Niềm
mơ
Tuổi trẻ Hà Tĩnh
đến chùa. |
Vừa nhận được message của một người tự nhận là Phật tử, đang du học
tại Nam Hàn, góp ý: sắp tới nhà nước tổ chức ngày đi xe Bus, PGVN,
quý thầy và Phật tử nên tham gia làm vệ sinh công lộ, dùng những
phương tiện như giấy, vải ủ nước đắp lên các đoạn đường chưa tráng
nhựa để giảm bớt bụi bặm…
Đó là một ý kiến phát xuất từ thiện chí, một phương thức khả thi nhưng
bất khả hành! Thật ra, một vài địa phương miền trung như Khánh Hoà, quý
thầy cũng từng hướng dẫn tín đồ thu gom rác nơi bãi biển, làm vệ sinh
đường phố… một cách tự phát! Nếu giáo hội có một chỉ thị cho toàn quốc
làm việc nầy thì đó là một ước vọng khó mà hiện thực.
“Hoằng pháp thị gia vụ” là cốt lõi sinh tử của Phật giáo, thế mà Giáo
hội trên 30 năm nay vẫn chưa chứng tỏ một khả năng tương xứng; ngoại trừ
một số chùa tự phát; Nhiều tín đồ đến chùa ngoài việc lễ lạy cúng dường,
hầu hết ít ai được thầy hướng dẫn giáo lý để họ biết mình là một phật tử
chân chánh. Một số tụ điểm diễn giảng, ai đến thì nghe, không đến thì
thôi, nghĩa là ai có duyên thì tự đến với Đạo chứ Đạo không chủ động đến
với quần chúng, ngược lại, các mục sư tự thân len lỏi vào các ngõ ngách
để lắng nghe yêu cầu của quần chúng, giúp đỡ quần chúng về vật chất để
sau đó giúp đỡ họ về mặt tâm linh; Hai sắc thái Hoằng pháp của
hai tôn giáo hoàn toàn cách biệt; Một đằng để tín đồ tìm đến mình và
cung phụng cúng dường cho mình, một đằng vị chủ chăn đích thân đến tìm
các con chiên lạc để giúp đỡ và đưa bầy chiên lạc về chuồng!
Chính tính thụ động đối với xã hội như thế mà Nam Triều Tiên trở thành
mãnh đất mầu mỡ cho Tin Lành phát triển. Hàn quốc cũng như các nước Á
Châu trước kia trên 80% Phật giáo, bây giờ, Hàn quốc xấp xỉ trên 60% là
Tin Lành, vì thế, người đứng đầu đất nước Kim Chi cũng phải là một tín
đồ thần giáo. Trước 1975, miền Nam Việt Nam, Thiên chúa giáo chỉ 5% dân
số mà các đời Tổng Thống đều là tín hữu Kitô thì chả lạ gì Tổng Thống
Hàn quốc hiện nay là một con chiên cuồng nhiệt o ép Phật giáo Nam Hàn.
25 tông phái Phật Giáo Nam Hàn đã bừng tỉnh sau nhiều thập kỷ ngủ quên
và an phận; Đứng trước miệng hố tồn vong, Phật giáo Nam Hàn không chỉ
phản ứng khi Tổng Thống làm nhục vị đứng đầu Đạo Phật, loại danh sách
các tự viện ra khỏi bản đồ toàn quốc, và một số kỳ thị khác, không chỉ
chờ đợi nhà nước có lời xin lỗi mang tính chiến lược, mà Phật Giáo Hàn
Quốc phải chuyển mình cho kịp với cao trào truyền bá của tôn giáo bạn.
Đạo Phật không cần có một Tổng Thống Phật tử nhưng cần giáo lý đạo Phật
thật sự thấm nhuần vào mọi tầng lớp nhân dân. Phật giáo Hàn Quốc không
chỉ đòi hỏi sự công bằng tôn giáo trước pháp luật và xã hội mà tự mình
phải chứng tỏ vị thế nhập cuộc, xã thân đối với quần chúng. Phật giáo
Hàn thực sự phải là vị thế xứng đáng trong lòng dân tộc chứ không chỉ
đáng tôn kính trước chính quyền; Tu sĩ Phật giáo Hàn Quốc cũng như hầu
hết các nước Phật giáo châu Á đều mang tính thụ động, vì thế, sau đệ nhị
thế chiến, thần giáo theo gót chân xâm lược của phương Tây lấn sân mà
Phật giáo đã hờ hững bỏ mặc! Đó là lỗi của tu sĩ Phật giáo.
Một số tu sĩ Phật giáo Việt Nam la hoảng khi thấy Tin Lành đang là loại
vi khuẩn hung hãn xâm nhập vào Việt Nam, lớn tiếng kích bác, nhưng không
tự xét lại do chính mình bỏ rơi tín đồ. Một tín đồ gặp hoạn nạn, đến với
cửa chùa phải có giá nhất định, một Ngọ là giá bao nhiêu, một xấp kinh
Địa Tạng phải trả bao nhiêu… Tuy tệ nạn nầy không phải hầu hết ở các
chùa, nhưng phần lớn quý thầy không hiểu nỗi khổ của quần chúng, đói
nghèo về vật chất, thiếu thốn về tâm linh. Nhất là khi tang gia bối rối,
vấn đề tinh thần rất cần thiết để an ủi, đó là lúc tranh thủ tình cảm
của nạn nhân đến với đạo, ngược lại, một số vị chuyên gia ma chay đã
phớt lờ niềm đau đó, lạnh lùng mặc cả như món hàng trôi nổi chợ đời, như
thế làm sao quần chúng đến với Đạo, ngay cả một số Phật tử thuần thành
cũng không tránh khỏi những trường hợp bất mãn khi gia sự cần đến quý
thầy. Tin lành không đòi hỏi ai phải bỏ một đồng khi đến với họ, ngược
lại người muốn vào Đạo, quy y phải đóng tiền, rồi cúng dường và lắm thủ
tục nhiêu khê tốn kém mà không được thầy giảng dạy để hiểu rõ giáo lý
mình theo. Muốn hiểu, phải tự mình mày mò tìm sách đọc, mua băng đĩa để
nghe, trong khi Tin Lành họ biếu sách miễn phí, có buổi nhóm thường
xuyên mỗi tuần, nếu là Hội Thánh tại gia, một nhóm người quy tụ ở một
ngôi nhà tín đồ để nghe giảng giải Phúc âm; dù là gia đình ngoại đạo,
hữu sự, họ tình nguyện đến giúp đỡ thăm viếng. Tác phong truyền đạo
trong thời đại công nghiệp là thế, các sư Phật giáo vẫn chưa thay đổi lề
thói sinh hoạt lỗi thời thì chả trách con của mình mỗi ngày một mất, ngủ
một đêm sáng ra đã thấy bàn thờ Phật được thế bởi cây Thập ác trong các
gia đình tân tòng! (Tin Lành có mặt tại Việt Nam vào năm 1884 bởi một
Mục sư do Hội truyền giáo Tin Lành gửi đến thăm dò, hơn một thế kỷ, T.L
không phát triển bao nhiêu, nhưng từ khi nhà nước Việt Nam mở cửa, một
số du sinh và lao động sang Hàn Quốc về, Tin Lành bộc phát dữ dội tại
miền Nam Việt Nam những năm gần đây).
Hầu hết Phật giáo các nước Á Châu đều gắn liền với xã hội
Tại Hàn Quốc, Phật Giáo tuy bị đàn áp vào thế kỷ thứ 14, nhưng đến cuối
thế kỷ 16, tu sĩ Phật giáo vẫn khoác
chiến bào do một thiền sư lãnh đạo
để cứu nguy đất nước trước cuộc xâm lăng của Nhật Bản. Chính Thiền sư Từ
Minh Đường thay mặt chính phủ qua Nhật ký hoà ước giữa Nhật và Triều
Tiên. Phật giáo Triều Tiên có công trong việc giáo dục phổ cập luôn sát
cánh cùng quần chúng, thế nhưng, những công trạng đó của Phật giáo,
không đủ đi sát thấm sâu vào nhân dân nên sau đệ nhị thế chiến, Tin Lành
phát triển bằng phương tiện vật chất và tổ chức linh hoạt, vì thế Phật
giáo phần lớn nhường sân cho bạn, tuy nhiên, ngày nay PG Triều Tiên bắt
đầu phục hoạt. Vào đầu kỷ nguyên XX, Phác Trọng Bân, người Hàn Quốc sáng
lập Phật Giáo Viên, mở rộng giáo dục, giáo hoá, từ thiện, sản nghiệp,
văn hoá, nông nghiệp, thương nghiệp, tiền tệ, báo chí, y dược… phát
triển khá thành công. Một tổ chức cố vượt thoát tính thụ động của PG
với xã hội. Với tiêu đề: Phật Pháp là đời sống, đời sống là Phật
Pháp, vì thế tổ chức nầy chuyển tải Phật pháp vào đời sống thường
nhật - vật chất và tâm linh song hành, rất uyển chuyển linh động; hiện
nay phát triển ra cả nước ngoài. Gồm có 115 cơ sở, Tín đồ trên dưới 3
triệu và trên 15 ngàn nhân viên giới chức phục vụ trong hệ thống của
Phật Giáo Viên. Tuy chưa tròn 100 tuổi và hết 30 năm dưới ách thống trị
của Nhật Bản, thế mà hội Phật Giáo nầy phát triển bền vững và uy thế
nhất hiện nay tại Hàn Quốc. Tổ chức nầy đã giáo dục và nâng cao mức sống
quần chúng, đóng góp khá nhiều cho xã hội Triều Tiên. Ngoài Phật Giáo
Viên của Hàn Quốc còn có Hội Từ Tế (Tzu Chi)
của Phật giáo Đài Loan, có
nhiều cơ sở xã hội song hành như một hệ thống quốc gia, vừa tốt đạo đẹp
đời, vừa thể hiện tính thực dụng và khả ái của giáo lý đạo Phật qua câu:
Phật Pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác… Thế gian pháp tức Phật
Pháp. Nhờ tổ chức và sự hy sinh như thế mà tín đồ bổn đạo của họ an
cư lạc nghiệp.
Tại Việt Nam, vừa thoát khỏi ngàn năm Bắc thuộc, xã hội còn bỡ ngỡ trước
văn minh phương Tây, văn hoá Kito giáo bằng lợi thế của mình, tiền và
quyền thẩm thấu vào lòng dân, nhưng do tính cố chấp nên không mấy hiệu
quả, mãi đến cộng đồng Vano II, Kito giáo cải tiến để thâm nhập văn hoá
Đông phương, tương đối hiệu quả, nhưng so với sự phát triển của Tin
Lành, sau 1975, tại Việt Nam đã phát triển rất nhanh, những mục sư Hàn
quốc, các du học sinh, công nhân Việt Nam sau khi từ Nam Triều Tiên trở
về, biến thành những nhà truyền giáo tích cực, linh động, hiệu quả nhờ
không tổ chức rườm rà, và chịu khó… Các làng quê miền Nam, nhất là cao
Nguyên và miền Tây Nam bộ, Tin Lành phát triển ngay trên mãnh đất của
Phật giáo k’hmer Nam bộ, không những tín đồ mà còn có một ít sư ngã sang
Tin Lành.
Tuy nhiên ngoại đạo khó mà thâm nhập vào làng quê tín đồ Hoà Hảo.
Như vậy, Phật giáo chính thống không tự bảo vệ được tín đồ là do tính
thụ động, an phận; Phật giáo Việt Nam cũng có nhà sư Thích Huệ Nhật, sau
khi ra tù cải tạo, được Tin Lành giúp vốn làm ăn, bây giờ trở thành Mục
sư, qua Mỹ, viết bài xuyên tạc giáo lý Phật giáo. (Tuy cái hiểu của ông
ta về tình Thương của Đạo Phật quá nông cạn, lại đem so sánh tình yêu
của Chúa).
Đó là những trường hợp mà Phật giáo phải xem lại nền giáo dục và
công tác hoằng pháp của mình.
PGVN cũng từng gắn bó với sinh mệnh dân tộc, từng đồng lao cộng khổ góp
phần tẩy trừ ngoại xâm, tại sao giờ nầy Phật giáo bị xem là vô tích sự
trong xã hội, nếu không nói phần lớn các sư là gánh nặng cho quần chúng
và, thay vì là Thiền sư thanh thoát, lại trở thành phiền sư của
đất nước???
Xã hội không quý trọng là do mình thiếu bản lãnh, mất uy tín và không
góp phần giúp đất nước vươn lên, tự mình đứng ngoài lề xã hội. Tuy là
thế, nhưng, vẫn có một số chùa và không ít sư trẻ đã năng động chứng tỏ
khả năng của mình qua công tác hoằng pháp, hướng dẫn quần chúng tu tập
và giúp tuổi trẻ vượt khó vươn lên theo tiêu chuẩn đạo đức nhà Phật mà
Khoá Tu Mùa Hè của chùa Hoằng Pháp 2008 có trên 2000 em thanh thiếu niên
tham dự là một điển hình; một số nơi cũng áp dụng hình thức sinh hoạt đó
nhưng nội dung, chất lượng chưa đủ đáp ứng mà nhu cầu xã hội hiện nay
đòi hỏi tuổi trẻ phải có trước ngưỡng cửa hội nhập.
Trước năm 1975, sư cụ Giác Khoa, chùa Giác Ngạn Hốc Môn, có một số con
cháu đi tu, sau khi cụ mất, nhạc sĩ Mai văn Hiền, con rễ của nội tộc
theo Tin Lành, thế là bầy cháu bỏ Phật giáo, trong đó có người biến
thành mục sư, họ có cảm giác thương hại cho ông bác Hoà Thượng của
mình lầm lạc theo tà giáo!
Công tác Hoằng pháp hiện nay của Phật giáo mang tính phô trương qua các
tụ điểm; sau khi nghe giảng công cộng, người tín đồ về lại cuộc sống
thường nhật không mang một ấn tượng gì đủ để tự chuyển hoá tục tánh của
mình hoặc chả hiểu thêm tí gì về tính sâu sắc của nhân quả, luân hồi…
Tin Lành, họ không cần những buổi giảng chung chung như thế, họ không
cần nhà thờ, hội thánh, họ len lỏi tiếp xúc từng cá nhân bằng thành tâm
nhiệt huyết của họ, họ lắng nghe và hướng dẫn, giúp đỡ tùy
từng cá nhân,
mỗi tín đồ Kito giáo là một cán bộ truyền giáo, quý thầy Phật giáo đã
làm được chưa? vùng sâu vùng xa, các tu sĩ trẻ từ chối đi đến, vì quần
chúng không đủ phương tiện bảo bọc cuộc sống của họ, các tu sĩ đó, thiếu
nhiệt tâm bởi do lối giáo dục của thầy tổ hoặc các trường phật học
truyền đạt giáo thuyết trên mây, mang tính kinh viện mà không chú hướng
kỹ
năng hoằng pháp, tâm lý đối tượng hoằng pháp; áp đặt giáo lý lên đối
tượng mà không uyển chuyển giáo lý vừa tầm thích hợp với đối tượng, và
tự thân đã đánh mất lý tưởng ”Hoằng pháp thị gia vụ”, xem nhu cầu của
ngã pháp quan trọng hơn giáo pháp; không xem quần chúng là mục tiêu cảm
hoá mà nhu cầu bản thân là mục tiêu để quần chúng phải phục vụ, vì họ
thiếu đức hy sinh, chịu khó.
Xã hội công nghiệp đòi hỏi năng động và thực tế, không thể ngồi đó bảo
mọi sự do nhân duyên; thụ động là tự trói tay mình. Phải chủ động đến
với quần chúng; Đạo đến với đời chứ không chờ Đời đến với Đạo; chính vì
thế, khi Pháp xâm lăng Việt Nam, một số các sư tham gia vào các tổ chức
chống Pháp, riêng miền Tây Nam bộ, người Phật tử như Ngô Lợi sáng lập Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, (1867) vừa dẫn dắt quần chúng tu tập theo lối tự lực cánh
sinh, vừa đóng góp cho xã hội, vừa tranh thủ độc lập cho đất nước. 1849
đức Phật Thầy Tây An cũng hoà nhập xã hội, hướng dẫn tín đồ canh tác để
sống mà tu. 1918, Đức Huỳnh Phú Sổ tiếp gót tiền nhân, vừa tu tập, vừa
giúp quần chúng tự túc mưu sinh, đồng thời giành độc lập cho xứ sở.
Những tôn giáo nội sinh như thế, lấy giáo lý nhà Phật làm căn bản, cải
tiến cho thích hợp hoàn cảnh xã hội để luôn có mặt với đồng bào. Cũng
tinh thần đó, miền Tây đã thai nghén một tông phái kế thừa, đó là Hỷ
Tông, mục đích giúp đồng đạo có phương tiện sinh nhai, giúp đồng bào
luôn vui tươi hạnh phúc; cập nhật kiến thức hiện đại để giúp mọi người
cùng vui sống, luôn hoan hỷ và huynh đệ cùng hòa nhã tuỳ thuận. Áp dụng
giáo lý Phật giáo vào đời mà tu sĩ Phật giáo cần thực hiện, đó là đức
lăn xả và hy sinh!
Xa xưa, tu sĩ chỉ chuyên tu, mọi việc do cư sĩ đảm trách; từ giao tế,
kinh doanh, hộ trì Tam Bảo, kiến thiết, tổ chức, xây dựng, quan hôn tang
tế, ngay cả quản trị tự viện… cư sĩ dễ hoà nhập với đời hơn một tu sĩ;
ngày nay một tu sĩ vừa lo tu bổ xây dựng, vừa lo địa vị chức quyền, lo
đám tiệc ma chay, lo kinh tế, lo áp phe… mọi thứ lo đó đã đánh mất hình
ảnh một vị Thiên Nhân chi Đạo sư, biến sư thành ông từ quản thủ tự viện,
cũng là nhà làm kinh doanh không vốn, thời gian còn đâu nghĩ đến chuyện
xuất phiền não gia, xuất tam giới gia mà giải thoát, như vậy xuất
gia ngày nay không còn mục đích giải thoát, bỏ sự ràng buộc của thế tục
gia, tự nguyện gánh thêm một ràng buộc mới mà chùa am, lợi nhuận … là mớ
bòng bong màng
nhện quấn chặt người tu. Ba ngàn năm trước, Đức Phật đã
thấy nguy cơ ràng buộc
đó, ngài chế: một khất sĩ không ngũ quá ba đêm ở
một gốc cây, ngược lại, một số thầy ngày nay, không những trụ trì ngôi
chùa suốt đời mà còn cố gắng vận động xây dựng cho đủ mười chùa, càng
nhiều càng tốt, Phật tử còng lưng đóng góp để thầy cất chùa cho nhện
giăng tơ giữa sự hiểu biết giáo lý chênh vênh, trống trải thiếu căn bản
của tín đồ! Ngày xưa Phật ví những Khất sĩ như con ong hút mật mà không
làm tổn hại cánh hoa, ngày nay Phật tử quá mệt mỏi giữa cuộc sống khó
khăn cộng thêm sự khó khăn mỗi khi thầy đến nhà thăm viếng!!!
Tệ nạn Phật giáo Việt Nam ngày nay là đua nhau cất chùa, xây am thất. Có
những ngôi chùa mênh mông mà không có đạo chúng, thầy trụ trì đóng cửa
lo đi du khất; chùa nhiều mà không có Phật tử, quần chúng gần chùa mà
không hề bước chân đến chùa, thậm chí hỏi tên một ngôi chùa trong khu
vực mà dân ở gần đó, họ cũng không hề biết đến; đó là một thực trạng của
PGVN ngày nay; số quần chúng bị bỏ lẻ loi đó đang chờ tôn giáo bạn đến
an ủi giúp đỡ. Nhìn số lượng am tự viện và tu sĩ trong xã hội đánh giá
Phật giáo hưng thạnh là một sai lầm lớn; cũng như tổ chức Giáo Hội ngày
nay chỉ có chư Tăng lãnh đạo mà không có hạ tầng cư sĩ, Ni giới như Hiến
Chương GHTN trước kia, cho thấy Đạo Phật chỉ là hình phổng để trang trí
hơn là một thực chất tôn giáo có hậu thuận quần chúng tín đồ!
Chính những bất cập đó mà công việc hoằng hoá bị khiếm khuyết trầm
trọng. Tuy nhiên, một vài cá nhân Phật tử cũng cố gắng đem sự hiểu biết
của mình để truyền đạt cho những bạn bè đồng nghiệp hiểu thêm về đạo
Phật. Điển hình, Bé Tư, con của một Phật tử khiếm thị, mẹ cháu theo Kito
giáo, ở Thủ Đức, sau này cháu không đi nhà thờ, bắt đầu tìm hiểu Phật
giáo, luôn đem băng đĩa kinh sách vào xí nghiệp để cho bè bạn cùng nghe;
Những cố gắng lẻ loi như thế tuy không đạt kết quả bao nhiêu, nhưng nói
lên tinh thần truyền bá của Phật tử đối với Đạo, nếu Giáo Hội và từng
chùa có kế hoạch huấn luyện Phật tử truyền nhập Phật giáo vào quần chúng
như thế, chắc chắn kết quả khả quan hơn là những buổi thuyết pháp chung
chung mang tính biểu tượng.
Đạo Phật có hạnh Bồ Tát, luôn thân cận và hy sinh cho mọi người, đem Đạo
vào đời một cách tinh tế chứ không thể đem Đời vào đạo biến PG thành một
tập thể ô tạp. Quần chúng hiểu Phật giáo một cách minh chính, xã hội sẽ
an lành; xã hội loạn do thiếu hiểu biết về Nhân Quả, họ làm bất cứ gì
theo bản năng ác tính; lòng Từ ái và luật Nhân Quả sẽ soi lối cho mọi ý
nghĩ, hành động của họ khi mà Phật giáo trở thành mạch sống tâm linh
thiết yếu như không khí và thực phẩm. Một khi người dân được trang bị
giáo lý đạo Phật đầy đủ, bản thân có tu tập, thì những việc làm đường,
lấp hố, vệ sinh công cộng, công ích xã hội sẽ là việc tự nguyện và tự
nhiên của họ mà không cần ai hướng dẫn.
Tình hình PGVN hiện nay, như là ốc đảo giữa xã hội, việc công ích do một
du sinh Phật tử góp ý trên đây không còn là trách nhiệm chung của Phật
giáo đối với cuộc sống, mà họ xem đó là một bổn phận của nhà nước, mọi
người vẫn vô tư băng qua những đoạn đường lầy lội trong thành phố, bịt
khẩu trang để tránh khói bụi nhơ bẩn, họ có thể ném ra những lời than
phiền hơn là kêu gọi Phật tử xăng
tay nhập cuộc như một nghĩa cử đẹp để
xác định sự hiện diện của Phật giáo hoà nhập trong xã hội.
Hình như xã
hội công nghiệp đã làm con người lạnh lùng với nhau giữa bộn bề trong
cuộc sống, ý thức trách nhiệm với cộng đồng chỉ là Niềm Mơ!!!
MINH MẪN
05/9/08
|
|
|