Ghi
chú.-
Từ năm 1965 đến 1975, ông Nguyễn Xuân Phong đã giữ những
chức vụ Ủy Viên Lao Động, Ủy Viên Xã Hội-Chiêu Hồi và Ủy
Viên Phủ Thủ Tướng trong Nội Các Chiến Tranh Việt Nam Cộng
Hòa. Trong thời gian hòa đàm Ba Lê về Việt Nam, từ địa vị
thành viên phái đoàn lúc ban đầu, ông đã trở thành Trưởng
Phái Đoàn vào giai đoạn cuối cùng, với đẳng cấp Quốc Vụ
Khanh đặc trách hòa đàm trong chính phủ. Sau ngày 30 tháng 4
năm 1975, ông đã đi "học tập cải tạo" cho đến 1980.
Theo yêu cầu của "The Center for A Science of Hope" ở New
York, ông đã viết và cho xuất bản quyển "Hope and
Vanquished Reality" (Hy vọng và thực tế tan hoang), ICIS
Center for A Science of Hope and Xlibris, 2001, xuyên qua
bối cảnh chung của đất nước, cũng như riêng tư của cá nhân
ông. Chủ đề của tác phẩm tập trung vào luận đề triết học "Hy
vọng và thất vọng" nên ông Phong không ghi lại nhiều chi
tiết của những vấn đề liên hệ đến ông. Tuy nhiên, cũng có
một số dữ kiện được ông trình bày để làm luận điểm, có thể
cho người đọc hiểu thêm tình hình đưa đến biến cố tai hại
cho Việt Nam Cộng Hòa - 30 tháng 4 năm 1975 - nên chúng tôi
xin trích dịch với mục đính tham khảo.
Rời
nhiệm sở Trưởng Ðoàn Hòa Ðàm Ba Lê của Việt Nam Cộng Hòa,
tôi trở về Sài Gòn năm ngày trước khi chiến xa Bắc Việt đụng
sập cánh cổng dinh tổng thống Nam Việt Nam, ngày 30 tháng 4
năm 1975. Biến cố trọng đại đó đã làm cho hàng triệu người
Việt Nam - miền Nam cũng như miền Bắc và ở những nơi khác
trên thế giới - thất vọng có mà hy vọng cũng có. Mấy tháng
trước đó, tôi ngấm ngầm băn khoăn và thoang thoáng lo sợ thì
nay tôi thật sự khổ tâm và tuyệt vọng khi thấy bộ đội Cụ Hồ
bắt đầu đi đây đi đó trên những con đường của thành phố quê
tôi, từ nay được gọi là thành phố Hồ Chí Minh. Quả thật trời
đất đã đảo lộn!
Sau khi rời phi cơ ở sân bay Tân Sơn Nhứt, tôi chán nản vô
cùng khi nhìn thấy cảnh tượng đau lòng của hàng ngàn người
tụ tập trong phi cảng và hàng loạt người nối đuôi trên đường
để tìm cách bay ra khỏi xứ. Ðoàn xe đưa tôi đến dinh tổng
thống phải luồn lách qua những đoàn người đó. Những người
cận vệ quen thuộc đón chào tôi chẳng mấy gì vui vẻ và chúng
tôi hoàn toàn im lặng trong mười lăm phút trên đường vào
thành phố. Ðường phố Sài Gòn im ắng một cách khác thường,
như tiềm tàng một dấu hiệu dự báo và một bầu không khí ngột
ngạt.
Vào
khoảng sáu giờ chiều, khi tới dinh tổng thống, người đầu
tiên mà tôi gặp là ông Ðại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin. Ông vừa
họp xong với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương,
người vừa nhận chức được một tuần lễ, và cũng là người mà
tôi sẽ diện kiến. Tôi đã gặp sơ qua ông Ðại Sứ khi ông ghé
qua Ba Lê, trên đường trở lại Sài Gòn vài ba tuần trước đó,
sau khi đã xin Quốc Hội Hoa Kỳ chi viện cho chính phủ Nam
Việt Nam một lần nữa mà không thành công. Sau những lời chào
hỏi xã giao ngắn gọn, chúng tôi đồng ý ngay là tình hình
quân sự đã hoàn toàn nguy ngập. Tôi hỏi:"Thưa ông Ðại Sứ, có
cách nào để tránh được một 'trận chiến Sài Gòn' không?"
Bất cứ người nào khác hay là cá nhân tôi cũng không cần phải
chịu đựng hậu quả của một trận đánh như vậy. Cả hai chúng
tôi đều thấy rất rõ hậu quả sẽ như thế nào, tàn phá sẽ ra
sao và máu sẽ đổ biết bao nhiêu nếu như có đánh nhau trên
đường phố Sài Gòn. Ông Ðại Sứ cũng hiểu rằng mối quan tâm
cấp thiết nhứt của tôi là sự an toàn của những người thường
dân vô tội.
Tôi thấy ông Ðại Sứ lúng túng không biết phải trả lời ra
sao, dợm mở miệng nói mấy lần nhưng không phát ra tiếng.
Bằng một cử chỉ đầy tuyệt vọng, ông vẫy tay về hướng có
tiếng nổ của súng cối và hỏa tiễn bên ngoài thành phố. Thế
rồi ông trấn tỉnh lại, vừa bắt tay từ giả, vừa nói một cách
chẫm rải và trịnh trọng:"Tổng Thống Hương phải hành động
thật nhanh chóng."
Sau câu nói bí ẩn đó, chúng tôi chia tay nhau. Cung cách của
ông Ðại Sứ để lựa lời nói và cái vẫy tay của ông đã cho tôi
cảm thấy sự bất lực - của ông cũng như của chính phủ Hoa Kỳ
- còn hùng hồn hơn bất cứ lời nói nào. Tuy nhiên, việc ông
bỏ lửng câu chuyện để bước đi cũng cho tôi hiểu câu nói
“phải hành động thật nhanh chóng” của ông hàm ý ra sao rồi.
Vài
phút sau, khi gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng, Tướng Trần Văn Ðôn,
và Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Tướng Cao Văn Viên, đang đứng
ở hành lang, tôi cũng hỏi như vậy. Sau mười năm làm việc
chung với nhau trong chính phủ Sài Gòn, chúng tôi là bạn bè
thân thiết nên có thể nói chuyện với nhau thẳng thắng và
thật tình. Hầu hết những người ở Sài Gòn, Hoa Thạnh Ðốn và
Ba Lê đều cho rằng hai tướng Ðôn và Viên là hai người đặc
biệt trong guồng máy quân sự Sài Gòn. Không những chỉ riêng
biệt về tư cách sĩ quan mà còn trên bình diện của những
người đáng kính, về mặt tính tình ôn hòa, liêm chính, lương
thiện và về phẩm chất cá nhân trong môi trường đầy dẫy tham
nhũng của địa phương.
Với
hai ông này, vì không cần phải giữ ý giữ tứ như với Ðại Sứ
Martin nên tôi hỏi dồn dập:"Chuyện gì đã xảy ra ở bên này
vậy hai anh? Tại sao mấy anh để tình hình tồi tệ nhanh chóng
như thế? Tại sao mấy anh lại có thể để cho Tổng Thống Thiệu
làm như vậy được? Quân Mỹ ở chiến trường chẳng lẽ tồi tệ đến
thế sao? Còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì sao? Chỉ có
Tướng Viên trả lời:"Quân sĩ đã cố gắng tối đa." Còn Tướng
Ðôn thì chỉ nhìn ra bóng đêm đang ập tới, bao phủ Sài Gòn,
khi mặt trời đã lặn, như chừng chờ mong một phép lạ nào hiện
ra ở vườn hoa trong dinh Độc Lập, trong khi tôi dồn dập đưa
ra những câu hỏi khó trả lời.
Thế thì, chẳng còn hy vọng gì được bao nhiêu trên bất cứ
phương diện nào, ở ông Ðại Sứ Hoa Kỳ hay ở các tướng lãnh
của chúng tôi. Trước đó, có lẽ cả ba người này đã hy vọng ở
một cái gì đó nên họ đã đến gặp và thúc hối vị Tổng Thống
Hương già nua, đáng thương, gấp rút trao cái gọi là quyền
hành tổng thống cho ông tướng 59 tuổi đời Dương Văn Minh,
người mà thể xác to lớn nên mang biệt danh là “Minh
Lớn”.
Thế nhưng, vào thời điểm nguy kịch đó, phải chăng tôi đang
hy vọng một điều gì cho chính mình nên mới hỏi như vậy? Phải
chăng tôi thật sự nghĩ rằng ông đại sứ Hoa Kỳ hay các tướng
lãnh của chúng tôi có thể làm cho bất cứ những ai ở Sài Gòn
đều may ra còn hy vọng được một chút gì đó vào giờ phút cuối
cùng này? Cho đến hôm nay cũng khó mà nói ra một cách chính
xác. Tối hôm đó, ở dinh tổng thống Nam Việt Nam, tôi lo âu
nhiều nhứt, không phải cho sự tồn tại của chính thể Sài Gòn
mà cho dân chúng Sài Gòn, trong đó có cha mẹ già và bà con
của tôi, làm thế nào khỏi bị chết chóc và giết hại qua một
“trận chiến Sài Gòn” ghê gớm nhứt.
Tôi hỏi như vậy chỉ vì đó là những thắc mắc duy nhất trong
đầu óc tôi. Tôi hoàn toàn ý thức được rằng giờ phút cuối
cùng của Sài Gòn đã thật sự đến rồi, chẳng còn làm gì được
nữa, chỉ còn biết chứng kiến cảnh Hoa Kỳ, người đồng minh
quan trọng của chúng tôi, ra đi mà thôi. Tôi chẳng hy vọng
gì nhiều, nhưng lòng tôi thấy cần phải hy vọng dù là hy vọng
ở một hoàn cảnh hoàn toàn tuyệt vọng. Mặc dù chẳng còn bao
nhiêu để hy vọng, tôi đương nhiên vẫn cảm thấy phải hy vọng.
Có phải hy vọng để còn được sống sót? Phải chăng bản năng
sinh tồn cơ bản của con người đã thôi thúc tôi hy vọng
không? Hy vọng có thể liên hệ với sự sống còn mà cũng có thể
không, nhưng muốn sinh tồn thì phải có hy vọng.
Trong khi ngồi chờ để diện kiến Tổng Thống Hương, nhất định
là tôi không chú ý đến lịch sử Việt Nam, một lịch sử dẫy đầy
chiến tranh. Nhưng có một quan điểm lịch sử mà cả Tổng Thống
Hương và tôi cần phải ghi nhớ. Vả lại, chúng tôi, và phần
lớn những người Việt Nam khác, tưởng nên phân biệt giữa
“Cuộc Chiến Tranh Việt Nam” và “Cuộc Chiến Tranh Mỹ” trên
mảnh đất của tổ tiên chúng tôi - điều mà nhiều người khác
trên thế giới không để ý.
Có một ai thực sự cho biết “Cuộc Chiến Việt Nam” là như thế
nào không? Lịch sử Việt Nam đã có một quá trình đánh nhau và
giết nhau quá lâu đời đến đổi nhiều người trong chúng tôi
không còn nhớ được sự kiện và hoàn cảnh. Giờ đây, lần đầu
tiên trong gần hai thế kỷ tranh cãi, xung đột và đánh nhau,
người Việt Nam chúng tôi mới diện đối diện với nhau mà thôi.
Thật là bối rối. Không còn Trung Quốc, không còn Pháp, không
còn Nhật Bổn, không còn Anh hay Mỹ gì nữa cả. Chỉ có người
Việt Nam đối mặt với người Việt Nam.
Ðã có quá nhiều chiến tranh thuộc nhiều loại khác nhau trên
quốc gia nhỏ bé này. Nào là chiến tranh chống thực dân,
chiến tranh chống phát xít, chiến tranh chống đế quốc, chiến
tranh giải phóng, chiến tranh xâm lược, chiến tranh giành
độc lập, chiến tranh đòi dân chủ, chiến tranh vì tiến bộ và
thịnh vượng, chiến tranh quy ước, chiến tranh dai dẳng,
chiến tranh cục bộ, chiến tranh quốc tế hóa. Tất cả đều được
tiến hành nhân danh tất cả các triết lý, lý tưởng và học
thuyết mà con người đưa ra để biện minh cho chiến tranh. Các
cuộc chiến đó đã để lại dấu vết lịch sử và một di sản huyền
thoại.
Nhưng cuộc chiến tranh của thế kỷ hai mươi ở Việt Nam đã
khác hẳn. Cuộc chiến này đã cho thấy những thực tế phũ
phàng. Sự thật hiển nhiên là số bom đạn ném xuống Việt Nam
còn nhiều hơn trọng lượng bom đạn sử dụng trong Đệ Nhị Thế
Chiến. Rồi đây, những dữ kiện đúc kết từ các thống kê chính
thức của hai bên liên hệ sẽ cho thấy tổng số chính xác về
thiệt hại nhân mạng. Nhưng các bản ước tính dè dặt của báo
chí thế giới, của các cơ quan chuyên môn và những bộ phận
khác nữa đã đưa ra con số trên ba triệu người chết trong
cuộc chiến kéo dài ba thập niên liền. Cùng với trên mười lăm
triệu người tàn tật và bị thương, cộng với vô số nạn nhân bị
liên lụy trong những năm sau này thì quả thật người ta sẽ có
một tổng số khủng khiếp.
Giờ đây, bỗng dưng người Việt Nam diện đối diện với nhau lần
đầu tiên sau gần hai trăm năm lệ thuộc và chịu ảnh hưởng của
Pháp và Mỹ. Làm thế nào anh em, họ hàng, cha con có thể tiếp
tục giết hại nhau, thế hệ này qua thế hệ khác? Họ đã được kẻ
gần, người xa tiếp tay chi viện. Không thể coi đó như là một
cái cớ hay một lý do cho cuộc huynh đệ tương tàn, nhưng điều
thường nổi bật là âm mưu ý đồ của ngoại bang.
[...]
Trái với cuộc đối thoại đượm màu sắc vô phương cứu chữa và
tuyệt vọng giữa ông đại sứ Hoa Kỳ với tôi, tại hành lang
dinh tổng thống vào buổi chiều tai hại đó, thì tôi lại có
một cuộc hội kiến vô cùng cảm động và thấm thía với vị Tổng
Thống Trần Văn Hương của chúng tôi, một ông tổng thống già
nua, bệnh hoạn và gần như khuyết thị. Rõ ràng là ông đang cố
gắng cứu vãn vài ba giây phút cuối cùng cho nghi thức và
phẩm giá của một chức vụ mà ông không mưu cầu cũng chẳng
mong muốn, dù ông chỉ đảm trách có một tuần lễ ngắn ngủi.
Từ
chức vụ phó tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa, ông được đưa
lên ghế tổng thống khi ông Thiệu từ chức một cách giản dị
đơn sơ, chín ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ. Nhiều người lấy
làm ngạc nhiên khi thấy ông Thiệu từ chức, để cho ông phó
già nua, yếu đuối của mình phải gánh lấy một tình hình hỗn
loạn. Nếu như không có nguy cơ phải bỏ ngỏ Nam Việt Nam cho
lực lượng vũ trang Bắc Việt, đang lăm le tiến vào Sài Gòn,
thì ông Trần Văn Hương may ra sẽ là con người xứng hợp ở
thời điểm và vị trí đó trong lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Thật là khó hiểu cho một con người như ông lại phải đóng một
vai trò nhục nhã dường ấy. Ðiều đó hoàn toàn trái ngược với
bản tính của ông. Chính phủ của ông đã từng là đồng minh của
siêu cường hàng đầu trên thế giới và đã từng được trên cả
trăm quốc gia khác công nhận chính thức, thế mà giờ đây ông
trở nên bơ vơ và bị bỏ rơi. Ðiều làm cho ông càng thêm nhục
nhã là áp lực từ mọi phía, trong đó có cả áp lực của ông đại
sứ Hoa Kỳ, yêu cầu ông từ chức để cho “Minh Lớn” có thể lên
nắm quyền và điều đình - và có thể đi đến một thỏa hiệp nào
đó - với phe cộng sản đang thắng thế.
Ông Hương nghĩ rằng ông phải tôn trọng Hiến Pháp của Việt
Nam Cộng Hòa, một nguyện vọng mà nhân dân Nam Việt Nam đã
biểu thị qua cuộc tổng tuyển cử. Ông không còn thấy có điểm
nào khác để biện minh. Ông hy vọng rằng điểm này của luật
pháp quốc tế và cung cách suy nghĩ đứng đắn của con người sẽ
thúc đẩy Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự để can thiệp trở
lại mà cứu nguy cho Sài Gòn. Hoặc giả điều đó có thể thúc
đẩy Liên Hiệp Quốc, hoặc cái gọi là cộng đồng quốc tế, có
một hành động nào đó để ngăn chận đà tiến bất hợp pháp của
quân lính Bắc Việt. Thế nên, ông Hương bám lấy lập trường,
vốn cho rằng việc ông trao quyền lại cho “Minh Lớn” là vi
hiến. Bị đưa đẩy đến tình cảnh khó khăn như vậy, nhất định
là ông phải phân vân giữa một bên là ước vọng lâu đời của
ông về một Nam Việt Nam tự do, dân chủ và một bên là nỗi
tuyệt vọng chán chường của ông trước tình hình tan rã nhanh
chóng, do chỗ Mỹ không chịu can thiệp để cho Sài Gòn khỏi
lọt vào tay cộng sản.
Tổng
Thống Hương là một con người rất nhạy cảm. Ông có thể rơi
nước mắt trước những khó khăn có khả năng đem lại hậu quả
tai hại cho dân tộc và đất nước ông. Có lần, ông đã khóc
ngay trong hội đồng nội các. Lần cuối cùng tôi chứng kiến
cảnh ông mủi lòng là khi tôi trở về Sài Gòn hồi tháng giêng
năm 1973 để dự phiên họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia (HÐANQG),
chỉ một đôi ngày trước khi ký kết Hiệp Ðịnh Ba Lê. Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu loan báo rằng hòa đàm đã đến giai
đoạn mà Việt Nam Cộng Hòa không còn cách nào khác hơn là
phải ký vào hiệp định (Sài Gòn đã quyết liệt từ chối không
chịu ký cho đến lúc đó), vì chính phủ Hoa Kỳ có thể sẽ ký
một mình nếu cần. Biến cố đó có thể là dấu hiệu cho thấy bạn
bè và đồng minh cũ sẽ chia tay nhau. Ông Thiệu và chính phủ
Nam Việt Nam sẽ phải tìm đồng minh khác. Lúc bấy giờ Cụ
Hương không cầm được nước mắt và, bất hạnh thay, rồi đây ông
lại có lý do để khóc lần nữa.
Ông
Thiệu không cần phải giải thích cho thành viên của HÐANQG
biết rằng Hiệp Ðịnh Ba Lê sẽ kết thúc việc Mỹ can thiệp ở
Việt Nam và kết liễu chính phủ chống cộng ở Sài Gòn. Hiệp
Ðịnh có những điều khoản quy định rằng chính phủ Sài Gòn có
thể sẽ được thay thế bằng một chính phủ liên hiệp “không
cộng sản”, một sự trá hình thô bạo để khoả lấp thế thống trị
của Hà Nội. Thế là, cuối cùng, Hoa Thịnh Ðốn đã quyết định
lìa bỏ ý niệm coi Nam Việt Nam là “Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do”
ở Ðông Nam Á, một ý niệm mà có thời họ đã quyết tâm dựng lên
cho bằng được. Ðối với Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, một Nam Việt
Nam chống cộng không còn chút giá trị nào hết.
Xuyên suốt cuộc đời, ông Hương đã được coi như là một nhà
yêu nước, một con người quốc gia, một thành viên của dân chủ
và tự do. Ông đã đấu tranh liên tục cho những gì ông tin
tưởng là đất nước của ông và cho Thế Giới Tự Do. Ông đã vào
tù, ra khám không biết bao nhiêu lần, hăng say đấu tranh
chống lại sự thống trị của Pháp và chế độ độc tài của Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm, và đã sống nghèo khổ và bình dị suốt
đời. Ông được kính trọng vì tính thanh liêm và lương thiện.
Là một nhà giáo chuyển sang làm chính trị, ông là một bậc
lão ông dễ mến đối với người miền Nam. Lúc bấy giờ ông Hương
đã bảy mươi hai tuổi. Ông đã làm đô trưởng Sài Gòn hồi năm
1954 và làm thủ tướng hai lần, mỗi lần được vài tuần, vào
những năm 1964-1965 và 1968-1969, trong mấy cái gọi là nội
các dân sự của Sài Gòn. Cũng như nhiều người ở Nam Việt Nam
và ở những nơi khác lúc bấy giờ, ông Hương không hiểu nguyên
nhân nào khiến ông Thiệu từ chức, để lại cho ông cái chính
phủ tan rả của Sài Gòn. Hơn nữa, cùng với đa số những người
ở Sài Gòn, ông Hương khó hiểu tại sao, với một thế lực và
một sức mạnh quân sự như thế, mà Hoa Kỳ lại có thể bỏ rơi
người anh em và đồng minh Nam Việt Nam bé tị.
Liệu những người làm áp lực để ông Hương trao quyền lại cho
“Minh Lớn” có chút hy vọng nào để tin tưởng rằng như thế Nam
Việt Nam sẽ có cơ may tồn tại không? Liệu bằng cách nhượng
bộ Bắc Việt, qua hình thức “hòa hợp hòa giải dân tộc” và “tự
quyết”, ngụy trang dưới dạng “không cộng sản”, nhân danh cái
gọi là tự do dân chủ, có làm cho người Việt ở Nam Việt Nam
dễ thở hơn không? Ðối với ông Hương thì không thể hy vọng
như thế được. Ðiều đó vượt khỏi sự hiểu biết và sức tưởng
tượng của ông. Hy vọng duy nhất còn lại cho ông và nhiều
người khác ở Sài Gòn là chỉ còn có nước “hy vọng khơi khơi”
không biết phải hy vọng điều gì, một thứ “hy vọng để mà hy
vọng”.
Thử hỏi ông Hương còn có cách nào khác, ngoại trừ tuyệt
vọng? “Minh Lớn” không có một lời tuyên bố nào có khả năng
đem lại một chút hy vọng gì rõ ràng hay cụ thể. Ông đề cao
cái khả năng tiềm tàng là có thể “nói chuyện” (một uyển ngữ
của từ “mặc cả”) với “những người anh em” thù địch đã bao
quanh Sài Gòn. Có khả năng “nói chuyện” với Hà Nội là “lợi
thế” của chính khách Sài Gòn, những người tự cho mình là kẻ
đối thoại mà Hà Nội có thể chấp nhận được. Chỉ cần một chỉ
dấu thoáng qua của Hà Nội cho thấy có thể là như vậy, thế là
nhân vật liên hệ có thể kể như trúng số độc đắc.
Hà
Nội không bao giờ công khai nói ra là phía cộng sản sẽ chấp
nhận “Minh Lớn”, nhưng họ đã khôn khéo hàm ý cho rằng ông ấy
có thể là nhân vật đó, và ngẫu nhiên có thể hẹn gặp với bà
Bình của Mặt Trận Giải Phóng (MTGP). Ðại sứ Pháp và đại sứ
Mỹ ở Sài Gòn quả quyết cho rằng “Minh Lớn” có thể làm điều
đó. Họ biết chắc rằng Hà Nội sẽ không khi nào chịu thương
thuyết một cuộc dàn xếp nếu ông Thiệu còn ngồi ghế tổng
thống - thậm chí dù chỉ để tìm một thỏa hiệp để ngồi lại
uống trà - và ít có hy vọng thương thuyết với ông Hương, một
con người đang bị cho ra rìa.
Cụ Hương có thể đã nghĩ rằng cái gì “Minh Lớn” có thể làm
được thì ông cũng có thể làm được, và còn làm tốt hơn, trong
vấn đề đó. Ông không phải là một tướng lãnh quân đội đã từng
đối đầu với những người anh em thù địch trên chiến trường
như “Minh Lớn”. Mục đích, lý tưởng và hy vọng của ông dành
cho đất nước và dân tộc Việt Nam lúc nào cũng cao cả và đáng
kính, xét theo tiêu chuẩn đứng đắn và lịch sự. Ông nghĩ rằng
có thể đạt được một giải pháp hòa bình qua thương thuyết, và
cảm thấy rằng không có lý do gì mà ông phải bị loại ra khỏi
cuộc tranh tài đó.
Là một con người nhiều tuổi, bệnh hoạn và nghèo nàn, ông
Hương không bị thúc đẩy phải hy vọng nhiều cho bản thân.
Nhưng ông nuôi dưỡng những lý tưởng được thiết tha ấp ủ suốt
đời, lý tưởng tự do, dân chủ và tiến bộ. Có thể đây là những
ý niệm trừu tượng, chớ không phải là những thực tế đã sống
qua, được thu thập qua sách vở và nghiên cứu trong quá trình
ông đã được đào tạo thành nhà giáo. Thực ra, ông không biết,
thậm chí không nhìn thấy tận mắt, những điều đó ở những nơi
khác, khi mà ông không được đi đây đi đó nhiều, vì mắt kém
và sức khỏe mong manh. Tuy nhiên, ông rất yêu chuộng những
lý tưởng đó.
Khi tôi bước vào văn phòng của Tổng Thống Hương thì thấy ông
không ngồi ở bàn giấy trong văn phòng tổng thống của ông
Thiệu trước kia, nhưng chỉ ngồi một mình tại một bàn họp ở
phòng bên cạnh, dành cho HÐANQG, trên tường có nhiều bản đồ.
Ông cố sức tựa tay lên cạnh bìa chiếc bàn dài và trống trơn.
Cuộc diện kiến giữa Ðại Sứ Martin và ông vừa chấm dứt - thực
ra đó là lần cuối cùng hai người được dịp nói chuyện với
nhau. Thông điệp của ông Martin làm cho ông Hương gần như
sững sờ. Ông đã được ông đại sứ cho biết dứt khoát là ông
đừng có mong gì Mỹ can thiệp để cứu vãn Sài Gòn, và con
đường duy nhất còn lại cho ông là phải từ chức ngay để trao
quyền lại cho “Minh Lớn”.
Nghe tiếng bước chân và tiếng nói của tôi, ông ngẩn đầu lên.
Tôi hỏi:"Thưa tổng thống vẫn bình an? Tôi vừa từ Ba Lê về
tới và đến yết kiến tổng thống ngay đây." Ông Hương trả lời
với một giọng điệu mệt mỏi:"À, Phong, mạnh giỏi không em? Ba
má em như thế nào? Khá lâu rồi qua không được gặp hai ông
bà. Nhờ em chuyển đến hai ông bà những lời thăm hỏi của
qua." Ông chìa bàn tay run run, và tôi nắm lấy với hai tay
trong niềm cảm mến xâu xa, tìm cách chuyền qua cho ông một
chút nào an ủi và khích lệ, qua sự tiếp xúc của những bàn
tay.
Hai ngày trước đó ở Ba Lê, tôi đã nhận được một điện thư yêu
cầu tôi trở về Sài Gòn. Ðó là một bức điện khác thường,
không phải lời của một tổng thống triệu hồi một quốc vụ
khanh về để tham khảo. Ðiện thư chỉ nói một cách đơn
thuần:"Hương cần gặp Phong". Ông Hương đã gởi bức điện thư
đó cho tôi chỉ một ngày sau khi ông đã thành lập nội các, mà
Thủ Tướng là Nguyễn Bá Cẩn, ngay sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ
chức. Ông Cẩn là một công chức chuyên ngành được đào tạo
dưới thời Tổng Thống Diệm, đã làm Chủ Tịch Quốc Hội trong
nhiệm kỳ của ông Thiệu.
Có sự trùng hợp là tôi đã tự ý quyết định trở về nên đã đăng
ký chuyến bay của tôi trước đó một tuần. Một trong những
người mà tôi đã điện thoại cho biết rằng tôi sẽ trở về Việt
Nam là ông David Anderson, Ðại Sứ Úc Châu tại Pháp, người
bạn cố cựu của tôi. Chúng tôi quen biết nhau lúc ông ấy làm
đại sứ ở Sài Gòn hồi năm 1965. Ông chạy vội đến văn phòng
tôi và khuyên tôi nên xét lại, đồng thời cũng bày tỏ thiện
cảm và mối quan tâm liên quan tới tình hình.
Chủ đích của tôi trong chuyện trở lại quê nhà là để gần cha
mẹ già và gia đình tôi. Vì là chỗ thân thiết với gia đình
nên tôi cũng nghĩ đến ông Hương. Ông là người bạn thân của
cha mẹ tôi trên năm mươi năm qua. Giờ đây, khi tôi đang ở
bên ông, và vì tôi là một trong những người hiếm hoi đã trở
về trong khi bao nhiêu người khác đã ra đi, dường như Cụ
Hương cảm thấy cần phải hỏi tôi:"Này, có còn chút hy vọng
nào không?" Và tôi phải nói lên điều mà chắc chắn ông cũng
nghĩ đến:"Dạ thưa tổng thống, chẳng còn hy vọng gì nữa."
Rồi chúng tôi nói lang thang, chuyện nọ xọ chuyện kia. Liên
tưởng tới chuyện vừa gặp ông đại sứ Hoa Kỳ, ông bắt đầu nói
về người Mỹ. Rồi nói đến người Nga, người Trung Quốc và
người Pháp - và nói rất nhiều về người Pháp. Rõ ràng là ông
rất khó chịu với cung cách bất hợp hiến của việc ông “trao
quyền” tổng thống cho “Minh Lớn”. Ông nói một cách mỉa
mai:"Chức vụ tổng thống đâu phải là chiếc khăn tay mà trao
qua trao lại cho người ta hỉ mũi..."
Tôi cố nén để khỏi đáp lại rằng mối quan tâm “hợp hiến” của
ông là điều mà thiên hạ đâu có cần nghĩ tới trong một tình
hình gay cấn. Dĩ nhiên là đề tài đàm đạo của chúng tôi có
tính cách nghiêm trang và những giải pháp có tính quan
trọng, nhưng không làm nên đề tài lịch sử. Người ta chỉ ghi
nhận những gì được Hoa Thạnh Ðốn, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Hà
Nội và Ba Lê nói và làm - chẳng chút nào quan tâm đến những
gì ở Sài Gòn. Trong lãnh vực ngoại giao cao cấp quan trọng,
Nam Việt Nam phải tan biến đi như một chuyện hoang đường. Ðó
là thực tế trong chính trị thế giới.
Như để lôi hai chúng tôi ra khỏi giây phút trầm ngâm, một
nhân viên bước vào trình một điện thư của tòa đại sứ Việt
Nam ở Ðài Loan. Không đọc được vì mắt kém, ông Hương đưa cho
tôi mà không nói năng gì hết. Ðiện thư cho biết Bộ Trưởng
Ngoại Giao Vương Văn Bắc đã tới Ðài Loan và xin từ chức. Có
phải là một cử chỉ lịch sự hay là một cách khôi hài mỉa mai?
Dẫu sao đi nữa thì điều đó tiêu biểu một cách chắc chắn cho
sự tan rã công khai và cho đợt xuống tàu ồ ạt để đi... về
đâu? Dĩ nhiên là đến một nơi nào đó ở hải ngoại.
Cuộc hội kiến tiếp tục, ông Hương lập đi lập lại nhiều lần,
thì thầm gần như là nói cho riêng ông, nhưng tôi cũng nghe
thấy được, như một lời than thở:"Chẳng còn hy vọng gì được
nữa, phải không?" Không muốn để cho ông cảm thấy quá cô đơn,
mỗi lần như thế tôi cũng lập lại:"Vâng, không hy vọng gì nữa
đâu, thưa Tổng Thống." Khi ông lầm bầm câu hỏi đó đến lần
thứ tư, tôi nhất định đáp lại chậm rải qua một giọng cứng
rắn hơn để cho ông chấm dứt tình trạng hoang mang:"Dạ không.
Không còn bất cứ hy vọng nào nữa. Nhưng còn một vài chuyện
phải làm. Nhưng không phải là tổng thống hay tôi phải làm và
cả Mỹ nữa. Một người nào khác sẽ làm. Tổng thống đừng bận
tâm. Tổng thống nên đi nghỉ thôi. Những người khác sẽ hân
hoan làm điều đó."
Bỗng nhiên, tôi thấy hối tiếc đã nói ra như vậy. Tôi biết rõ
là cái bóng ma chiến bại và đầu hàng sẽ làm cho cụ già dễ
thương kia đau khổ. Tôi thấy rằng ông đang khóc thầm, thu
người hẳn vào chiếc ghế dựa. Chẳng còn gì để ông làm nữa cả.
Không hành động được nữa nên niềm hy vọng đang vỗ cánh bay
đi càng thêm khó chịu. Những giọt nước mắt của ông có thể là
vì vỡ mộng, vì căm phẫn, vì chán ghét, vì bị phản bội hay
chỉ vì tuyệt vọng. Tuy nhiên, ông kiên quyết bám lấy một
chút hy vọng mong manh, dù biết rằng chẳng còn gì để hy vọng
nữa. Cũng như nhiều người ở Sài Gòn, cụ Hương dễ mến kia cứ
hy vọng một cách mù quáng và kiên trì vào việc cứu vãn và
duy trì cái chính phủ “hợp hiến” của Việt Nam Cộng Hòa. Ông
không còn hy vọng đến một ước mơ nhỏ nhoi nào hay một điều
mơ tưởng nào khác.
Ðã hai thập niên qua, nhiều người ở Nam Việt Nam đã được
động viên để hiểu biết và tin tưởng rằng tự do là quyền sống
và lẽ chết, là một cái gì để người ta phấn đấu và hy sinh
mạng sống. Nhưng cụ Hương không còn tin tưởng như thế nữa vì
chính phủ của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, lãnh tụ của Thế Giới
Tự Do, có vẻ như chẳng còn suy nghĩ như thế nữa. Họ đã cắt
đứt quan hệ cuối cùng nối liền họ với tiền đồn rồi.
Sau rốt, tôi nghĩ đã đến lúc tôi phải xin cáo biệt. Vừa qua
là một cuộc hội kiến vừa ngọt bùi vừa cay đắng và đau
thương. Cả hai chúng tôi đều thấy rõ rằng có nói nữa cũng
bằng thừa. Nguồn hy vọng cuối cùng của ông Hương trong đêm
lịch sử đó chỉ có thể là ông đại sứ Hoa Kỳ, Graham Martin,
nhưng lại là người chẳng đem đến cho ông điều gì nữa. Trước
khi khép cánh cửa ra về, tôi nhìn ông lâu dài, thiết tha
mong muốn giúp đỡ ông nhưng biết rằng tôi chẳng còn làm gì
được nữa. Tôi không thấy vị tổng thống của một đất nước nào
bất động và cô đơn như vậy, với một nét mặt hoàn toàn tuyệt
vọng và hai vai khòm xuống vì buồn rầu. Ðó là lần cuối cùng
tôi nhìn thấy ông Trần Văn Hương.
Tôi biết rằng ông Hương không thực sự ước mong tôi đem lại
cho ông chút hy vọng gì. Ðiều mà ông cần ở tôi nhiều nhất là
một sự an ủi thân hữu để trám đầy khoảng trống to lớn đang
bao quanh ông. Ðiều này tôi có thể làm được. Hôm đó, tôi trở
về Sài Gòn đặc biệt là để có mặt cùng với ông, nhưng tôi có
thể chia sẻ cảm nghĩ của ông, cũng như những cảm nghĩ mà tôi
chia sẻ với cha mẹ già nua của tôi sau đó trong đêm. Cha mẹ
tôi vui mừng khi thấy tôi trở về nhà để ở cạnh hai ông bà
trong khi nhiều người muốn đi tỵ nạn lưu vong.
Tổng Thống Hương không biết chính phủ của Việt Nam Cộng Hòa
sẽ được cứu vãn như thế nào, có hay không có sự giúp đỡ của
Hoa Kỳ. Ông cũng không nghĩ là “Minh Lớn” có thể cứu vớt
được chính phủ đó, nhưng vì không còn cách nào khác, Tổng
Thống Hương đành nhượng bộ các áp lực buộc ông phải từ chức,
thế là Tướng Minh nhận lấy vai trò lãnh đạo ở Nam Việt Nam
vào giờ phút cuối cùng.
Hy
vọng... giờ tôi nhớ lại hai năm trước đây tôi đã có cảm
tưởng về một niềm hy vọng lớn lao cũng do chính phủ Hoa Kỳ
đem lại, một chính phủ hôm nay đã bỏ rơi chúng tôi. Ngày đó,
ở phi trường Orly (Pháp) vào trung tuần tháng giêng năm
1973, chính ông Henry Kissinger, lúc bấy giờ đang giữ chức
vụ Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, đã cho tôi có cảm tưởng như vậy.
Ông sắp sửa trở lại Hoa Thạnh Ðốn để diện kiến Tổng Thống
Nixon, sau khi đã tiếp xúc lần nữa với Lê Đức Thọ, ủy viên
bộ chính trị Hà Nội. Cuộc tiếp xúc đã diễn ra sau chiến dịch
ném bom mười hai ngày đêm của Mỹ xuống Hà Nội vào dịp Giáng
Sinh 1972, một mưu lược nhằm gây áp lực buộc Hà Nội phải
chấp nhận Hiệp Ðịnh Ba Lê (rốt cuộc được ký kết khoảng hai
tuần lễ sau đó, vào ngày 27 tháng giêng năm 1973).
Trước khi bước lên chiếc phi cơ đặc biệt dành cho ông, tại
phòng khách danh dự, tiến sĩ Kissinger phải gặp báo chí. Mọi
người đều biết cả hai chúng tôi rất rành vì họ đã theo dõi
hòa đàm Ba Lê trong mấy năm qua. Ðến gần máy vi âm, với một
tâm trạng vui vẻ, tiến sĩ Kissinger khôi hài giới thiệu tôi
với phóng viên:”Quý vị đều biết ông Phong, phụ tá đặc biệt
của tôi về Châu Mỹ La Tinh”, ám chỉ đến tình trạng căng
thẳng lúc bấy giờ giữa Mỹ và một vài nước La Tinh láng
giềng.
Các phóng viên nghĩ rằng những cuộc “mật đàm” giữa Kissinger
và Thọ đang đến giai đoạn cuối cùng và rồi đây sẽ dẫn đến
một thỏa hiệp. Thế nên lời tuyên bố của tôi có đoạn như
sau:”Chúng tôi đã mở lại hòa đàm Ba Lê với phía bên kia
trong tinh thần của một niềm “hy vọng mới”, nhằm đạt được
một giải pháp có thể chấp nhận được cho cuộc chiến ở Việt
Nam”. Một lúc sau, Kissinger cũng nói đến “hy vọng mới”
trong lời tuyên bố của ông.
Liệu ông Kissinger có cùng chia sẻ niềm hy vọng mới hay chỉ
là một cách nói gọn ghẽ để thu hút dư luận, dành cho phương
tiện truyền thông. Tôi nghĩ rằng ngay một kẻ hùng mạnh trên
cõi đời này đôi khi cũng hy vọng, khi công việc vuột khỏi
tầm tay. Tôi cũng nghĩ rằng những nhà lãnh đạo uy thế cũng
có thể có hy vọng và nói ra rõ ràng một cách dễ dàng hơn
những con người tầm thường ngoài đường phố. Lúc bấy giờ, tôi
hy vọng nhiều và một cách cụ thể là Hiệp Ðịnh Ba Lê sẽ được
ký kết. Một trong những lý do để cho tôi hy vọng như vậy là
sự hiện diện của tiến sĩ Kissinger bên cạnh tôi, như là đại
diện cho một bộ máy chiến tranh vĩ đại trên địa cầu. Tổng
Thống Nixon rất cần có được Hiệp Ðịnh Ba Lê vì nhu cầu trong
nước cho cuộc vận động để tái đắc cử, chưa kể các lý do
khác. Hy vọng đặc thù của tôi không tồn tại lâu dài. Nó tan
biến với vụ từ chức của ông Nixon vào ngày 9 tháng 8 năm
1974 vì vụ tai tiếng Watergate, một biến cố đã trở thành
“phát súng ân huệ” cho việc Mỹ can thiệp ở Việt Nam và cho
số phận của Nam Việt Nam. Hy vọng, thực tế và phần số.
[...]
Trong đêm định mệnh 25 tháng 4 năm 1975 đó, liệu ông Ðại Sứ
Graham Martin có lợi thế gì hơn Tổng Thống Trần Văn Hương để
đem lại một hy vọng nào đó cho sự tồn tại của chính phủ Sài
Gòn không? Hoặc có hy vọng gì cho những chính khách đầy tham
vọng của Sài Gòn không? Hay là hy vọng gì cho sự an toàn của
những người vô tội ở thủ đô cũ của Việt Nam Cộng Hòa không?
Có lẽ là không. Ông đại sứ Hoa Kỳ đã biết được những diễn
biến liên quan đến sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn. Nhất định
là ông đã làm mọi cách trong khả năng của ông để cứu vãn,
không những cái “Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do” trên tuyến chống
cộng, mà còn cái ý niệm nào đó về một Nam Việt Nam không
cộng sản để cho dân chúng được sinh sống mà không bị giết
hại hay tiêu diệt thêm nữa.
Ông
Martin, người đại diện tại chỗ cho siêu cường hàng đầu trên
thế giới, cảm thấy mình ở trong một tư thế hoàn toàn bất
lực, không thể làm thay đổi tình hình. Ông bị bắt buộc phải
đóng một vai tuồng lịch sử của một thảm kịch trăm phần khó
khăn hơn vai tuồng đau khổ của Tổng Thống Nam Việt Nam, Trần
Văn Hương. Không có cách nào người khác biết được tâm tư và
cảm nghĩ thầm kín của ông đại sứ Hoa Kỳ. Thế nhưng, cảnh
tượng ở Tòa đại sứ Hoa Kỳ đã nói thay cho ông rồi. Một sự
hỗn loạn hoàn toàn mà khung cảnh điển hình là cuộc di tản
trên sân thượng của sứ quán. Một cảnh tháo chạy hối hả và lộ
liễu như vậy của viên chức chính phủ Hoa Kỳ không làm cho
thiên hạ hy vọng gì nữa - dĩ nhiên là ngoại trừ những ai đã
leo lên được những chiếc trực thăng kia. Một cảnh tượng làm
tăng thêm nổi tuyệt vọng cho nhiều người dân Sài Gòn.
Hai ông Graham Martin và Trần Văn Hương đều là những con
người rất tốt. Cả hai đều là những công thần lương thiện đầy
thiện chí và ý hướng để đem lại phúc lợi cho người khác.
Nhưng cả hai đều ở vào bước ngoặt của lịch sử, nơi mà người
tốt phải lãnh việc xấu, còn người xấu thì phần lớn tìm cách
lánh xa những hậu quả mà họ đã góp phần tạo ra.
Nhất định là Ðại Sứ Martin và Tổng Thống Hương đã cố gắng
hình thành những chiến lược có cơ đem lại những tia hy vọng,
nhưng cả hai đều phải hành xử chức năng của mình qua một bối
cảnh toàn là tuyệt vọng. Hiểu biết được tánh tình của cả
hai, tôi có thể hình dung được nổi nhục mà họ phải gánh chịu
trong khi đảm trách những vai trò mà lịch sử và hành động
của những người khác trong bao năm qua đã trao lại cho họ.
Không như ông Hương, Graham Martin biết rõ tại sao chính phủ
Hoa Kỳ bỏ rơi chính phủ chống cộng của Nam Việt Nam. Nhưng
tôi nghĩ là trong những tháng, những tuần lễ và rồi những
giờ phút cuối cùng, cá nhân ông Martin càng lúc càng trải
qua tình trạng căm phẫn và tuyệt vọng. Ðó là những gì mới mẽ
và quái gở đối với ông. Mặt nào đó, có thể còn trầm trọng
hơn nổi tuyệt vọng của ông Hương, vì ông Martin biết rõ hơn
ông Hương mức thoái hóa của tình hình và ông đã không làm
được gì để cứu vãn Sài Gòn. Ông đã bám lấy càng lâu càng hay
- thực sự là lâu đến khi không còn an toàn cho ông nữa.
Trong
hai ngày thứ hai 28 và thứ ba 29 tháng tư, tiến sĩ Kissinger
và Tổng Thống Ford không ngớt yêu cầu Ðại Sứ Martin nên ra
khỏi Sài Gòn, nói rằng chính tại quê nhà Hoa Kỳ cũng cần đến
những bậc anh hùng như ông. Nhưng ông Martin đã dùng mọi mưu
mẹo mà ông có thể nghĩ ra được để đánh lừa Hoa Thạnh Ðốn và
Bộ Tư Lệnh Ðệ Thất Hạm Ðội hầu tìm cho được càng nhiều trực
thăng càng tốt để cứu vớt những người Mỹ cuối cùng và hàng
trăm người Việt Nam còn bị kẹt trong sứ quán của ông. Cá
nhân ông Martin đã bị cưỡng bức phải leo lên chiếc trực
thăng sau cùng vì người phi công không chịu cất cánh nếu
không có ông và cứ lập đi lập lại rằng đã nhận chỉ thị đặc
biệt của Tổng Thống Ford là phải đưa ông đại sứ Hoa Kỳ ra
khỏi Sài Gòn. Lúc đó là vào khoảng 5 giờ sáng ngày thứ tư 30
tháng tư năm 1975, và một ít quân sĩ đầu tiên của Bắc Việt
Nam vừa tiến qua cầu xa lộ Sài Gòn, cách sứ quán Hoa Kỳ
không đầy mười phút ô tô.
Tôi nghĩ rằng dù cho sáng ngày hôm đó ông bay ra khỏi Sài
Gòn, Graham Martin vẫn hy vọng còn có thể thương thuyết để
tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến đẫm máu, nếu như
“Minh Lớn” làm tổng thống Nam Việt Nam và chịu dàn xếp ôn
hòa với quân lính Bắc Việt của Hà Nội đang tiến vào. Không
biết Ðại Sứ Martin có cơ sở gì để coi niềm hy vọng của ông
là thực tế hay không, nhưng ít ra cũng là nỗ lực liều lĩnh
của ông để tìm cách đem lại cho một tình hình gần như tuyệt
vọng một “hy vọng để mà hy vọng” với mưu lược và hành động,
chớ không phải chỉ là những thủ đoạn tuyệt vọng.
Với hai ông Hương và Martin, tuyệt vọng và hy vọng cùng hiện
hữu bên cạnh nhau vào những giờ phút nguy kịch và cuối cùng
của quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian để có thể hy
vọng chẳng còn bao nhiêu nữa trong khi khả năng để tuyệt
vọng lại nhiều hơn. Mùa xuân 1975 là thời điểm mà những ai
có liên can đến “Chiến Cuộc Việt Nam” đều vừa hy vọng vừa
tuyệt vọng một các mãnh liệt. Sự sụp đổ đột ngột, nhanh
chóng và đau buồn của chính phủ Sài Gòn vượt quá sức tưởng
tượng. Một điều bất ngờ làm cho dân chúng Việt Nam, ở ngoài
Bắc cũng như ở trong Nam, đều sửng sốt. Có thể nào trường
hợp đó là một chuyện thực sự bất ngờ đối với chính quyền Hoa
Kỳ hay không? Có thể nào các ngành tình báo Hoa Kỳ đã có
phần nào thiếu sót? Hoặc giả họ là nạn nhân của những gián
điệp hai mang chăng? Có vẻ như các chuyên viên và những nhà
lãnh đạo ở Hoa Thạnh Ðốn bị bất ngờ trước sự suy đồi quá
nhanh chóng của các biến cố.
Thế nhưng, có phải quyết định và hành động của Hoa Thạnh Ðốn
là động cơ chính đưa tới hậu quả thảm khốc hay không? Hơn
hai mươi năm trời trước kia, Hoa Thạnh Ðốn đã tung ra đủ mọi
niềm hy vọng thượng thặng về “Cuộc Chiến Việt Nam”, nhưng
chưa bao giờ cho thấy một kịch bản như hồi cuối tháng tư
1975, khi tất cả sẽ chấm dứt bằng một màn tồi tệ, mà hình
ảnh tiêu biểu đầy bi thảm là cuộc di tản từ sân thượng của
sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn.
Công bằng mà nói thì cũng nên nhìn nhận là biến cố đã hoàn
toàn vượt khỏi khả năng của bất kỳ chuyên viên, nhà tiên
tri, thày bói toán, người máy hay những bộ óc thông minh
nhất của Hoa Thạnh Ðốn. Không ai có thể dự kiến hay đoán
trước được tiến trình thời sự ở Việt Nam vào đầu năm 1975.
Tuy nhiên, rõ ràng là một thời điểm đánh dấu bước ngoặt quan
trọng của lịch sử Việt Nam. Châm ngôn phổ biến có câu:”Mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Phải chăng số phận và định
mệnh đã cho thấy là đến lúc những người anh em thù nghịch
của Việt Nam nên có quyết định và ra tay hành động theo cách
nào đó để chấm dứt cuộc phân tranh dai dẳng, cùng với màn
chém giết buồn thảm và tương tàn.
[...]
Trong bài diễn văn truyền hình ngày 21 tháng tư, ông Thiệu
phê phán chính phủ Hoa Kỳ, nói rằng nguyên nhân chính làm
cho tình hình suy sụp là quyết định ngưng can thiệp quân sự
và chấm dứt viện trợ thêm nữa cho Việt Nam Cộng Hòa. Chính
phủ Sài Gòn thừa biết rằng sẽ không bao giờ tồn tại nổi nếu
không có viện trợ của Hoa Kỳ, về mặt quân sự lẫn kinh tế.
Chính phủ này chưa bao giờ có khả năng bù trừ lại sự thiếu
hụt then chốt đó. Làm thế nào người Việt Nam chống cộng có
thể chiến đấu trong cuộc Chiến Tranh của Mỹ tại Việt Nam mà
không có Hoa Kỳ? Thậm chí với tất cả các phương tiện chiến
tranh quy ước thừa mứa, tinh vi, với bom Mỹ, với hơn nửa
triệu lính Mỹ, một triệu hai quân Việt Nam Cộng Hòa và hàng
tỷ Mỹ kim mà họ cũng chỉ có thể xoay xở trên hai mươi năm
qua “để cho khỏi thua” mà thôi. Miền Bắc biết những gì đang
xảy ra nên đẩy mạnh và tăng cường guồng máy quân sự, chính
trị và tuyên truyền để khai thác tình hình thuận lợi như
trời đất ban cho như thế. Càng hiển nhiên hơn nữa là Hoa
Thạnh Ðốn cắt tuyến liên lạc cuối cùng nối liền với “Tiền
Ðồn Thế Giới Tự Do”.
Hậu
quả là vào cuối tháng tư 1975, Tổng Thống Hương bị rơi vào
tình cảnh vô phương hành động, thứ nhất là vì Hoa Kỳ không
còn ủng hộ một Nam Việt Nam chống cộng nữa và thứ nhì là vì
“quyền hành tổng thống” mà ông thừa hưởng không nặng cân
bằng mảnh giấy của ông ký trao quyền lại cho ông Minh. Ông
lâm vào một tình thế tuyệt vọng vì vay trò duy nhất dành cho
ông là trao quyền hiến định của ông cho cá nhân, mà Mỹ và
những người khác trong cấp lãnh đạo của Nam Việt Nam chọn
lựa.
Tôi đã trông thấy những gì tôi không muốn thấy, nhưng để
chuẩn bị tâm tư, tôi đã mường tượng ra những trường hợp sau
đây, khi đáp xuống Sài Gòn: thế bất lực của ông đại sứ Hoa
Kỳ, tình trạng hết hy vọng của tướng lãnh chúng tôi và nỗi
tuyệt vọng của Tổng Thống Hương. Những gì tôi thưa với ông
Hương là để giúp ông từ chức mà không chần chừ. Vì nhiều lý
do và mục đích khác nhau, tôi cũng bắt đầu giúp đỡ mọi người
khác trong khả năng của tôi - người Pháp, người Trung Quốc,
người Nga, người Mỹ, chính khách Sài Gòn, và thậm chí cả
phía bên kia.
Vì không có khả năng khắc phục nghịch cảnh nên tôi cảm thấy
bất lực, nhưng không phải tuyệt vọng. Tôi không nghĩ rằng vì
Sài Gòn sụp đổ mà quân cộng sản và Việt Cộng sẽ thủ tiêu tôi
ngay, nhưng viễn ảnh của một cuộc thất trận đã làm tôi băn
khoăn. Cảm nghĩ của tôi cũng giống như tâm trạng của đa số
quân nhân Việt Nam Cộng Hòa - họ chỉ cần lột bỏ quân phục
rồi về nhà sinh sống với gia đình. Họ đã làm thế trong một
vài ngày cuối cùng của tháng tư 1975. Ở những đơn vị quân
đội của Nam Việt Nam không có nơi nào hoang mang sợ hãi cả.
Tôi có cảm tưởng là công chức Sài Gòn hoảng sợ nhiều hơn bên
quân đội. Có lẽ vì mấy thập niên qua, họ lãnh phần trách
nhiệm lớn lao trong việc tuyên truyền chống cộng nên tự cho
mình là thành phần đáng lo ngại. Cuối cùng, có phải vì họ
nhìn thấy trước cảnh “tắm máu” khó tránh, đã được đồn đại
khá nhiều khi quân xâm lược Bắc Việt tiến vào thành phố Sài
Gòn chăng?
Tôi không thấy có biểu hiện nào tuyệt vọng xung quanh tôi
trong quần chúng Sài Gòn. Thiên hạ tiếp tục làm ăn, và đường
phố Sài Gòn vẫn yên lặng, ngoại trừ một vài nơi ở trung tâm,
với người ngoại quốc tụ tập quanh các khách sạn lớn, những
cảnh di tản dễ khiếp ở phi trường và ở những điểm hẹn cho
trực thăng bốc đi. Náo loạn nhất, dĩ nhiên là sứ quán Hoa
Kỳ, nơi mà hàng nghìn người tập trung lại trước cổng, la lối
và tranh giành nhau để lọt được vào bên trong. Phần lớn là
giới thượng lưu giàu có của Sài Gòn, viên chức cao cấp, sĩ
quan quân đội và những người đã xoay xở để làm giàu nhờ Mỹ.
Nhiều người cũng nhảy lên được một chuyến bay, cứ liên tục
luân chuyển từ sân thượng của sứ quán.
Như đã nói trên đây, Ðại Sứ Martin là một trong những người
ra đi sau cùng, khi xe tăng Bắc Việt tiến vào ngoại ô Sài
Gòn sáng ngày thứ tư, 30 tháng tư 1975. Ông là viên chức cao
cấp của Hoa Kỳ có mặt tại hiện trường vào giai đoạn cuối
cùng đầy bi thảm và mang tính lịch sử của Cuộc Chiến Tranh
Mỹ ở Việt Nam. Tôi chắc chắn là ông cảm thấy tuyệt vọng khi
ngồi trực thăng nhìn bờ biển Việt Nam mờ lần với khoảng cách
xa. Tôi cũng đoan chắc rằng ông cảm thấy lòng buồn thấm thía
và không thể nào không nghĩ đến người con trai mà ông đã
hiến dâng cho cuộc chiến, đã từng diễn ra ác liệt trên đất
nước Việt Nam của chúng ta.
Tổng Thống Thiệu chưa đến đổi tuyệt vọng khi từ chức ngày 21
tháng tư. Ông Thiệu và đội ngũ quân lực Sài Gòn của ông bị
dồn vào thế bất lực nhưng chắc họ vẫn còn bám vào chút hy
vọng là vào phút chót Mỹ sẽ ồ ạt can thiệp bằng quân sự để
chận đứng đà tiến của xe tăng Bắc Việt và để cho một Nam
Việt Nam chống cộng được sống sót. Lên đường lưu vong ngày
25 tháng tư, liệu ông Thiệu và các tướng lãnh Sài Gòn có cảm
thấy mất hy vọng, tuyệt vọng, hay có cảm nghĩ vừa sĩ nhục
vừa gian dối không? Còn ông Trần Văn Hương, người đã trọn
đời bất lực, không khi nào có được thực lực bao giờ hết,
ngay cả trong một tuần lễ nắm quyền hành tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa, không biết ông có hy vọng gì không?
[...]
“Cuộc chiến tranh Việt Nam” đã để lại những vết thương sâu
đậm và vẫn còn đau nhói cho dân tộc Mỹ, cũng như “Cuộc Chiến
Tranh Của Mỹ” còn làm cho nhân dân Việt Nam âm thầm buồn tủi
và khiếp sợ.
[...]
- Hết -
(Kỳ tới: Bốn mươi tám giờ làm tổng thống)
|