóa cái đích này dài thêm ra vài từ nữa. Song vì bây giờ
Đảng chủ yếu là một lực lượng chính trị, không còn lại bao
nhiêu cái tính cách là một tổ chức tiền phong chiến đấu lãnh
đạo cách mạng nữa, lại tha hóa thành đảng cai trị, nên cái
đích Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết nên ấy thực chất chỉ
còn lại là một khẩu hiệu, một ước mơ xa vời. Và như đã trình
bầy trong các phần trên: Cuộc sống của đất nước không biết
chờ đợi. Thế giới cũng không chờ đợi.
Để giành lại
được vai trò lãnh đạo đã từng có này trong giai đoạn phát
triển mới của đất nước trong một thế giới đã đổi khác, Đảng
phải trở thành đảng của dân tộc, thành lực lượng tinh hoa
của dân tộc. Phải nói đòi hỏi này rất cao về toàn diện đối
với Đảng: về trí tuệ, về phẩm chất, bản lĩnh, tầm nhìn, ý
chí không có gì quý hơn độc lập tự do, tinh thần Tổ quốc
trên hết, năng lực tổ chức, tinh thần hy sinh phấn đấu…
Tôi nghĩ, kể
từ ngày thành lập cho đến nay, có lẽ chưa bao giờ Đảng Cộng
Sản Việt Nam đứng trước thử thách quyết liệt đến thế, phải
đáp ứng những đòi hỏi cao đến thế: Đảng phải đứng trên đôi
chân của mình, phải suy nghĩ bằng chính khối óc và trái tim
của mình, không mượn kính của người khác để đọc mọi thứ trên
đời này, phải tự giải phóng mình trước tiên khỏi nô lệ của
mọi giáo lý, phải nhìn nhận sự vật bằng chính con mắt của
mình và bằng trí tuệ, bằng bản lĩnh và ý chí không có gì quý
hơn độc lập tự do, quyết đưa nước ta trở thành một nước phát
triển. Đảng phải dày công trau dồi trí tuệ cũng như phẩm
chất của dân tộc mình đã chắt lọc được và của nhân loại,
phải tôi luyện tất cả những điều này, và mỗi đảng viên và
toàn Đảng phải phấn đấu hoàn thành bằng được.
Tôi nghĩ Đảng
phải đối mặt quyết liệt nhất với những thử thách chưa từng
có kể từ khi thành lập, trước hết còn bởi lẽ từng đảng viên
và toàn Đảng phải chiến thắng chính mình trước tiên thì mới
có đủ bản lĩnh và phẩm chất giành lại và xây dựng nên cho
Đảng vai trò lãnh đạo mới như thế. Cuộc chiến đấu để chiến
thắng chính mình luôn luôn và mãi mãi là cuộc chiến đấu khó
nhất của con người.
Hay là tiếp
tục giữ vai trò đảng trị như hiện nay, để tha hóa tiếp, để
sớm muộn đến một lúc nào đó cả chế độ và Đảng cùng kết thúc
như nhiều bi kịch đẫm máu đã kết thúc ở nhiều quốc gia? Cảnh
báo nóng hổi nhất là sự diệt vong đẫm máu của chủ nghĩa xã
hội Gaddafi.[9]
Cuộc sống đã khẳng định như một quy luật thép: Chỉ có sự
phát triển là liên tục, ngoài ra không có một nền độc tài
nào dù tàn ác đến mấy có thể tồn tại mãi.
Đất nước đòi
hỏi toàn dân tộc phải là một khối thống nhất, phải cố kết
với nhau xả thân cho một Việt Nam trở thành một nước phát
triển. Tình hình nhiệm vụ mới này đòi hỏi Đảng phải thay đổi
tất cả, ra sức phấn đấu để trở thành đảng của dân tộc, không
thể còn là đảng của giai cấp được nữa.
- Như vậy là
đòi hỏi Đảng phải biến chất và hạ cấp?
- Không
phải. Đấy là đòi hỏi phải nâng Đảng lên một tầm cao mới khó
hơn nhiều mà trách nhiệm lịch sử không cho phép Đảng trốn
tránh! Xin nói dứt khoát: Nếu trốn tránh hay thất bại, sẽ
chính là sự phản bội lại trách nhiệm lịch sử Đảng đã nhận về
mình trước dân tộc khi giương cao ngọn cờ cứu nước và xây
dựng xã hội mới.
Sự thật cuộc
sống còn có một quy luật của phát triển cao hơn cả phép biện
chứng, đó là quy luật của thích nghi, vượt trội và
phát triển. Đảng phải ra sức phấn đấu thích nghi với
tình hình và nhiệm vụ mới và khác hẳn trước, phải vượt lên
trên mặt bằng chung của tinh thần và ý chí phấn đấu trong
toàn xã hội, để từ đó phát triển mọi phẩm chất mới cho chính
mình vươn lên nắm lấy và xây dựng mới cho Đảng vai trò lãnh
đạo. Đảng cầm quyền[10]
trong chế độ chính trị một Đảng hay đảng trị không cần hay
thậm chí đối kháng với đòi hỏi này.
Cái mà
đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới đang rất cần là
phải có
(a) một đảng lãnh đạo có tầm nhìn của đội ngũ tinh
hoa của dân tộc và (b) một thế chế chính trị
của một nhà nước dân chủ có năng lực mạnh mẽ thực thi pháp
luật theo hiến định.
Đảng là lực
lượng lãnh đạo; Nhà nước là bộ máy thực thi những quyền lực
của nhân dân ủy thác thông qua Hiến pháp. Đây phải là 2 thực
thể khác nhau, ai phải làm đúng chức năng nấy theo quy định
của Hiến pháp. Mối quan hệ lãnh đạo của đảng đối với hệ
thống nhà nước phải được quy định rành mạch trong Hiến pháp;
loại bỏ hẳn thực tế Nhà nước trở thành bộ máy thừa hành
quyền lực Đảng. Đảng lãnh đạo và Nhà nước pháp quyền như thế
cùng nằm chung trong một thể chế chính trị dân chủ mà quyền
lực của Hiến pháp là tối thượng.
Hiển nhiên sẽ
phải huy động trí tuệ và công sức thiết kế một hệ thống
chính trị dân chủ như thế cho nước ta, của chính nước ta với
tính cách là nước đi sau vận dụng mọi thành tựu của văn minh
nhân loại, và các bước đi thực hiện. Đây là một nhiệm vụ cụ
thể hoàn toàn mới đặt ra cho Đảng, chưa từng bắt tay vào.
Vì vậy, Đảng
đang đứng trước đòi hỏi phải thay đổi toàn diện và nỗ lực
phấn đấu trở thành đội ngũ tinh hoa của dân tộc, thành đảng
của dân tộc.
Những năm cuối
cùng trước khi từ dã cuộc đời này, người chiến sỹ cộng sản
kiên trung một lòng vì nước vì dân Võ Văn Kiệt đã không tiếc
một nỗ lực nào, không chùn bước trước một trở lực nào, phấn
đấu hết mình cho Đảng Cộng Sản Việt Nam phải trở thành đảng
của dân tộc. Đã có lúc người đảng viên ĐCSVN Võ Văn Kiệt
nói: Tôi sẽ giơ cao tấm thẻ Đảng của mình nói trước các đảng
viên có trách nhiệm trong Đảng đòi hỏi bức bách này. Người
đảng viên Võ Văn Kiệt đã làm như vậy. Ý chí này cố Thủ tướng
Võ Văn Kiệt đã manh nha khởi xướng từ trong bức thư ngày
09-08-1995 gửi Bộ Chính trị, bắt đầu bằng đòi hỏi xóa bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ lúc ấy đang được quyền lực Đảng
vận dụng tùy tiện.
III. Viễn tưởng?
III.1. Quá
trình mở đầu
Hy vọng phần
II.1. và II.2. nêu trên đã phần
nào làm rõ được sự khác biệt quá lớn giữa một bên là cái
Đảng đang là và một bên là cái Đảng sẽ phải
là trong tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước.
Trong Bài 3
này tôi không dám viết gì nhiều về cái Đảng sẽ phải là.
Bởi vì từ tư duy, đến tổ chức, đến thiết kế hệ thống chính
trị của thể chế dân chủ trong đó (a) Đảng sẽ phải là đội ngũ
tinh hoa của dân tộc để giữ vai trò lãnh đạo, và (b) đến
thiết kế Nhà Nước là bộ máy thực hiện quyền lực của nhân dân
do nhân dân ủy thác theo Hiến pháp, (c) đến việc thiết kế
sao cho cả 2 thực thể này (Đảng và Nhà nước) là 2 thực thể
độc lập có quan hệ gắn bó với nhau trong khuôn khổ của Hiến
pháp.., (d) đến tiêu chuẩn mới của người đảng viên của Đảng
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước… v… v… Tất cả
những vấn đề này đều quá lớn so với trí tuệ của một người và
lại càng không thể đơn thuần là phỏng theo hiểu biết hay ý
muốn chủ quan của một người. Tất cả những điều này phải là
kết tinh của trí tuệ, ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng và
của toàn dân tộc. Rất mong trí tuệ và tâm huyết cả nước và
trong Đảng được huy động cho công việc này.
Tôi chỉ dám
hình dung trong đầu, nếu quyết giành lại vai trò lãnh đạo bị
tha hóa tước bỏ mất, có lẽ trước tiên Đảng cần thực hiện dân
chủ học hỏi lại từ đầu, học hỏi từ lịch sử, từ vốn kinh
nghiệm của đất nước và từ kho tàng của văn minh nhân loại,
từ những gì đang diễn ra trên thế giới, trang bị lại cho
toàn Đảng những nhận thức và kiến thức mới để phân tích lại
từ đầu, nhìn nhận lại chính mình và tình hình đất nước một
cách trung thực. Như thế, nói theo cụ Phan Châu Trinh, trong
Đảng vấn đề tiên dân trí cũng sẽ phải là công
việc đầu tiên.
Nói đi cũng
phải nói lại, mọi việc nêu trên không đến nỗi phải bắt đầu
từ con số không. Ngay cả trong Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng,
Hiến pháp 1992, các chủ trương chính sách đã xây dựng được…
có không ít những điều đúng đắn, những điều tốt. Song vì sự
tha hóa trong toàn bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ sự tha
hóa của quyền lực Đảng, biết bao nhiêu điều tốt đẹp ấy đã bị
vô hiệu hóa và nhiều thứ chỉ còn lại trên các trang giấy.
Tình trạng bị vô hiệu hóa ấy lại tìm cách khắc phục bằng
những việc làm phô trương, giả dối – bằng những cái “giả
- diễn - hão”[11],
một trong những ví dụ điển hình là việc thu hoạch kết quả
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được
đo chủ yếu bằng trọng lượng và số lượng các bài thu hoạch,
các trang giấy viết theo giáo án! Do đó trên thực tế chẳng
những không tạo ra được những chuyển biến đáng kể nào trong
cuộc sống của đất nước, tệ quan liêu tham nhũng không giảm
bớt, xã hội tiếp tục xuống cấp, mà còn tạo thêm những cái “giả
- diễn – hão” mới.
Không dấy lên
được trong Đảng và trong cả nước ý chí cự tuyệt cái “giả
- diễn - hão” như vậy trong toàn bộ đời sống chính
trị đất nước, mọi chuyện cải cách đều sẽ vô nghĩa. Muốn vậy,
chỉ có thể bắt đầu từ thực hiện công khai minh bạch và dân
chủ, bắt đầu ngay từ tự do ngôn luận, tự do báo chí.[12]
Trên cơ sở
nhận thức lại như vậy, có lẽ Đảng cần phải tiến hành một
quá trình mở đầu, tiến hành theo các bước: Trước
hết là thực hiện dân chủ hóa đời sống mọi mặt của đất nước –
bắt đầu từ thực hiện dân chủ trong Đảng, thực hiện công khai
minh bạch thực trạng đất nước để làm rõ được mọi vấn đề phải
giải quyết. Nhận thức mới xác lập được trong những bước đi
đầu tiên này sẽ là cơ sở trí tuệ và ý chí cho việc hoạch
định ra một chiến lược cải cách triệt để hệ thống chính trị
của đất nước, xây dựng Hiến pháp mới, từng bước thực hiện
chiến lược cải cách này theo các bước đi (lộ trình) được quá
trình dân chủ hóa và thực hiện công khai minh bạch này vạch
ra.
Toàn bộ
quá trình mở đầu này, không thể ước đoán trước lâu
mau thế nào, nhưng xin đừng quên đất nước đang chạy đua với
thời gian, chạy đua rất quyết liệt. Lỡ một bước chân, hận
thiên thu.
Kết thúc
quá trình mở đầu này là hoàn thành công việc cải
cách triệt để và toàn diện hệ thống chính trị của đất nước,
thiết lập được một nhà nước pháp quyền dân chủ vừa có đủ sức
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
vừa đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi đặt ra cho một quốc gia
văn minh trong thế giới hiện đại.
Công việc của
quá trình mở đầu này nên bắt đầu từ và đồng
thời với việc thiết kế, thực hiện các bước đi chuyển hóa
Đảng thành đảng của dân tộc, thành đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ
đổi mới xây dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc phải cố
gắng đi trước một bước trong toàn bộ công cuộc cải cách, mở
đường cho việc cải cách toàn bộ hệ thống chính trị của đất
nước. Toàn bộ việc cải cách hệ thống chính trị của đất nước
cũng nên đi trước từng bước trong khi đồng thời tiến hành
những bước cải cách kinh tế. Tất cả quá trình mở đầu
này cần được hậu thuẫn bởi một phong trào duy tân trong toàn
xã hội, cổ vũ trong toàn dân hào khí đổi mới chính mình và
đổi mới đất nước để cải cách thành công. Tại chính điểm này
lại càng cho thấy vấn đề nâng cao dân trí, vấn đề học hỏi và
thực hiện công khai minh bạch toàn bộ đời sống đất nước có ý
nghĩa vô cùng lớn lao. Phải thực sự xây dựng một đạo đức xã
hội mới trong đời sống mọi mặt của nhân dân làm hậu thuẫn,
chính vì lẽ này cần làm sao dấy lên được trong nhân dân một
phong trào duy tân.
Xây dựng (1)
đảng lãnh đạo, (2) nhà nước pháp quyền, (3) phát triển xã
hội dân sự được phong trào duy tân đất nước thôi thúc, có lẽ
đấy là 3 cột trụ phải dựng lên để xây dựng thể chế chính trị
dân chủ cho đất nước trong thời kỳ của quá trình mở
đầu này, tất cả phải trên nền tảng của kinh tế thị
trường được được vận hành theo những kinh nghiệm mới nhất mà
thế giới đã rút tỉa ra từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới đầy cơ hội và cạm bẫy ngày nay. Cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới đang diễn ra chính là cơ hội tốt nhất cho nước
ta là nước đi sau rút kinh nghiệm trên các phương diện: lựa
chọn chiến lược phát triển kinh tế theo những sản phẩm mới
nước ta có lợi thế nhất, đổi mới phương thức quản lý, thu
hút các nguồn lực từ bên ngoài đang cần thị trường. Song
chính những cơ hội mới này trên phương diện kinh tế lại thúc
bách đất nước ta hơn bao giờ hết phải sớm có một thể chế
chính trị dân chủ xây dựng trên 3 cột trụ như thế.
Quá
trình mở đầu
này cũng là quá trình Đảng cần phấn đấu giành lại, thiết
lập, và hoàn thiện xong vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước. Ý chí cách mạng cao nhất
đối với ĐCSVN là cần hoàn thành nhiệm vụ này trong thời gian
sớm nhất có thể. Một khi chế độ dân chủ của nhà nước
pháp quyền theo những chuẩn mực nói bên trên được thiết lập
xong, Đảng sẽ phải chuyển sang phấn đấu trở thành đảng cầm
quyền theo những chuẩn mực trong thể chế dân chủ như tại các
quốc gia văn minh.[13]
Nghĩa là tới đây, Đảng lại phải phấn đấu nâng cao hơn nữa
năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của mình với tính cách là
đảng của dân tộc, phần đấu đạt tới và để được nhân dân lựa
chọn Đảng giữ vai trò đảng cầm quyền trong một chế độ dân
chủ, chứ không phải nghiễm nhiên Đảng tiếp tục được hưởng
vai trò này. Nói đổi mới xây dựng Đảng trở thành đảng của
dân tộc, cùng tồn tại lâu dài trong sự nghiệp phát triển của
đất nước, cùng đi với dân tộc là nói theo tinh thần này.
Trong
quá trình mở đầu này, nhất thiết phải phục hồi và
tôn vinh mọi giá trị và đạo đức đã bị mai một, nhất là phải
chống bằng được bệnh nói dối và mọi sự giả dối – tội lỗi của
mọi tội lỗi. Phải dấy lên trong cả nước mọi nỗ lực trau dồi
thêm cho toàn xã hội những phẩm chất mới, khả năng và quyền
năng của người công dân trong thể chế chính trị dân chủ của
một quốc gia văn minh, hun đúc ý chí của dân tộc vì một
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu
mạnh, dấn thân cùng với trào lưu tiến bộ của thế
giới vì hòa bình, tự do, dân chủ, quyền con người và
gìn giữ môi trường.
XIN ĐẶC BIỆT
NHẤN MẠNH: Tùy theo kết quả của quá trình dân chủ hóa đất
nước, kết thúc quá trình mở đầu này, nhân dân
đến lúc ấy sẽ định đoạt qua Hiến pháp hoặc Tòa án Hiến pháp
về việc thế chế chính trị dân chủ của nước ta sẽ có một hay
nhiều đảng chính trị.
Như vậy có thể
nói, trong suốt quá trình mở đầu nhiệm vụ
chính trị hàng đầu của Đảng là lãnh đạo đất nước thiết
lập thành công thể chế chính trị dân chủ.
Điều này có
nghĩa, trong suốt quá trình bước mở đầu (nghĩa
là khi chưa kết thúc), phải làm mọi việc để cuối cùng thiết
lập được mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là Đảng lãnh
đạo Nhà nước theo những quy định của Hiến pháp. Đảng có
thể tiến cử đảng viên của mình tham gia công việc của Nhà
nước theo cơ chế bầu cử và tuyển chọn được luật định của Nhà
nước.
Đặt vấn đề như
vậy, cũng có nghĩa là ngay trong quá trình mở đầu
này Đảng phải có những bước đi sẽ dẫn tới kết quả cuối
cùng là khi quá trình mở đầu kết thúc, thì
đồng thời cũng hoàn tất việc chuyển giao toàn bộ công việc
của Nhà nước cho Nhà nước. Nghĩa là phải hoàn tất việc tạo
ra phương thức Đảng làm việc của Đảng, Nhà nước làm việc của
Nhà nước. Nhà nước không phải là cấp dưới của Đảng và chỉ có
nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp. Đảng cũng phải tuân thủ Hiến
pháp như một pháp nhân công dân.
Sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước trong quá trình mở đầu
này rất quan trọng, vì những yếu kém ban đầu khó tránh khỏi
của một nhà nước dân chủ non trẻ đã đành, vì nâng cao dân
trí là công viêc của cả một giai đoạn, vì nhất thiết phải
tránh cái gọi là dân chủ bầy đàn theo số đông… Song đặc biệt
quan trọng còn là chẳng có một thể chế dân chủ nào hoàn hảo
cả, nên cần được thường xuyên điều chỉnh. Lúc nào, và mãi
mãi bao giờ cũng cần huy động được mọi tinh hoa của đất nước
để luôn luôn kịp thời khắc phục được các khiếm khuyết xảy
ra, hoàn thiện và phát triển thể chế chính trị dân chủ của
đất nước. Lãnh đạo là như thế. Vì vậy vấn đề không phải là
cần hay không cần, mà là Đảng có thực hiện được nhiệm vụ
lãnh đạo như thế hay không. Nên chú ý chống xu hướng sùng
bái, dù là sùng bái cái được coi là triết lý dân chủ cao
siêu nhất, lý tưởng nhất được rao giảng khắp nơi trong thế
giới phương Tây.
Sự ra đời của
ĐCSVN là đòi hỏi của đấu tranh cách mạng. Sự tồn tại của
Đảng là để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Chống lại cái
quán tính lịch sử đang lên ngôi, Đảng nhất thiết phải giành
lại như thế vai trò lãnh đạo bị tha hóa tước mất trong thời
bình. Đảng cần hoàn thiện vai trò này thông qua việc lãnh
đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp xây dựng thể chế dân chủ
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Từ thành tựu
này của đất nước, Đảng cần phấn đấu trở thành đảng cầm quyền
trong thể chế dân chủ và mãi mãi cùng đi với dân tộc trên
con đường đưa quốc gia trở thành một nước phát triển. Không
một đảng viên chân chính nào lại muốn làm vua, càng không
làm vua mãi mãi. Đảng cách mạng lại càng không thể làm vua,
dù là vua tập thể. Vậy chỉ có con đường phải giành lại vai
trò lãnh đạo vốn có và từ đó phấn đấu tiếp trở thành đảng
cầm quyền trong thể chế dân chủ. Ý chí cách mạng đối với
Đảng là như vậy.
Nói theo ngôn
ngữ cuộc chơi, quá trình mở đầu như thế cũng
có thể được bình luận là thiên vị cho Đảng nhiều quá đấy:
Đã là lực lượng chính trị mạnh nhất quốc gia đang nắm thực
quyền đất nước, lại còn được ưu ái đi bước trước một thời
gian nào đó để củng cố chỗ đứng của mình… Sự thật cách
nghĩ này không sai, nếu ai thích nó cứ giữ lấy mà dùng. Tuy
nhiên, theo suy nghĩ của tôi, chỉ vì lợi ích quốc gia đỏi
hỏi, cho nên cần chọn phương án quá trình mở đầu
như thế. Bởi vì dân chủ đòi hỏi phải được học và phải chuẩn
bị mọi điều kiện cần thiết cho nó; vả lại một khi làm cho
lực lượng chính trị mạnh nhất quốc gia này trở thành động
lực thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đất nước, khả năng thành
công có thể là hiện thực hơn và sớm hơn so với những phương
án khác. Đây là sự lựa chọn có điều kiện và tin vào lý trí,
đòi hỏi những người có ý thức trách nhiệm với đất nước và
lực lượng tinh hoa trong hàng ngũ trên 3 triệu đảng viên nên
dồn hết ý chí, trí tuệ và tâm huyết làm cho Đảng trở thành
một động lực như thế của đất nước.
Sẽ là
thiếu trách nhiệm nếu không cảnh báo dứt khoát ngay ở đây:
Đảng với tính cách là một tổ chức tiền phong chiến đấu bây
giờ đang bị tha hóa biến tướng thành lực lượng chính trị
mạnh nhất trong xã hội nước ta hiện nay. Thực tế này trở
thành yếu tố kìm hãm sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Chính vì lẽ này, trong xã hội nước ta đang tích tụ ngày càng
nhiều những mâu thuẫn đối kháng, và tới một thời điểm nào
đó, có thể tình hình sẽ dẫn đến đổ vỡ nếu không đảo ngược
được xu thế tha hóa này. Đây là lời cảnh báo trước hết đối
với từng đảng viên: Phải làm tất cả chặn đứng xu thế tha hóa
này và phấn đấu đổi mới Đảng trở thành đảng của dân tộc.
III.2. Về
trở lực
Vì nhiều lẽ,
trong đó có hệ quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
trở lực bao trùm toàn bộ công cuộc cải cách là sự lạc hậu về
tư duy và tầm nhìn của Đảng, của hệ thống chính trị, của bộ
máy Đảng và Nhà nước, của các tổ chức xã hội, của toàn bộ
thượng tầng kiến trúc xã hội, của trình độ dân trí nói
chung. Chính vì lẽ này phải có tiên dân trí,
phải có phong trào duy tân đất nước.
Song bàn về hệ
thống chính trị, có lẽ nên tập trung phân tích 3 trở lực
chính: Sự cố thủ của quyền lực đảng, nhóm lợi ích, tầng lớp
quan liêu ăn bám.
Hội nghị Trung
ương 3 (tháng 10-2011) đã bàn nhiều và phê phán hiện tượng
nhóm lợi ích. Để tiết kiệm thời gian, phần này xin tập trung
vào sự cố thủ của quyền lực Đảng và về bộ máy trí tuệ của
Đảng.
III.2.1.
Nói thêm về sự cố thủ của quyền lực Đảng
Như mọi quyền
lực khác, sự cố thủ của quyền lực Đảng là bản năng và bản
chất của quyền lực.
Khái niệm
“quyền lực Đảng” diễn đạt một cách thô thiển và đơn giản,
đó là:
(a) quyền lực
của những người thực sự có ảnh hưởng trong Đảng ở mọi cấp,
mọi tổ chức, trong mọi lĩnh vực và ở mọi địa phương của đời
sống đất nước,[14]
đấy là những ảnh hưởng có thể trực tiếp, hoặc là ảnh hưởng
gián tiếp, nhưng quan trọng; ngoài ra còn phải tính đến
những người không có vị trí chính thức trong Đảng nhưng do
những mối quan hệ nào đó có thể tác động ảnh hưởng đến những
quyết định của Đảng;
(b) những
truyền thống, những luật lệ không thành văn nhưng đứng ngoài
và có hiệu lực nhiều khi còn cao hơn cả Điều lệ Đảng cũng
như Hiến pháp và luật pháp của Nhà nước, phổ biến nhất là “nguyên
tắc tập trung dân chủ” được vận dụng theo ý chí của
quyền lực Đảng và những thứ luật và lệ không thành văn khác
(thường có rất nhiều trong tổ chức sinh hoạt Đảng nhân các
kỳ tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc…), những tập quán, những
tiền lệ, những di sản tinh thần và văn hóa … chi phối sâu
sắc sinh hoạt Đảng và những quyết định của Đảng; vân vân…
(c) sự hình
thành tầng lớp quan liêu ăn bám thiên hình vạn trạng mà biểu
hiện rõ nét nhất là cái ma trận (matrix) không sao phác họa
ra trên giấy được của quyền lực Đảng và thứ cơ chế không
thành văn giữ quyền quyết định tất cả nhưng không chịu
trách nhiệm, khi xẩy ra sự cố thì rất khó bề truy cứu,
đang diễn ra ở mọi cấp lãnh đạo, mọi cấp ủy, ở nhiều nơi
trong cả nước và trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.[15]
(d) Vân vân…
Quyền lực Đảng
là điều có thật, dễ hiểu, song thực không dễ nắm bắt, không
dễ lộ ra.
Trên thực tế,
Đảng và quyền lực Đảng là hai khái niệm, hai thực thể khác
nhau; mọi điều quyền lực Đảng muốn thực hiện đều nhân danh
Đảng. Rất nên mổ xẻ kỹ hiện tượng này để thay đổi hẳn nhiệm
vụ xây dựng Đảng, một mặt nhằm hạn chế xuống mức thấp nhất
tình trạng Đảng trở thành công cụ của quyền lực Đảng, mặt
khác nhằm nâng cao phẩm chất, trí tuệ và tính tiền phong
chiến đấu của từng đảng viên. Không phải ngẫu nhiên cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã mở đầu việc này bằng đề nghị bỏ nguyên
tắc tập trung dân chủ, thay vào đó là sự tuân thủ theo Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp… Nói đơn giản, đó là nguyên
tắc tất cả mọi người phải tuân thủ luật và những quy định,
không có sự vận dụng tùy tiện; chỗ nào trong Cương lĩnh,
Điều lệ Hiến pháp, luật hiện hành trái hay chưa làm rõ sự
tuân thủ này thì phải sửa lại.
Trong Đảng cho
đến nay đã không ít đảng viên chính trực có tiếng nói quyết
liệt đối với quyền lực Đảng về những sai lầm hay yếu kém của
Đảng, kể cả những sai lầm về chủ trương, đường lối quan
trọng. Song cũng cho đến nay, hầu hết những tiếng nói ấy
không được lắng nghe, bị dập tắt, không ít trường hợp người
nói bị hệ lụy, bị xử lý nặng nề. Gần đây nhất và rõ nhất là
các anh Trần Xuân Bách, Trần Độ.., chưa nói đến những người
ngoài Đảng. Trong nước và cả thế giới đều biết những chuyện
này.
Không có bài
thuốc tiên nào ngoài cách thực hiện đoàn kết, dân chủ, công
khai minh bạch trong Đảng và đặt lợi ích quốc gia lên trên
hết, xây dựng ngay trong Điều lệ Đảng những quy định cần
thiết bảo đảm những yếu tố này.
Ngay trong
Đảng và trước hết trong Đảng, cần làm bằng được việc trí tuệ
phải luôn luôn được sàng lọc, chắt lọc, minh bạch, ý chí
phải luôn luôn được rèn luyện, đồng thời phải thường trực
chống lại sự phục tùng mù quáng và thứ dân chủ theo số đông,
theo a-dua, phải kiên quyết chống lại chính sách ngu dân
ngay trong sinh hoạt Đảng! Gìn giữ tính tiền phong chiến đấu
của Đảng thì phài làm như vậy, và đây chính là những yếu tố
cho phép kiểm soát và vô hiệu hóa cái gọi là quyền lực Đảng.
Nhân đây xin nói, quyền lực Đảng hiện nay rất mạnh, số lượng
đảng viên rất đông, song Đảng không mạnh so với đòi hỏi của
tình hình và nhiệm vụ đất nước đặt ra, trình độ mọi mặt của
đảng viên hiện nay nhìn chung rất thấp cả về phẩm chất, trí
tuệ và bản lĩnh. Tình hình này là môi trường lý tưởng giúp
quyền lực Đảng chiếm ưu thế tuyệt đối trong Đảng để lũng
đoạn. Trong những nguyên nhân của tình trạng này có trách
nhiệm của bộ máy trí tuệ của Đảng.
Nhìn lại, biết
bao nhiêu bước đi gian khổ, đau đớn, đấu tranh quyết liệt
trong nội bộ Đảng ở các cấp từ cơ sở cho đến Trung ương… mới
dẫn đến Đại hội VI, một bước ngoặt chiến lược vứt bỏ rất
nhiều cái cũ, cái phạm húy ở phạm vi chiến lược và đường lối
của Đảng. Song cuối cùng đã có được Đại hội VI, đã mở ra
được công cuộc đổi mới hôm nay. Không thể nói khác: Đó là
kết quả vận động trong cuộc sống, dẫn tới những kết quả của
đấu tranh dân chủ trong nội bộ Đảng, trước hết ở các cấp
lãnh đạo Đảng từ thấp nhất đến cao nhất, với ý thức quyền
lợi quốc gia trên hết. Sau Đại hội VI quá trình đấu tranh
gian khổ ấy vẫn tiếp tục, trước những vấn đề mới và những
đòi hỏi mới; đó cũng là quy luật vận động không ngừng của sự
vật. Bây giờ phải bước vào cuộc cải cách sâu rộng và triệt
để toàn bộ hệ thống chính trị, sẽ quyết liệt hơn rất nhiều,
lại càng đòi hỏi phải như vậy.
Trong Bài 2
tôi kiến nghị vận dụng “bài học Trần Thủ Độ tập thể”
ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, xây dựng một phong trào ý
chí Trần Thủ Độ trong cả nước. Một Trần Xuân Bách… một Trần
Độ, đã thất bại. Nhưng thiết nghĩ cả Bộ Chính trị là một
Trần Thủ Độ tập thể thì không thể thất bại.[16]
Nhìn thẳng vào thực trạng đất nước, đoàn kết, dân chủ, lợi
ích quốc gia trên hết. Đó là công việc một Trần Thủ độ
tập thể phải làm và đi tới quyết định hành động.
Chắc chắn sẽ có sự hậu thuẫn của toàn dân và toàn Đảng.
Đảng có truyền
thống, một khi Bộ Chính trị đã quyết, hầu như chắc chắn nó
được thực hiện trong toàn Đảng. Nên phát huy truyền thống
này.
Trong một số
bài viết trước đây, tôi đã kiến nghị vận dụng một điều, đó
là không ngoái lại quá khứ, khép lại quá khứ
khi bàn về thực hiện đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc trên
cơ sở dân chủ.
Theo đuổi cách
suy nghĩ này, tôi xin kiến nghị chung với cả nước nguyên tắc
không ngoái lại quá khứ, khép lại quá khứ với
mục đích từ nay trở đi mỗi người tự sang trang cho mình đi,
vào một thời kỳ phấn đấu mới cho chính mình và cho đất nước,
tôi cũng kiến nghị như vậy đối với toàn Đảng.
Nói thẳng
thắn, không ngoái lại quá khứ được nói tới ở
đây là không vận dụng nguyên tắc hồi tố, không bới lông tìm
vết chuyện cũ, từ nay đối với mỗi người là sự bắt đầu mới
như nhau, cùng nhau sang trang mới cho chính mình và cho đất
nước.
Tôi chưa tìm
ra được cách diễn đạt như thế nào cho đầy đủ và kín kẽ, song
nội dung cụ thể tôi hình dung trong đầu đại ý: Không
ngoái lại quá khứ theo tinh thần không hồi tố được hiểu là
(a) cho đến khi sang trang, ví dụ lấy thời điểm
từ hôm nay trở đi, ngoại trừ những tội đang bị
truy cứu trách nhiệm hình sự trước pháp luật, không vận dụng
nguyên tắc hồi tố trong việc tích tụ tài sản không minh bạch
trước đây; (b) không truy cứu trách nhiệm và không vận dụng
nguyên tắc hồi tố đối với mọi hiện tượng chạy chức chạy
quyền đã xảy ra trước đây, ai ở cương vị nào vẫn giữ nguyên
cương vị đó; (c)nhưng từ hôm nay trở đi tất cả
cùng nhau sang một trang mới: tất cả những gì đang có trước
khi sang trang đều được thừa nhận quyền sở hữu, nhưng tất cả
mọi thứ từ nay đều phải thực hiện công khai minh bạch để
đóng thuế và mọi việc làm ăn phải theo đúng pháp luật; mỗi
người tiếp tục làm đúng chức vụ đang giữ trước khi sang
trang - nếu khả năng bộc lộ ra là không đáp ứng công việc sẽ
được thuyên chuyển trong danh dự và giữ nguyên các quyền lợi
khác trước đây đã được hưởng; (d) từ hôm nay trở đi – nghĩa
là sau ngày sang trang lịch sử – tất cả chỉ còn lại pháp
luật và pháp luật, tất cả phải thực hiện đầy đủ tính giải
trình và chịu trách nhiệm (accountability).
Tóm lại,
không ngoái lại quá khứ, khép lại quá khứ là ý tưởng
sẵn sàng chịu đựng mọi điều có thể chịu đựng, hạn chế các
trở lực, mong muốn tạo mọi thuận lợi có thể, để đạt bằng
được mục đích đưa đất nước sang trang của thời kỳ phát triển
mới.
Có ý kiến cho
rằng đang khủng hoảng kinh tế như thế này, làm sao mà cải
cách chính trị toàn diện và triệt để được? Tôi lại nghĩ
khủng hoảng kinh tế hiện nay chính là lý do và là thời cơ để
cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế chính trị, vì mọi
chuyện đã được phơi bày ra rất rõ ràng để quyết định, để
hành động. Tình hình bậy giờ làm gì khó bằng nếu không muốn
nói là thuận lợi hơn rất nhiều so với thời Đại hội VI; tiềm
năng mọi mặt của đất nước bây giờ rất lớn và cần được đánh
thức. Cốt lõi của vấn đề lại là ở chỗ không được để vuột mất
thời cơ cải cách triệt để lần này. Đang là lực lượng chính
trị mạnh nhất nắm thực quyền đất nước, những mâu thuẫn đối
kháng tích tụ trong xã hội còn ở mức kiểm soát được, tiềm
lực kinh tế đất nước còn đủ mạnh, cho nên lúc này Đảng đang
có cơ hội lớn nhất để tiến hành cuộc cải cách triết để. Nếu
chậm trễ, tới một lúc nào đó sẽ là nước đến chân không kịp
nhảy và sẽ rơi vào tình trạng lực bất tòng tâm.
Xin kể lại
trường hợp chính quyền Soeharto ở Indonesia nhân danh chính
thể “trật tự mới” (sau khi phế bỏ tổng thống Sukarno năm
1967) đã tồn tại được 30 năm, và bị lật đổ năm 1998 vì tha
hóa tàn tệ. Hồi ấy rất nhiều ý kiến cho rằng nước Hồi giáo
đông nhân nhất thế giới này sẽ phân rã và tan rã trong hỗn
loạn, lại vào lúc Indonesia phải trao trả độc lập cho Đông
Timor nên tình hình càng nhạy cảm. Thế nhưng dân chủ đã
thắng và hôm nay mang lại cho Indonesia một vị thế và một
gương mặt hoàn toàn mới: Indonesia đang phấn đấu trở thành
nền kinh tế lớn thứ 10 của thế giới và trở thành trụ cột của
ASEAN. Nguyên nhân chủ yếu là những lực lượng tinh hoa của
quốc gia này đã đặt lợi ích quôc gia lên trên hết và kiên
định con đường dân chủ.
III.2.2.
Về bộ máy trí tuệ của Đảng
Đảng đang bị
làm suy yếu đi, vì chính lực lượng trí tuệ trong bộ máy giáo
dục, đào tạo, tuyên giáo, lý luận và hệ thống thông tin đại
chúng được kiềm tỏa chặt chẽ trong “lề phải”
đang giam hãm Đảng. Đây là một thực tế vô cùng nguy hiểm.
Toàn bộ bộ máy
trí tuệ của Đảng hầu như chỉ dồn sức vào làm chức năng “quán
triệt” và không làm được bao nhiêu, thậm chí có khi không
được phép làm chức năng khai phá, nên trong nhiều trường hợp
bộ máy trí tuệ của Đảng còn là dinh lũy, là quân xung kích
của bảo thủ và lạc hậu trong Đảng.
Không phải
trong bộ máy trí tuệ của Đảng không có những cái đầu kiệt
xuất, không có những trái tim nóng hổi sót sa về thực trạng
đất nước hiện nay, không có những tiếng nói cương trực của
lẽ phải… Song tất cả những thứ này – tạm gọi dưới cái tên
chung là “cái lề trái” – đều bị úp gọn trong
cái mũ kim cô của “lề phải”, của “quán triệt”,
của ý chí của lãnh đạo. Nên “cái lề trái” này
hoặc là bị vô hiệu hóa, hoặc là chỉ có ít tác dụng. Cái mũ
kim cô mang ra sử dụng còn được phong cho chức năng là bảo
vệ sự chuyên chính của cách mạng trong toàn bộ lĩnh vực
chính trị, văn hóa, tư tưởng. Cái tên ngắn hơn cho nhiệm vụ
này là giữ “độc quyền về chân lý”, cái sứ mệnh
thiêng liêng ủy thác cho nó là “độc quyền yêu nước”.
Cũng có thể là
vì cái chất “lề trái” nói trên trong bộ máy
trí tuệ quá ít, quá yếu, quá nhu nhược, hoặc bị kiềm tỏa quá
chặt chẽ, nên bị vô hiệu hóa?.. Tôi không có căn cứ gì để
trả lời.
Có thể chỉ vì
ý chí của lãnh đạo Đảng là quyết giữ bằng được cái lề
phải để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối
của mình?.. …
Tôi chỉ có
nhận xét: Cái lề phải đang giam hãm cả nước
trong lạc hậu và tự gây ra cho đất nước nhiều khó khăn không
đáng có.
Nêu ra nhận
xét trên, tôi chỉ muốn đặc biệt lưu ý đến cái kết quả cuối
cùng, cái sản phẩm cuối cùng bộ máy trí tuệ của Đảng đã làm
ra theo tinh thần quán triệt lề phải:
Đó là thực
trạng cấu trúc bộ máy vô cùng rườm rà của toàn bộ hệ thống
chính trị đất nước (bao gồm các bên Đảng, chính quyền, đoàn
thể xã hội…), có biên chế quá lớn rất tốn kém công của, với
tỷ lệ bằng cấp rất cao, và nhìn chung đội ngũ cán bộ viên
chức có trình độ chính trị và chuyên môn thấp, sự tin cậy
được và tính trách nhiệm của họ chưa như mong đợi. So với
đòi hỏi của nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ viên chức mặc dù được
đào tạo chính quy nhưng nhìn chung có sự lạc hậu lớn về tư
duy kinh tế, về pháp luật và về các quyền tự do dân chủ của
dân, về sự vận động của của các quy luật phát triển kinh tế
chính trị, văn hóa, xã hội. Đã thế sự phát triển mọi mặt của
đất nước ở giai đoạn hiện nay khách quan có nhiều vấn đề
khó, khiến cho sự bất cập này ngày càng lớn. Tình trạng tha
hóa hiện nay và sự khủng hoảng các giá trị đang diễn ra
trong xã hội càng làm suy yếu thêm đạo đức con người và đạo
đức nghề nghiệp của họ. Năm này qua năm khác hàng vạn cán bộ
viên chức được bồi dưỡng thêm, được chuyên tu ở trong nước
hay nước ngoài, song không cải thiện tình hình được bao
nhiêu – nhất là xem xét dưới góc độ hiệu quả và chất lượng
của nền kinh tế quốc dân, tình trạng quan liêu tham nhũng
không giảm…
Nêu lên nhận
xét: công việc bảo đảm lề phải của bộ máy trí
tuệ của Đảng đang giam hãm cả nước trong lạc hậu, tôi cũng
muốn xin lưu ý đến sản phẩm cuối cùng của nó là tình trạng
nền giáo dục nước nhà và tình hình dân trí nói chung của
nước ta như hiện nay, nhất là cuộc khủng hoảng tinh thần
nặng nề nhất kể từ Cách Mạng Tháng Tám đang diễn ra trong
nhân dân, sự xuống cấp của đời sống văn hóa, xã hội…
Trong Bài 2
bàn về sự nghiệp duy tân đất nước, tôi đã trình bầy những lo
lắng của mình về toàn bộ tình hình văn hóa - xã hội và
thượng tầng kiến trúc của đất nước, xin miễn nhắc lại.
Nghĩ về bộ máy
trí truệ của Đảng, tôi liên hệ đến tất cả những gì sử gia
Trần Trọng Kim và học giả Nhật Yoshiharu Tsuboi mô tả về sự
hình thành, năng lực, phẩm chất, sự hoạt động và ảnh hưởng
của đình thần với tính cách là giường cột tinh thần và nền
tảng văn hóa của các đời vua triều Nguyễn. Chính giai đoạn
lịch sử này làm tôi hiểu ra được các vua triều Nguyễn và
đình thần của họ đã tự trói buộc chế độ chính trị của đất
nước vào sự nô dịch của quá khứ, đẩy nước ta đi vào một ngả
đường khác hẳn với nước Nhật, đã tự làm yếu đất nước trước
khi thực dân Pháp có thể đặt ách đô hộ lên đất nước. Bộ máy
trí tuệ của Đảng hôm nay quan tâm hay không quan tâm đến
những bài học có thể rút ra từ lịch sử cay đắng cuối triều
đại nhà Nguyễn?
Nêu lên suy
nghĩ của tôi về bộ máy trí tuệ của Đảng, tôi còn muốn đặc
biệt lưu ý đến thực tế là hình như nó chưa bao giờ làm được
nhiệm vụ “think tank” cho Đảng, cũng chưa bao giờ tạo ra cho
Đảng một “think tank” xứng đáng với sự cần thiết. Có phải
như vậy không? Kết quả dẫn tới Đại hội VI và công cuộc đổi
mới hôm nay hình như không thể được coi là sản phẩm của bộ
máy trí tuệ của Đảng, có chăng là có sự đóng góp của một số
cái đầu lỗi lạc với tính cách là cá nhân trong bộ máy đó,
chứ không phải là của bộ máy. Bộ máy trí tuệ chạy theo, đi
theo công cuộc đổi mới này – nhưng cũng chỉ có thế. Bây giờ
đổi mới ở giai đoạn này đã làm xong nhiệm vụ của nó; tiếp
theo phải là cái gì? – cho đến nay chưa thấy bộ máy trí tuệ
của Đảng đưa ra phương án mới nào.
Đổi mới xây
dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc, tiến hành cuộc cải
cách sâu rộng, toàn diện và triệt để hệ thống chính trị của
đất nước, không thể không tiến hành cuộc giải phóng tư tưởng
trong Đảng. Đấy chính là nhiệm vụ của bộ máy trí tuệ của
Đảng lúc này.
Tôi tin rằng
đội ngũ trí thức trong Đảng không nhỏ, những người trí thức
chân chính trong Đảng không ít. Lẽ ra lúc này bộ máy trí tuệ
của Đảng cần tham vấn cho Đảng nên gỡ bỏ cái mũ kim cô như
thế nào trong tình hình hiện nay, song đến nay không thấy họ
làm việc này. Vì vậy lúc này rất cần lãnh đạo Đảng tự tay
mình cất đi cái mũ kim cô và đòi hỏi bộ máy trí tuệ của mình
làm đúng, làm hết chức năng của nó, bao gồm cả chức năng huy
động trí tuệ cả nước và của nhân loại, cho mục đích đổi mới
Đảng thành đảng của dân tộc, cho thực hiện thành công nhiệm
vụ cải cách sâu rộng và triệt để hệ thống chính trị của đất
nước.
Thay lời kết: Hoang tưởng?
Tôi hỏi mười
đảng viên là bạn thân ở tuổi tôi và lớn hơn, tuổi đảng phần
đông là nhiều hơn, cuộc sống cũng từng trải hơn tôi, thì cả
mười người đều thấy phải đổi mới xây dựng Đảng trở thành
Đảng của dân tộc, phải tiến hành cải cách thể chế chính trị,
đại thể như đã trình bày trong 3 bài viết này. Lẽ phải là
như vậy.
Rất nhiều ý
tưởng trong 3 bài viết này cũng từ họ mà ra, có nhiều chỗ
tôi chỉ là cái loa, cố là cái loa trung thành mà thôi.
Tuy nhiên phải
có đến bảy, tám người nói với tôi là không làm được:
- Quyền
lực và nhóm lợi ích không cho làm.
- Giao
cho lực lượng chính trị mạnh nhất này đang lũng đoạn đất
nước mọi mặt nhiệm vụ cải cách như thế là ảo tưởng đến ngây
thơ và phiêu lưu quá!..
- Di sản
văn hóa 35 năm thời bình của chế độ ta nặng nề quá, làm sao
vượt qua được?!..
- Cuộc
cải cách phải làm lớn quá, giới cầm quyền hiện nay, trí thức
và trình độ dân trí nước nhà đều chưa kham nổi!
- Chưa
có cách gì vượt qua được nỗi sợ trong mỗi người…
- Mọi
điều viết ra trong 3 bài của anh chỉ nói lên được là tình
hình đã quá muộn để nghĩ đến cải cách!
- Hay là
số phận dân tộc mình nó thế?
- …
Tôi kiên trì
nghe hết, cả những điều còn xé lòng hơn nhiều.
Song cả mười
người chúng tôi đều chung một ý: phải suy nghĩ tiếp.
Cá nhân tôi
nghĩ, và tôi chắc những anh chị khác cũng nghĩ thế, chịu khó
trao đổi, chịu khó thông tin, mọi chuyện có thể sẽ vỡ dần
ra.
Trong khi trao
đổi giữa chúng tôi với nhau như thế, có 2 ý kiến khiến chúng
tôi phải suy nghĩ:
- Kinh
nghiệm hình như cho thấy Việt Nam không dám đi trước Trung
Quốc trong cải cách.
- Nếu
Việt Nam dám cải cách dân chủ, liệu Trung Quốc có phá không?
Sự đời dứt dây
động rừng. Hai ý kiến trên không phải là phi lý.
Ý kiến thứ
nhất đã được bàn tới nhiều lần rồi, tôi cũng đã từng viết
ra suy nghĩ của mình trong một số bài. Chỉ xin nói gọn ở đây
là một trong những bài học thành công quan trọng của cách
mạng Việt Nam là độc lập, tự chủ và sáng tạo trong tư duy.
Nếu nói là ta không dám đi trước Trung Quốc trong cải cách,
thực ra là không dám cải cách mà thôi. Chuyện cũ là trong
đổi mới, ta thực hiện sau Trung Quốc khoảng 10 năm, nhưng có
nhiều cái rất quan trọng lúc ấy ta đã đi trước Trung Quốc,
nhất là vấn đề một giá, vấn đề thị trường, tỷ giá hối đoái…
Về ý kiến thứ
2, tôi thừa nhận không loại trừ vì một hay nhiều lý do nào
đấy, Trung Quốc có thể can thiệp, và họ có nhiều cách. Sẽ là
không đúng nếu nghĩ rằng cải cách là vấn đề nội bộ của nước
ta và không cần quan tâm đến những động thái đối ngoại. Tuy
nhiên, dù Trung Quốc có những “chiêu” gì đi nữa, cuối cùng
và chủ yếu vẫn là do cách ứng xử của ta quyết định. Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết thực sự là vấn đề sống còn của
ta. Điều cầm chắc là mối quan hệ hợp tác hữu nghị láng giềng
tốt của ta với Trung Quốc không có trong danh mục của cơ chế
“xin – cho”, vậy chỉ còn lại một con đường duy nhất là phải
làm mọi việc để ta thực sự và luôn luôn là chính ta. Ta cải
cách hay không cải cách, không thay đổi được sự nghiệt ngã
của địa lý tự nhiên: Việt Nam là chướng ngại vật đầu tiên và
lớn nhất của Trung Quốc trên con đường qua Biển Đông vươn ra
Thái Bình Dương. Hơn nữa rồi đây châu Á – Thái Bình Dương
vừa là khu vực năng động nhất của thế giới, vừa là vùng nóng
do hội tụ vào đây đủ hết các đối thủ nặng ký tranh hùng.
Khỏi phải bàn, trong một cục diện thế giới và khu vực như
thế, một Việt Nam yếu hay một Việt Nam mạnh là đắc sách nhất
cho đất nước. Càng nghĩ, tôi càng thấy không có bất kể một
lý do gì biện minh cho trì hoãn cải cách, mà chỉ có mối lo:
Làm sao cải cách nhất quyết phải thành công, thành công sớm!
Tôi thực sự
tin rằng đất nước ta đang đứng trước và bắt buộc phải thực
hiện bằng được cuộc cải cách vỹ đại nhất này trong lịch sử
của mình. Tôi đã nhiều lần trình bày suy nghĩ này. Tôi chỉ
tiếc là mình chưa có đủ trí tuệ nói lên tầm vĩ đại của cuộc
cải cách này, mà chỉ cảm nhận được nó đến cháy bỏng tâm can,
qua khát vọng về duy tân đất nước, về đổi đời dân tộc, về
đổi đời đất nước.
- Vì sao, và
có đúng như thế không? Hay là tôi hoang tưởng?
Nhưng dù có ai
coi tôi là điên, tôi vẫn tin rằng phía trước đất nước là
cuộc cải cách vỹ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta,
nhất thiết dân tộc ta phải thực hiện, thực hiện thành công.
Đảng Cộng Sản Việt Nam nợ dân, nợ đất nước cuộc cải cách vỹ
đại này để trang trải hai cam kết Đảng đã nhận về mình trước
dân tộc khi giương cao ngọn cờ cứu nước:
- Lãnh
đạo nhân dân xây dựng thành công thể chế nhà nước pháp quyền
dân chủ cho đất nước. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
là như thế.
- Hoàn
thành sự nghiệp thống nhất dân tộc vì một Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Tôi nghĩ nếu
không tiến hành cải cách, Đảng sẽ thực sự chỉ còn lại là một
lực lượng chính trị. Nếu tiến hành cải cách, tôi tin sẽ
phòng ngừa được đổ vỡ, và đó sẽ là cải cách do Đảng lãnh
đạo, Đảng sẽ trở thành đảng của dân tộc. Để xảy ra đổ vỡ
chắc chắn sẽ là thảm họa, rồi sau đó nhân dân cũng phải tự
mình tìm đường cải cách đưa đất nước đi lên, …nhưng nếu để
xảy ra như thế, bây giờ không nói trước được điều gì.
Vài điều xin
được chia sẻ với bạn đọc, đúng sai thế nào xin được chỉ
giáo./.
Võng Thị, ngày
05-11-2011
Nguyễn Trung
[1]
Nói “một trong hai con đường ấy bằng cách này hay cách
khác nhất định sẽ diễn ra”, tôi hiểu đấy là sự vận động
tất yếu do chính đòi hỏi tồn tại và phát triển của đất nước
ta đặt ra, và đấy cũng là quy luật vận động của cuộc sống
một dân tộc, một quốc gia. Lịch sử hơn 2000 năm của đất nước
khẳng định hùng hồn, dân tộc Việt Nam ta không bao giờ chịu
khoanh tay chấp nhận mãi mãi bất kể sự nô dịch hay hèn kém
nào. Từ phá bỏ nghìn năm Bắc thuộc, đến Đại Cồ Việt.., đến
Lý công Uẩn.., đến Nguyễn Trãi.., đến Tuyên Ngôn Độc Lập
02-09-1945, đến hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập thống
nhất đất nước hôm nay.., là sự khẳng định xuyên suốt lịch sử
đất nước ta về sự vận động tất yếu này. Thực tế cuộc sống
mọi mặt của đất nước hôm nay trong bối cảnh thế giới hiện
tại cũng cho đầy đủ các bằng chứng và lý lẽ giúp chúng ta
nhìn thấy: Nếu không tự giác cải cách mà cứ giữ nguyên trạng
như hiện nay, hay nhúc nhích quá chậm, đều đồng nghĩa với
bất khả kháng tích tụ bên trong mọi mâu thuẫn đối kháng, dẫn
tới sụp đổ là kết cục tất yếu, rồi đất nước lại phải bắt đầu
tìm đường để thay đôi, để phát triển…
[2]
Đã trình bày kỹ trong bài “Trách nhiệm lịch sử” – Thời Đại
Mới số 19 và trong bài về vấn đề sử dụng người tài, Thời Đại
Mới, số 22.
[3]
Tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội của một nước nông nghiệp
lạc hậu và chậm phát triển có nhiều tàn dư phong kiến.
[4]
Gần đây lại phải sửa đổi 19 điều cấm.
[5]
Tìm xem Văn kiện Đại hội XI, sách đã dẫn.
[6]
Xem: “Hiến pháp Việt Nam 1936 – 1959 – 1980 – 1992”, NXB
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1995, tr. 7 & 8.
[7]
Nghị quyết Đại hội XI, sách đã dẫn, tr. 71.
[8]
Xem: Nguyễn Trung, (1) “Trách nhiệm lịch sử”,
Tạp chí Thời Đại Mới số 19: Món nợ (a)lãnh đạo nhân dân xây
dựng thành công một thế chế dân chủ và (b) hoàn thành sự
nghiệp thống nhất dân tộc trên nền tảng của thể chế dân chủ
ấy. (2)”Bài 2 – “Suy nghĩ về sự nghiệp duy tân đất
nước” – “Không được phản bội một hy sinh nào, không
một mất mát mát nào được phép bỏ qua trong sự nghiệp giành
lại độc lập thống nhất đất nước hôm nay.”
[9]
Gaddafi tự phong cho mình danh hiệu là “Người hướng dẫn
cuộc Cách mạng Vĩ đại tháng 9 đầu tiên của Libya Nhân dân Xã
hội chủ nghĩa Ả Rập
Jamahiriya", gọi chế độ chính trị của Libya do ông ta
đứng đầu là chủ nghĩa xã hội hồi giáo.
[10]
Nhân đây xin nói lại vấn đề đảng cầm quyền:
Khái niệm này ra đời trong chế độ chính trị có nhiều đảng ở
các nước phương Tây, đảng nào thắng cử được quyền đứng ra
lập nội các thì được gọi là đảng cầm quyền.
Tôi hiểu Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khái niệm đảng cầm
quyền là xuất phát từ kinh nghiệm này. Trong chế độ
chính trị chỉ có một đảng, khái niệm đảng cầm quyền
bị lạm dụng để che lấp sự thật đấy là đảng độc quyền nắm
quyền lực và cuối cùng là trở thành đảng cai trị, nhà nước
biến thành cơ quan quyền lực của cái gọi là đảng cầm quyền.
Vì vậy, chỉ nên sử dụng khái niệm đảng cầm quyền
trong một hệ thống chính trị đa đảng. Trong hệ thống chính
trị một đảng hiện nay của nước ta, nên bỏ khái niệm này và
trở lại khái niệm đảng lãnh đạo. Đảng cần làm mọi việc để
trở thành lãnh đạo, để xây dựng hệ thống nhà nước đầy đủ
quyền lực và hoàn toàn dưới quyền của Hiến pháp; quan hệ
giữa đảng và nhà nước là quan hệ lãnh đạo theo những quy
định rành mạch của Hiến pháp.
[11]
Nguyễn Trung, bài viết về vấn đề “hiền tài”, Tạp chí Thời
Đại Mới, số 22.
[12]
Không nên hiểu tự do báo chí là muốn viết bừa bãi cái gì thì
viết, đấy là loạn báo chí chứ không phải là tự do báo chí.
Tự do báo chí cũng phải được học hỏi, được xây dựng từ trách
nhiệm của người viết và từ nâng cao không ngừng quyền và
trình độ của người đọc, từ thực hiện sự công khai minh bạch…
[13]
Theo tinh thần này, cách hiểu về “đảng cầm quyền” trong thể
chế chính trị dân chủ như anh Tống Văn Công đã trình bày
trong bài viết của mình là có lý, vì điều kiện tiên quyết là
phải có chỗ đứng cho đảng cầm quyền là có sự tồn tại của chế
độ chính trị dân chủ. Thiếu điều kiện tiên quyết này, chỉ có
đảng nắm tất cả: đảng thống trị hay là đảng cai trị.
[14]
Ngay trong Bộ chính trị, trong BCHTƯ, trong từng đảng ủy các
cấp, trong một cơ quan chuyên trách của Đảng… thường chỉ có
một hay một số nhân vật nào đó có ảnh hưởng hay tiếng nói
quyết định và chi phối tất cả; trong thực tế không hiếm
trường hợp có những chủ trương lớn, đúng, đã được thông qua
theo đúng thủ tục, song người có ảnh hưởng lớn nhất vẫn có
thể vô hiệu hóa nó; cấp trên có thể vô hiệu hóa những quyết
định đúng đắn của cấp dưới. Ảnh hưởng trực tiếp thường dễ
thấy. Song ảnh hưởng gián tiếp có thiên hình vạn trạng,
nhiều trường hợp khó thấy nhưng có thể có tác động vô cùng
quan trọng, hoặc tùy trường hợp thậm chí có thể vô cùng nguy
hiểm; cái thường dễ thấy nhất là một mảnh giấy viết tay, một
lời nhắn, một “con ruồi” phê trên trang giấy, một sự xắp xếp
thứ tự chồng hồ sơ của người thư ký, một câu chuyện “buôn
dưa” của người lái xe hay anh bảo vệ, vân vân…
[15]
Nguyễn Trung, “Trách nhiệm lịch sử”, Thời Đại Mới số 19,
tháng 7 – 2010.
[
16]
Được hiểu theo nghĩa từ nhà Lý chuyển sang nhà Trần không
phải trải qua một cuộc chiến tranh dẹp bỏ nhà Lý, và sau đó
về cơ bản nhà Trần đã thừa kế và phát triển được nhiều thành
tựu huy hoàng có từ nhà Lý. Về cơ bản đó là sự chuyển hóa đỡ
đổ máu vì không thông qua chiến tranh từ triều đại này sang
triều đại khác, không xảy ra tình trạng xóa đi làm lại từ
đầu. Đương nhiên ví dụ nào cũng khập khiễng. Nói là đỡ đổ
máu, chứ không phải không đổ máu, vì Trần Thủ Độ không thể
không ra tay đối với mọi việc làm muốn níu kéo lại triều Lý
hoặc cản trở sự xuất hiện của nhà Trần. Một đứa trẻ sơ sinh
nào cũng phải dính chút máu của mẹ đẻ của mình.
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_3.htm |