Staline, xa hoàng đỏ
Trai
tứ chiếng, gái thuyền quyên

Qua cái chết đột ngột của Nadia, người ta nhận thấy rằng Staline
đã có nhiều gắn bó với kẻ đầu ấp tay gối của mình - dẫu cho có
đóng kịch đi nữa – nhưng trong khi Nadia còn sống ông đã có một
thái độ coi bà như là một vật đã chiếm hữu, không cần quan tâm
đến, chỉ khi mất đi mới thấy tiếc. Cung cách xử sự như vậy của
Staline ít ra cũng cho thấy quá trình ăn ở giữa hai người có một
quan hệ đặc biệt, kiểu cách mạng bôn-sê-vít. Nên chi cần phải
tìm hiểu ngọn nguồn của cuộc phối ngẫu kỳ lạ giữa một bên là
trai tứ chiếng và một đàng là gái thuyền quyên.
Cho đến ngày Nadia nhắm mắt xuôi tay, hai người đã cưới nhau
được mười bốn năm. Nhưng, chuyện lứa đôi của hai người đã khởi
sự từ xa xưa, bắt nguồn từ môi trường đảng cách mạng bôn-sê-vít.
Họ đã cùng nhau chia sẻ quá trình đào tạo hoạt động bí mật, sinh
hoạt thân cận với Lê Nin trong cách mạng và trong thời nội
chiến. Staline đã biết gia đình của Nadia từ năm 1904, khi nàng
vừa lên bốn, trong khi Staline đả hai mươi lăm và đã là con
người mác xít được sáu năm.
Danh tánh trên khai sanh của Staline là Iossif Vissarionovitch
Djougachvili - tục danh là Sosso và Koba – sanh ngày 6.12.1878,
chớ không phải là ngày 21.12.1879, như đã ghi trên giấy tờ chánh
thức. Sanh quán là Gori thuộc bang Géorgie, một tỉnh hạt thơ
mộng, núi đồi, rất kỵ những gì của Nga, một địa phương cách xa
thủ đô Saint-Pétesbourg của xa hoàng hàng ngàn cây số. Đây là
một vương quốc có bản chất riêng biệt, có ngôn ngữ, truyền
thống, văn minh và văn hóa cố hữu, bị Nga sáp nhập giữa những
năm từ 1801 đến 1878, qua nhiều giai đoạn.
Cha của Staline, Vissarion (tục danh Besso) là thợ đóng giày,
tánh tình hung dữ, hay uống rượu và đánh đập con mình một cách
dã man. Đến đổi có một lần Staline nổi giận phóng dao vào đầu
ông. Mẹ của Staline, Gueladze tên tục là Keke, cũng chẳng hiền
gì, thường đánh đòn cu cậu chẳng chút xót thương. Bà mang tiếng
là con người không chín chắn, đoan trang, nên Staline được cho
là con của kẻ này, người nọ, trong khi trông ông giống Besso như
đúc.
Sosso là một cậu bé không được cha mẹ quan tâm dạy dỗ, vóc người
béo lùn và cục mịch, một loại trẻ con bụi đời. Nhưng bù lại,
Sosso rất thông minh. Nên chi bà mẹ của Sosso mong muốn cậu bé
nữa sau trở thành linh mục.
Năm 1888, Sosso
vào học một trường đạo ở Gori, đến 1894, cậu được học bổng để
theo học trường dòng ở Tiflis. Với những bậc cha mẹ lơ là con
cái như vậy, Sosso cũng không muốn gần cha lẫn mẹ. Được nuôi
dưỡng trong một bối cảnh nặng chất thầy tu nên cậu bé e ngại bạo
lực, lo sợ bất an và hay đa nghi. Nhưng nặng óc giáo điều, ưa
hận thù và lường gạt tình cảm.
Staline không thích nói tới cha mẹ mình và bàn về thời thơ ấu
của ông, một điều cũng dễ hiểu. Về mặt tình cảm, Staline hơi lỗi
thời và không thể nào biết được tâm tư đích thực của ông, nhưng
rất nhạy bén. Ông là một con người bất bình thường và cũng thừa
biết rằng những người làm chánh trị ít khi bình thường lắm. Vì
như ông có viết ở đâu đó:"Lịch sử đầy dẫy những con người không
bình thường."
Chính trong thời kỳ học ở trường dòng, phương pháp giáo dục rập
khuôn giáo lý cơ đốc theo cung cách dòng Tên, chủ yếu bảo ban là
phải canh chừng, rình rập, xâm nhập đời sống riêng tư và xâm
phạm tình cảm cá nhơn của người khác, làm cho Sosso bất bình.
Nhưng lại tác động mạnh đến ông nên suốt đời mình, Staline trau
chuốt phương pháp hành động đó. Theo học trường đạo nhưng Sosso
trở thành người theo chủ nghĩa vô thần rất sớm, do đó chấp nhận
chủ nghĩa Mác cũng nhanh chóng.
Năm 1899, Staline bị trường dòng cắt học bổng và sa thảy nên gia
nhập Đảng Công Nhơn Dân Chủ Xã Hội Nga. Ông trở thành con người
cách mạng chuyên nghiệp, với bí danh Koba. Ông tìm được một chỗ
làm ở Viện Khí Tượng Tiflis, công ăn việc làm độc nhứt, trước
khi trở thành cấp lãnh đạo nước Nga hồi năm 1917.
Koba rất say mê chủ nghĩa Mác, coi đó như là một "hệ thống triết
học", có khả năng chữa được bá bịnh toàn cầu. Trong thời kỳ hoạt
động cách mạng, Koba làm quen với những hành động bí mật, tinh
thần đấu tranh, vận dụng mánh khóe, nói tóm lại tất cả những
hành vi đưa đến thắng lợi cho bản thân, bất chấp lẽ phải và đạo
lý.
Năm 1902, Koba bị bắt và bị đày đi Si Bê Ri, lần đầu tiên trong
loạt bảy lần bị bắt, hết sáu lần vượt ngục. Những lần đi đày
dưới chế độ xa hoàng chẳng có chút gì ghê gớm như những trại tập
trung của Staline. Có lẽ công an dưới triều đại xa hoàng chính
cống không độc ác bằng?
Khi trở về Tiflis hồi năm 1904, Koba gặp ông già vợ tương lai,
Sergueï Allilouïev, lớn hơn Koba mười hai tuổi, làm nghề thợ
điện. Bà vợ của Sergueï, Olga Fedorenko, có vẻ đẹp tự nhiên,
thích giao du với những người cách mạng. Có tin đồn rằng Olga có
ăn nằm với Staline và Nadia là kết quả của mối tình vụng trộm
đó. Nhưng người ta cho rằng dư luận đó không có cơ sở vì khi
Koba gặp gở gia đình đó thì Nadia đã lên ba. Thế nhưng, trong
giới cách mạng thì trường hợp trai gái léng phéng nhau là chuyện
thường tình.
Trước khi Staline và Nadia yêu đương nhau, hai người đều là
thành viên của phong trào bôn-sê-vít, thường tụ tập tại nhà của
gia đình Allilouïev, cha mẹ của Nadia. Một mối giao tình khác
làm cho hai người thường gặp gỡ nhau. Koba gặp lại gia đình
Allilouïev ở Bakou và có lần Staline đã cứu vớt Nadia thoát chết
ở biển Caspienne.
Trong khoảng thời
gian đó, Koba kết hôn với Ekaterina (Kato), một cô gái cũng
thuộc phe bôn-sê-vít và có được một trai tên Yakov Djougachvili.
Mười bốn tháng tuổi, Yakov đã mồ côi mẹ, được chị của Kato đem
về nuôi dưỡng đến năm 1921 mới theo Staline lên Mạc Tư Khoa.
Nhưng, hai cha con thường mâu thuẫn nhau nên Yakov đã toan tự
tử, mà không chết, vì tánh tình hà khắc của Staline. Đã vậy,
Staline còn mỉa mai:"Thằng bắn súng dở ẹt."
Yakov bị quân Đức Quốc Xã bắt cầm tù vào tháng Bảy 1941. Năm
1943, Staline không chịu trao đổi Yakov với Thống Chế Paulus của
Đức bị Hồng Quân bắt trong trận Stalingrade. Qua một lần trốn
trại không thành công, Yakov bị chuyển đến một trại nghiêm khắc
hơn, Yakov mất tinh thần và buồn chán. Một buổi chiều, Yakov
không chịu vào buồng giam, cứ đi tới vùng cấm. Cảnh vệ nổ súng
bắn chết Yakov vào ngày 14.4.1943. Lại có tin cho rằng Yakov tự
vận bằng cách lao mình vào hàng rào điện.
Cuộc sống lứa đôi của Staline và Kato thường xuyên bị xáo trộn
vì những chuyến đi về của Koba. Về với gia đình chẳng được bao
lâu thì Staline lại ra đi và thời gian vắng mặt cứ dài đăng
đẳng. Vào ngày 25.11.1907, vì thiếu săn sóc, Kato đã chết đi vì
bịnh lao phổi, sau chỉ có bốn năm chăn gối và ở tuổi đời hai
mươi bốn. Kato qua đời, Koba kêu than với bạn bè: "Người đàn bà
đó làm cho trái tim sắt đá của tôi trở nên dịu hiền. Nàng đã
chết, thế là tình cảm của tôi đối với con người cũng theo nàng
luôn. Trái tim tôi bây giờ rỗng không." Về sau, trong chiến dịch
"Đại Thanh Trừng", cha mẹ vợ của Staline đều bị bắt và bị đem xử
tử vào năm 1941, sau mấy năm sinh sống với Staline trong điện
Cẩm Linh.
Trong quá trình hoạt động cách mạng thầm kín, Staline đã bị công
an Okhrana của xa hoàng bắt lên bắt xuống nhiều lần, lần nào
Staline cũng tìm cách trốn trại. Đến đổi các đồng chí của ông
nghi ngờ cho rằng Staline gian trá, nước đôi. Thế nhưng, hồ sơ
của Okhrana cũng công nhận rằng Staline là con người Mác xít
cuồng tín.
Kỳ lưu đày chót của Staline là vào năm 1913. Ông bị đưa lên miền
Đông-Bắc giá lạnh của Si Bê Ri. Trong gian nan tù tội và qua
những lần vượt ngục, Staline có dịp tiếp xúc với những nhơn vật
cách mạng tầm cỡ như Molotov, Trotski, Lê Nin,...
Sai lầm quân sự và tình hình thiếu hụt lương thực, thực phẩm
xuất phát từ Thế Chiến 14-18 làm cho chế độ quân chủ Nga phải
suy vi và sụp đổ đột ngột hồi tháng Hai năm 1917. Phe bôn-sê-vít
bị bất ngờ và chế độ xa hoàng phải nhường bước cho một
chánh phủ
lâm thời. Ngày 12 tháng Ba, Staline về tới thủ đô và tạm trú tại
nhà gia đình Allilouïev. Lúc bấy giờ cô bé Nadia đã trở thành cô
gái mười sáu xuân xanh mơn mởn đào tơ. Gặp lúc Molotov đang làm
biên tập viên cho tờ Pravda, Staline cũng tháp tùng nghề viết
báo luôn. Ngày 25 tháng Mười 1917, Lê Nin phát động cuộc cách
mạng bôn-sê-vít.
Là người ngưỡng mộ Lê Nin và cũng được Lê Nin chú ý nên khi
thành lập
chánh phủ,
Staline được giao phó Bộ Dân Tộc, với Fiodor Allilouïev (anh của
Nadia) làm thơ ký văn phòng và Nadia làm thơ ký đánh máy. Năm
1918, những người bôn-sê-vít phải đấu tranh quyết liệt để sinh
tồn vì đà tấn công ồ ạt của quân Đức. Lê Nin và Trotski bị bắt
buộc phải ký hòa ước Brest-Litovsk và nhường đất cho Đức.
Sau khi Đức đầu hàng, quân đội Anh, Pháp và Nhựt Bổn tạm thời
quản lý, trong khi đó chế độ xa hoàng dựng lên quân Bạch Vệ và
dời thủ đô về Mạc Tư Khoa. Diện tích của lãnh thổ dưới quyền
trách nhiệm của Lê Nin cũng bị thu hẹp lại. Tháng Tám, Lê Nin bị
ám sát nhưng không chết, làm cho phe bôn-sê-vít phải núng động.
Đến tháng Chín, lành vết thương, Lê Nin đặt nước Nga trong tình
trạng báo động. Trong thời kỳ này, Trotski (Ủy Viên Chiến Tranh)
và Staline trở thành hai nhơn vật quan trọng, sau Lê Nin. Hai
người này cũng nằm trong số năm thành viên của Bộ Chánh Trị đầu
tiên do Lê Nin hình thành.
Năm 1918, thành phố chiến lược Tsaritsyne, cửa vào dựa lúa và mỏ
dầu của miền Bắc Caucase, đồng thời cũng là lối vào Mạc Tư Khoa
ở phía Nam, đang có nguy cơ thất thủ lọt vào tay quân Bạch Vệ.
Lê Nin phái Staline tới Tsaritsyne, với chức vụ Tổng Giám Đốc
Hậu Cần cho miền Nam nước Nga. Nhưng Staline phấn đấu để trở
thành ủy viên với nhiều quyền hạn quân sự rộng lớn. Với một
chiếc xe lửa bọc thép, cùng với bốn trăm Hồng Quân (quân đội do
Trotski thành lập), Fiodor Allilouïev và cô đã tự viên trẻ đẹp
Nadia, Staline tiến vào thành phố Tsaritsyne ngày 5 tháng Tư,
một thành phố thiếu thốn đủ thứ và đầy dẫy trò phản bội. Staline
kiên quyết hành động và xử bắn những người bị tình nghi là phản
cách mạng. Rút kinh nghiệm, Staline thấy rằng cái chết là công
cụ đơn giản và hữu hiệu nhứt của chánh trị.
Vào tháng Bảy, tình hình quân sự trở nên tồi tệ, Staline nắm
luôn quyền chỉ huy quân sự. Cách mạng cần có một vai trò như vậy
để tồn tại, nhưng đồng thời Staline cũng muốn tranh giành quyền
bính với Trotski, người đang phát huy Hồng Quân với sự trợ lực
của các "chuyên viên quân sự", nghĩa là những cựu sĩ quan xa
hoàng. Staline nghi ngờ những con người bán rẻ lương tâm đó, nên
chi khi nào thuận lợi là ông cho bắn bỏ ngay.
Trong thời gian hoạt động ở Tsaritsyne, Staline sinh sống trong
một toa xe lửa, trước kia của một đào hát, được trang trí rất
đẹp. Có thể Staline và Nadia yêu nhau trong thời gian này. Nadia
lên
mười bảy tuổi còn
Staline,
ba mươi chín. Hai người cách nhau hai mươi hai tuổi. Một mối
tình giữa trai tứ chiếng và gái thuyền quyên làm cho cô nữ sinh
cảm thấy e ngại và phập phòng lo sợ.
Staline và đàn em, tay chưn bộ hạ, dựng lên một phong trào "đối
kháng quân sự" chống lại Trotski, mà Staline coi như một vị
"tướng cải lương hò quảng". Phe Staline bắt giữ một nhóm "chuyên
viên quân sự" của Trotski, nhốt trong một chiếc xà lan đậu trên
sông Volga. Trotski giận dữ phản đối, nhưng rồi chiếc xà lan
chìm đi, mang theo những "chuyên viên" của Trotski. Staline cho
rằng:"Chết là hết chuyện, vấn đề nào cũng được giải quyết. Hết
người là hết vấn đề." Đại để thì đó là quan niệm chánh trị của
những con người bôn-sê-vít.
Lê Nin hơi ngại vì thái độ thù nghịch Trotski của Staline làm
cho tình hình ở Tsaritsyne trở nên trầm trọng, nhưng không vì
vậy mà ông trừng phạt Staline. Lê Nin đưa Staline ra khỏi
Tsaritsyne. Về Mạc Tư Khoa, Staline làm đám cưới với Nadia và
sinh sống trong một căn hộ đơn sơ trong điện Cẩm Linh, cùng với
gia đình bên vợ. Về sau, họ ở trong một ngôi nhà thôn dã ở
Zoubalovo xinh đẹp hơn.
Tháng Năm 1920, Staline được bổ nhiệm làm chánh ủy cho mặt trận
Tây-Nam sau khi quân Ba Lan chiếm Kiev. Bộ Chánh Trị ra lịnh
tiến chiếm Ba Lan để đưa cách mạng sang phía Tây. Khi được lịnh
chuyển giao toán kỵ binh cho người chỉ huy mặt trận phía Tây,
Staline từ chối làm hỏng hết mọi chuyện.
Năm 1921, muốn tỏ ra mình là con người bôn-sê-vít khắc khổ,
Nadia đi bộ đến bảo sanh viện để cho ra đời đứa con trai đầu
lòng, Vassili. Năm năm sau, Nadia sanh ra cháu gái, Svetlana.
Trong thời gian đó, Nadia vẫn làm thơ ký đánh máy trong văn
phòng của Staline, một vị trí rất hữu ích cho những âm mưu sau
này của Staline.
* * *
Với một quá trình yêu thương giữa hai con người trong hoàn cảnh
như vậy và với một khoảng cách tuổi đời dường ấy, người ta chẳng
mấy ngạc nhiên về cung cách sinh sống của cuộc đời chồng vợ kiểu
Staline và Nadia. Hơn nữa, trước khi ăn ở với Nadia, Staline đã
có một đời vợ trước với Ekaterina (Kato) Svanidze, mà Staline
cho là "người phụ nữ được ông yêu thương nhứt sau bà mẹ", nhưng
cuộc sống lứa đôi vẫn hời hợt, có cũng như không. Khi Kato qua
đời, Staline cũng có nhận xét giống hệt như những phát biểu của
ông, sau đám tang Nadia. Cũng cùng một nội dung, đại ý "chỉ một
người mất đi thì tất cả không còn gì". Thế nhưng, phải chăng vì
chỗ chẳng còn lại gì đó mà con người cách mạng bôn-sê-vít của
Staline đã hung bạo, tàn ác và vô nhơn đạo hết mức, có một không
hai trên đời này hay không?
(Còn
tiếp)
Cố Nhân
(Nguồn: "Le géorgien et l'écolière", trong tác phẩm "Staline,
la Cour du Tsar Rouge", S. S. Montefiore, nxb. Editions des
Syrtes, 2005.)
|