Hồi
đầu năm 1975, nhiều người khó hiểu tại sao không một ai ở Hoa
Thịnh Ðốn chịu tìm phương cách để cứu vãn Việt Nam Cộng Hòa,
hoặc nói lên một tiếng nào để cho "Trận Ðánh Sài Gòn" dễ sợ
không xảy ra. Dù sao, thành phố Sài Gòn cũng ít chứng kiến
những cuộc đánh nhau với địch quân hơn là trông thấy cảnh chạm
súng qua nhiều cuộc đảo chính thời chế độ Sài Gòn trước kia.
Không đủ khả năng ngăn chặn Sài Gòn sụp đổ, thực sự không phải
vì quân lính Việt Nam Cộng Hòa yếu kém hay súng ống đạn dược
thiếu hụt. Cả hai yếu tố đó đều dư thừa để có thể chống trả
một cách thoải mái trong vòng mấy tháng. Tuy nhiên, vào mùa
xuân 1975 giờ tính sổ của lịch sử đã đến. Một thời điểm để cho
chuyên viên của hai phe lâm chiến ở Việt Nam đối chiếu thực tế
và kiểm nghiệm xem những ý niệm và lý thuyết của họ về tự do
và dân chủ, về chủ nghĩa quốc gia và độc lập, về chủ quyền và
hòa bình thế giới có giá trị gì không.
Dĩ nhiên, thanh lý chiến tranh là một vấn đề vô cùng khó xử
đối với các cấp lãnh đạo ở Hoa Thịnh Ðốn cũng như ở Sài Gòn.
Nhưng điều đó lại làm cho các ủy viên bộ chính trị Hà Nội ngạc
nhiên không ít, vì từ hai thập niên qua họ đã mong muốn Hoa Kỳ
ngưng can thiệp vào Việt Nam. Hà Nội chưa bao giờ quan tâm đến
con số một triệu người của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và quân
cộng sản cũng biết được rằng vào đầu năm 1975, ý chí chiến đấu
chẳng còn bao nhiêu.
Phần lớn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là những người lính trẻ
tân tuyển, bị bắt buộc làm nghĩa vụ quân sự. Ưu tiên hàng đầu
của những người này là tìm cách tránh né bất cứ hình thức
chiến đấu nào. Dù sao đi nữa thì tuyệt đại đa số quân sĩ Sài
Gòn, thực ra đã được tuyển mộ không phải là để đánh trận.
Người ta thường thấy họ đi tuần tra hoặc bảo vệ an ninh cho
công sở, với nhiệm vụ chính là bảo đảm "an ninh lãnh thổ" cho
dân chúng.
Dưới thời ông Diệm, dân chúng nông thôn ở trong những cái gọi
là "ấp chiến lược", không khi nào biết được là mình đích thực
bị giam lỏng hay bị ngăn cách với phần còn lại của đất nước.
Vì thế cho nên Hà Nội và quân lính cộng sản ở Nam Việt Nam
không chú trọng mấy đến những người lính quân dịch non trẻ của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và không cho đó là một
vấn
đề.
Họ quan tâm đến việc Hoa Kỳ can thiệp ở đó.
Nhưng Sài Gòn và Hoa Thịnh Ðốn lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa là một yếu tố chủ yếu, được ghi vào những phúc trình và
các cuộc thảo luận quan trọng về chiến tranh du kích, về quân
số, về tương quan lực lượng, về hỏa lực, về bình định và về số
thương vong. Nói cách khác, nhờ đó mà có những con số thống kê
để đưa ra trình bày ở "Four O'Clock Follies" - phiên họp báo
hàng ngày vào lúc 16g của quân đội
Mỹ tại Sài Gòn - một hoạt cảnh chán ngấy, được diễn ra mỗi
ngày, dành cho báo chí quốc tế ở Sài Gòn.
Tổng Thống Johnson cũng chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao tổ chức
những phiên họp báo hàng ngày tương tự để cho dân chúng Mỹ
biết được những diễn tiến tốt đẹp của chiến dịch mưu tìm tự do
và dân chủ ở Nam Việt Nam. Cũng may mà Hiệp Ðịnh Ba Lê năm
1973 đã hạ màn chấm dứt những vở diễn đó, và dân chúng Hoa Kỳ
không còn phải nghe những câu chuyện dễ sợ xuất phát từ đó.
Dân chúng Mỹ đương nhiên vẫn tin tưởng ở lý tưởng cao cả về tự
do và tiến bộ nhưng càng ngày càng ít quan tâm đến ý niệm coi
Nam Việt Nam là "Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do" ở Ðông Nam Á. Hoa Kỳ
đã trở lại với quan niệm sơ khởi, thời Tổng Thống Kennedy,
muốn cho người Nam Việt Nam có thể tự vệ mà không cần quân
lính Hoa Kỳ hỗ trợ. Nhưng đâu phải đơn giản.
 Thiên
hạ thường tự hỏi không biết John F. Kennedy có thể nào gửi
quân chiến đấu Hoa Kỳ sang Nam Việt Nam hồi 1962, thay vì gửi
"cố vấn", khi Việt Cộng gia tăng mạnh mẽ chiến tranh với sự
tham dự của Bắc Việt Nam hay không. Về sau, Tổng Thống Nixon
than phiền là Tổng Thống Kennedy đã mở màn cho tình trạng hỗn
loạn ở Việt Nam và không chịu làm gì để ngăn ngừa cuộc ám sát
Tổng Thống Diệm. Tôi nghĩ rằng JFK không làm cho Hoa Kỳ phải
chi ra hàng tỷ Mỹ kim và đưa nửa triệu quân Mỹ vào Nam Việt
Nam, và rất có thể ông tìm cách thương thuyết với Hồ Chí Minh
để gở rối, dù cho cái gọi là chính phủ "không cộng sản" thay
vì "chống cộng" ở Sài Gòn phải gánh chịu hết. Hà Nội có thể
chấp thuận giải pháp đó, mà cũng có thể không, vì lúc bấy giờ
cuộc chiến chưa quyết liệt. Như vậy thì rất có thể phải đi đến
một giải pháp quân sự, và Hoa Thịnh Ðốn cũng gặp trường hợp
khó xử như thế.
Một cuộc dàn xếp ôn hòa với Hồ Chí Minh cũng có thể đặt Tổng
Thống Kennedy vào thế đối nghịch lại với phe diều hâu và CIA,
là những thành phần nồng cốt trong việc đưa ông Ngô Ðình Diệm
lên ghế tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và rất mong muốn lưu giữ
ông lại. Tuy nhiên, phải nhìn nhận là Tổng Thống Nixon đã có
công đưa toàn bộ quân lính Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam về trong
nhiệm kỳ đầu của ông (theo báo cáo của Bộ Quốc Phòng thì hồi
tháng Ba năm 1969, con số đó lên đến 541.000), và với chính
sách "Việt Nam hóa" chiến tranh, ông đã đưa mức thương vong
của lính Mỹ xuống mức tối thiểu. Vào lúc ký kết Hiệp Ðịnh Ba
Lê hồi tháng Giêng 1973, còn 25.000 binh sĩ Mỹ ở Nam Việt Nam
phải đưa về. Hồi tháng Giêng 1975, Hoa Thịnh Ðốn bị bắt buộc
phải theo đuổi hy vọng của John F. Kennedy về một Nam Việt Nam
"không cộng sản", có khả năng tự vệ, không có sự can thiệp
quân sự của Mỹ. Nhưng, ý kiến đó đã tàn phai một cách nhanh
chóng hồi tháng Ba 1975, khi
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
không đủ sức hoặc không chịu đánh trả lại binh lính Bắc Việt.
Trong
gần hai thập niên, Hà Nội đã áp dụng chiến thuật du kích để
chống lại Hoa Kỳ, nhưng trong lần chạm trán cuối cùng với
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
họ lại vận dụng chiến tranh quy ước truyền thống và cổ điển.
Người Việt Nam mà đánh du kích chống lại người Việt Nam khác
thì thật là lố bịch. Chiến tranh du kích mà không còn quân
lính ngoại quốc ở Nam Việt Nam là chỉ mất thời gian một cách
vô lý. Thế nên, tướng Giáp và tướng Dũng rất vui mừng tung
toàn bộ lực lượng quân sự quy ước chống lại Sài Gòn hồi tháng
Ba năm 1975, theo đúng truyền thống của West Point. Rủi thay,
các tướng Maxwell D. Taylor, William C. Westmoreland và
Creighton W. Abrams không còn ở đó nữa.
Người ta có thể hy vọng có những trận đánh trả đích thật của
các đơn vị thiện chiến của Sài Gòn - thủy quân lục chiến, nhảy
dù, thiết giáp, biệt động quân và lực lượng đặc biệt - những
quân chuyên nghiệp ưu tú của Sài Gòn, ngực đầy huy chương,
những chiến sĩ được hưởng đầy đủ đặc ân và được đền bù xứng
đáng cả một thế hệ. Trên ba thập niên chiến đấu dưới mọi màu
cờ, họ không hiểu mà cũng chẳng quan tâm mấy đến những
vấn
đề
chính trị đàng sau những cuộc xung đột. Họ đã chọn quân đội
làm sự nghiệp nên ít để ý đến nguồn gốc hay kết cuộc của chiến
tranh. Họ chỉ tin tưởng ở các sĩ quan chỉ huy của họ, chấp
hành mệnh lệnh hết sức mình và hoàn thành công việc năm này
qua năm khác. Họ chiến đấu không phải vì ủng hộ các chính
khách mà để bảo trợ gia đình.
Chuyện gì đã xảy ra cho những đơn vị thiện chiến này của Sài
Gòn hồi mùa xuân 1975? Hồi tháng Ba, một vài đơn vị bị cưỡng
bách đưa vào những trận đánh tương đối nhỏ ở Cao Nguyên Trung
Việt, nơi mà họ đã đạt được những thành tựu rõ ràng là dưới
mức trung bình. Những trận đánh này chỉ là những cuộc chạm
trán nhỏ. Quân thiện chiến của Sài Gòn đã từng chiến thắng
những trận đẫm máu hơn. Tại sao bây giờ lại không được như
vậy? Thậm chí dân thường cũng thấy rằng Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa thiếu tinh thần, thiếu ý chí và không sẵn sàng. Hơn nữa,
thành tựu của những quân nhân này thường phản ảnh suy nghĩ,
thái độ và cung cách xử sự của cấp chỉ huy họ. Các cấp lãnh
đạo quân sự có
vấn
đề
gì?
Từ khi ký kết Hiệp Ðịnh Ba Lê hồi tháng Giêng năm 1973, quân
nhân cao cấp của Sài Gòn đã được ưu đãi. Ông Thiệu có thể đã
cho họ biết rằng tổng thống Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ có đưa ra
lời "cam kết" thành văn long trọng, là bảo đảm an ninh cho
Việt Nam Cộng Hòa. Viên thuốc ngủ đã có tác dụng khá tốt gần
hai năm. Nhưng giờ thì đã đến lúc phải tỉnh giấc để nhìn sự
thực. Khi tình hình thoái hóa nhanh chóng ở Cao Nguyên và
những vùng khác, ông Thiệu đã nhiều lần yêu cầu Hoa Thịnh Ðốn
hỗ trợ quân sự, dù cho chỉ bằng phương tiện trên không. Khi
Hoa Thịnh Ðốn từ chối không chịu hành động thì các tướng lãnh
của Sài Gòn hoàn toàn không biết nghĩ thế nào.
Gửi cho vài ba phi cơ của Ðệ Thất Hạm Ðội, dù chỉ để tác động
tâm lý, hoặc giả cho Hà Nội thấy một loại dấu hiệu nào đó nói
rằng Hoa Kỳ không từ bỏ ý niệm lâu đời về việc bảo vệ một
"Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do" ở Nam Việt Nam mà cũng thực sự khó
khăn đến thế sao? Giúp đỡ Sài Gòn cầm cự trong một thời gian
mà cũng nhiêu khê vậy à. Ngày 25 tháng Ba, Tổng Thống Ford có
gửi cho ông Thiệu một thông điệp thân hữu, nhắc lại rằng chính
phủ Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng rất tiếc
là Quốc Hội Hoa Kỳ không chấp thuận việc sử dụng phi cơ Mỹ.
Ðể
trấn an Việt Nam, ngày 28 tháng Ba, Hoa Thịnh Ðốn phái Tham
Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, Frederick Carlton Weyand, một vị
tướng bốn sao, đến Sài Gòn. Ông Weyand có mặt ở hòa đàm Ba Lê
và sau đó trở thành tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam,
một chức vụ ông đảm nhiệm cho đến khi quân lính Mỹ hoàn toàn
rút khỏi Việt Nam vào cuối tháng Ba năm 1973.
Tôi đã biết ông Fred Weyand trong nhiều năm qua và chúng tôi
đã trở thành bạn thân với nhau. Fred thật tình tin tưởng rằng
Nam Việt Nam là "Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do". Sau chuyến đi thăm
Sài Gòn, trong một cuộc họp với hai ông Ford và Kissinger,
dưới ánh mặt trời California ở Palm Springs hôm 4 tháng Tư,
tôi chắc rằng ông đã vận dụng hết tài hùng biện của mình để mô
tả tình hình quân sự đen tối và tuyệt vọng của Nam Việt Nam và
hết lòng bênh vực cho trường hợp của Nam Việt Nam.
Dĩ nhiên là hoài công, vì tổng thống Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ
chẳng còn làm gì được nữa khi Quốc Hội Hoa Kỳ đã khẳng định
bác việc chi viện thêm cho Việt Nam Cộng Hòa để tiếp tục cuộc
chiến, chưa kể 720 triệu Mỹ kim do Tướng Weyand đề nghị hay là
ngay cả 300 triệu Mỹ kim hoàn toàn viện trợ kinh tế mà các trợ
lý của Bạch Cung đã nghĩ đến. Bằng hữu ở Thượng Viện nói rõ
với Tổng Thống Ford là ông sẽ không có lấy một đồng ten nào
cho bất cứ việc gì có tính cách quân sự ở Việt Nam, nhưng trái
lại, ông có thể có bất kỳ số tiền nào ông cần để đưa tất cả
người Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Như thế, đã có quyết định là chẳng một ai phải chi ra bất kỳ
món tiền nào cả cho việc Tổng Thống Ford yêu cầu Quốc Hội cấp
720 triệu Mỹ kim để cứu nguy chính phủ Sài Gòn. Trách nhiệm
pháp lý và tinh thần của cuộc giết hại sẽ thuộc về Quốc Hội
chứ không phải Tòa Bạch Ốc. Ngoài ra, ai ai cũng thừa biết
rằng dù cho với một triệu Mỹ kim thì, về mặt vật chất và nhân
sự, Hoa Thịnh Ðốn cũng không thể chi viện quân sự và kinh tế
thêm kịp thời cho Nam Việt Nam để Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
chận đứng được đà tiến của quân lính Bắc Việt. Chỉ còn có một
việc hữu hiệu mà Tổng Thống Ford có thể làm được hồi tháng Tư
đó của năm 1975 là cho Hoa Kỳ can thiệp quân sự ồ ạt, nhưng
lại là một hành động điên rồ và thái quá.
 Từ
khi những trận đánh nhỏ xảy ra trong tỉnh Phước Long hồi đầu
năm 1975, ông Thiệu đã chuẩn bị để thử thách Hoa Thịnh Ðốn lần
cuối cùng và nắm phần chắc là Tổng Thống Ford không còn cách
nào khác hơn là xả láng trong ván bài vì người Mỹ. Có thể ông
Thiệu đã được thúc đẩy để làm như vậy khi nhớ lại đòn bốc đồng
của Tổng Thống Johnson trong việc leo thang chiến cuộc của Mỹ
ở Việt Nam. Cũng có thể ông Thiệu hy vọng có một người nào đó
ở Hoa Thịnh Ðốn sẽ làm một hành động điên rồ, dựa theo một tin
đồn đại cho rằng, vào lúc nào đó, ông Nixon có thể điên tiết
lên mà bấm nút hạt nhân để kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Nhưng dĩ nhiên là ông Thiệu hiểu biết rất ít về Tổng Thống
Ford, và ông đã sai lầm khi đánh giá quá cao về việc Mỹ muốn
tiếp tục đưa người và của vào Nam Việt Nam.
Sự tan rả khó tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đà tiến
không ai ngăn chận của quân lính Bắc Việt xuống miền Nam nhất
định làm cho hy vọng ở Hà Nội lên cao trong khi cấp lãnh đạo
của Sài Gòn càng thêm thất vọng. Tình hình đó không làm cho
"Văn Phòng Hình Bầu Dục" ở Hoa Thịnh Ðốn thất vọng nhưng chỉ
nhẫn nhục. Tổng Thống Johnson có thể đã cảm thấy thất vọng hồi
1968 khi ông tìm cách hoặc chiến thắng hay là có được một lối
thoát danh dự nhưng lại hoài công. Chuyện chế độ chống cộng
của Sài Gòn sắp sụp đổ đến nơi có thể cũng đã làm cho Tổng
Thống Nixon nản chí, nếu không phải là thất vọng. Ông Nixon đã
làm tối đa để giúp đỡ nhưng không thể hy vọng hoặc thất vọng
cho Việt Nam vì ông phải bận tâm quá nhiều với vụ tai tiếng
Watergate hồi 1974.
Còn đối với Tổng Thống Ford hồi 1975, thì từ lâu Nam Việt Nam
đã trở thành một vệ tinh phiêu dạt trong không gian, và do đó,
cách xa hàng tỷ năm ánh sáng. Dưới nhãn quan của nhiều người -
một cái nhìn quá ra có vẻ tiên tri - thì dù sao ông Ford cũng
chỉ là một tổng thống tạm quyền mà thôi. Thế nên, lực lượng
của Nam Việt Nam rơi rụng cũng như những con cờ đô-mi-nô xếp
hàng từ Cao Nguyên đến Sài Gòn chỉ trong vòng năm mươi lăm
ngày đêm, qua các trận đánh rời rạc gần như vô lý. Một hiện
tượng vượt khỏi óc tưởng tượng và có vẻ như chẳng thuận lý
chút nào hết.
Khi từ chức, ông Thiệu công khai biện minh là vì Hoa Kỳ không
chịu viện trợ quân sự thêm nữa. Ðiều đó không giải thích được
sự sụp đổ hoàn toàn và cấp thời của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
và Việt Nam Cộng Hòa. Vẫn còn nhiều thời gian để cứu vãn chế
độ chính trị Sài Gòn, nhưng cứ mỗi ngày trôi qua, người ta
càng thấy rõ là Hoa Thịnh Ðốn đã quyết định khác đi rồi.
Thế
là, "Minh Lớn" bắt buộc phải đưa ra một mục đích cụ thể và có
ý nghĩa để duy trì niềm hy vọng hão của ông. Chắc chắn là ông
cũng có
chút hy vọng khi nhận lãnh quyền hành từ tay ông Hương. Có thể
ông đã giải đoán tin tức sẵn có, để biết hay để tin tưởng,
bằng một phương thức nào đó, nên ông hy vọng rằng tình hình
chưa đến đổi vô phương cứu chữa. Chắc là ông không nhận lãnh
chức vụ tổng thống nếu như ông không tin cậy ở một điều gì
hoặc ở một người nào đó. Ai có thể đem lại niềm tin đó? Chắc
chắn không phải người Mỹ rồi. Người Pháp chăng? Hay là người
Trung Quốc? Hoặc giả Liên Xô chăng? Hay Hà Nội? Mặt Trận Giải
Phóng à? Ðương nhiên là Bà Bình, Mặt Trận Giải Phóng và "Lực
Lượng Thứ Ba".
Làm sao ông lại có thể tin tưởng như thế được khi mà đoàn xe
tăng dài vượt qua khỏi lực lượng Nam Việt Nam và tiến gần đến
Sài Gòn? Hy vọng duy nhất của "Minh Lớn" là nối lại quan hệ
hữu nghị với phía bên kia, nhưng với ai đây? Những nhà lãnh
đạo cấp cao đã tìm cách thực hiện và đã thất bại. Hà Nội không
còn trả lời điện thoại nữa, ngoại trừ để tán gẫu chuyện đời.
Chỉ còn một vài ngày nữa là tất cả người Mỹ phải ra đi. "Minh
Lớn" thấy rõ rằng điều kiện tiên quyết để cho ông có thể làm
bất cứ điều gì là phải chấm dứt ngay và một cách triệt để sự
hiện diện của Mỹ ở Nam Việt Nam. Vào giờ phút cuối cùng, mối
quan tâm trọng đại của Hà Nội vẫn còn vì cho là Hoa Kỳ có thể
sẽ bất ngờ can thiệp trở lại bằng cách nào đó.
Ðã đến thời điểm mà "Minh Lớn" có một niềm hy vọng có ý nghĩa,
hữu lý, và thực tế hay không, không thành
vấn
đề
nữa. Ông là hiện thân cho niềm hy vọng của "Lực Lượng Thứ Ba",
của những người khác ở Nam Việt Nam, và thậm chí của một vài
viên chức ở Hoa Thịnh Ðốn và ở Pháp, là những người đã ôm ấp
một mối hy vọng mơ hồ nào đó nên đã thúc đẩy "Minh Lớn" nhận
lãnh quyền hành của ông Hương. "Lực Lượng Thứ Ba" sốt sắng tìm
cách tạo dựng và quảng bá niềm hy vọng rất cần thiết đó. Những
người phụ tá của "Minh Lớn" hối hả gắn uy hiệu mang hình hoa
sen nhà Phật lên bục thuyết trình, ngay sau khi ông Hương nói
đôi lời chính thức để từ chức. Một hình ảnh nói lên mối hy
vọng nặng tính tượng trưng tuyệt đỉnh, và như thế, kết hợp
hình thức thi ca và huyền bí. Dĩ nhiên, đem hoa sen nhà Phật
làm biểu tượng chính trị là một hành động bất kính. Chẳng khác
nào tự thú "nhân danh Trời Phật, con đã làm nên bao nhiêu là
tội lỗi!"
Lúc nào tôi cũng tin tưởng quyết liệt ở vận mệnh. Tôi thấy
những sự việc lúc bấy giờ là điển hình cho điều đó. Thực tế
không thể đảo ngược đã lồng vào định mệnh và số phận đã được
an bài hồi cuối tháng Tư 1975. Gần nửa thế kỷ qua, Hồ Chí Minh
đã thực sự lập ra một nhóm người thuần thục. "Bác Hồ" rất
chuyên cần và, dù cho sau khi ông đã qua đời hồi 1969, các môn
đồ của ông cũng vẫn có khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Ðối với
Hà Nội, "Minh Lớn" không phải là một
vấn
đề
đặc biệt mà là mối quan tâm hạng bét. Mục tiêu căn bản nhất và
mong đợi từ lâu của miền Bắc trong chiến tranh ở Việt Nam là
làm nhụt ý chí và quyết tâm chiến đấu của người Mỹ. Họ đã đạt
được điều đó, không phải trên chiến trường, nhưng ở Quốc Hội
bên Mỹ. Hồ Chí Minh đã hoàn thành một điều y như thế, hai mươi
hai năm về trước, hồi 1954, với Lực Lượng Viễn Chinh Pháp tại
Ba Lê, ở Ðiện Bourbon (Quốc hội Pháp). Vậy mà, khi xe tăng Bắc
Việt đã đến cửa ngỏ Sài Gòn, khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
không muốn chiến đấu nữa, và khi Hoa Thịnh Ðốn đã quyết tâm
không khi nào can thiệp nữa, "Minh Lớn" vẫn còn cố nuôi hy
vọng và cố gắng làm cho người khác hy vọng.
Hy vọng, nhưng với lý do nào và mục đích gì? Có người cho rằng
ông hy vọng tránh đổ máu bằng cách tuyên bố Sài Gòn là "thành
phố bỏ ngỏ" và đón nhận người Việt Nam của mọi thành phần
chính trị. Như thế ai cũng vào được, không cần phải có ai mời
mọc hay công bố gì hết. Với đề nghị, "tôi không bắn và anh
cũng không bắn". Ðó là điều mà những người thân cận của "Minh
Lớn" chủ trương. Ông không thể ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa chận đứng đà tiến càng ngày càng nguy hiểm của quân
lính Bắc Việt. Dù cho tiếng tăm và uy tín của ông trong quân
đội Nam Việt Nam vẫn còn, nhiều lắm "Minh Lớn" chỉ có thể kêu
gọi quân lính Sài Gòn buông vũ khí thay vì giữ vững tay súng.
Ðó là điều mà người ta nghĩ rằng ông sẽ làm và có thể làm
được.
Còn đề nghị chia sẻ quyền hành với phía bên kia thì sao? Ðiều
đó hơi khó, nếu không phải là khôi hài. Chính phủ Sài Gòn
chẳng còn thứ gì quyền thế để san sẻ, thậm chí một đồng minh
cũng không, và bộ chính trị Hà Nội không có gì cần thiết để
chia sẻ với Nam Việt Nam.

Ðiều
có vẻ như được mong đợi là một liên minh giữa "Lực Lượng Thứ
Ba" của "Minh Lớn" và Mặt Trận Giải Phóng của Bà Bình - một hy
vọng quả thật là khiêm nhường. Ðúng là một hy vọng đáng thương
tâm. Nhưng nghe được và đứng đắn. Thực ra, như vậy còn khá hơn
đề nghị của Ngô Ðình Nhu hồi 1963 nhằm đưa Nam Việt Nam vào
thế thuần phục Hồ Chí Minh trong một nước Việt Nam thống nhất
và liên bang. Ý kiến của ông Nhu, cùng với thành tựu vô cùng
kém cỏi của chính phủ Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ thúc đẩy người
ta lật đổ nhanh chóng ông Diệm, người anh của ông, qua một
cuộc đảo chính
quân sự, đúng theo
truyền thống của những nước cộng hòa
tí hon, nặng tính cải lương kịch trường, với chế độ chính trị
bấp bênh. Cả hai ông Diệm và Nhu đều bị đại úy Nhung, một
người tùy tùng thân cận nổi tiếng của "Minh Lớn", hạ sát, sau
khi hai anh em đã chấp nhận đầu hàng. Người ta cho đó là vì
"Súng tiểu liên chẳng may gây ra tai nạn bên trong một chiếc
M-113".
Khi ông Thiệu - người đã cầm đầu cuộc tấn công vào Dinh của
ông Diệm - lúc bấy giờ còn mang cấp bực đại tá, hỏi về cuộc
giết hại thảm thương thì lúc đó "Minh Lớn" cho là một cuộc "tự
tử bất ngờ". Dĩ nhiên là không phải dưới danh nghĩa của hoa
sen nhà Phật mà dưới danh nghĩa của cánh quân sự. Nhờ công
trạng đó, ông Nhung được thăng thiếu tá, và sau đó được biết
là đã thắt cổ tự vận bằng dây giày trận. Dù sao, ông cũng là
cái bung xung tốt để trấn an anh em nhà Kennedy, những người
hết sức bực mình vì cái chết của ông Diệm.
Không giống như biến cố năm 1963, tình hình năm 1975 là một
trường hợp tuyệt vọng cho Nam Việt Nam và không đặt bộ chính
trị Hà Nội trước một sự chọn lựa khó khăn hay
vấn
đề
gì hết. Hoặc là một sự thất trận trá hình của Sài Gòn, hay là
một chiến thắng trọn vẹn, lịch sử và vẻ vang. Lẽ đương nhiên
là Bắc Việt nghiêng về sự chọn lựa thứ nhì.
Sự tiêu tan của chính phủ Sài Gòn và ảo tưởng về "hòa hợp hòa
giải dân tộc" giữa Mặt Trận Giải Phóng và những lực lượng khác
chống đối lại chế độ Sài Gòn lúc nào cũng là chiến lược và mục
tiêu bất biến của bộ chính trị. Ðó là một khái niệm đơn giản
nhưng hữu hiệu, đâm ra lại rất thành công, nhờ tất cả các vai,
ở địa phương lẫn nước ngoài, đều rất thuộc tuồng. Xuyên suốt
bốn năm hòa đàm Ba Lê, lập trường của Hà Nội lúc nào cũng minh
bạch và đơn giản liên quan đến các chính phủ Hoa Kỳ và Sài Gòn
là "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Nay đã đạt được mục
đích - Mỹ đã ra đi và chính phủ Sài Gòn không còn nữa - thì
hai mục tiêu "liên hiệp" và "hòa hợp hòa giải dân tộc" cũng
trở thành lỗi thời. Nhưng, chẳng
tốn hao gì khi để cho mọi người nghĩ rằng "Lực Lượng Thứ Ba"
của Sài Gòn và Mặt Trận Giải Phóng có thể kết hợp lại trong
tinh thần "hòa hợp hòa giải dân tộc".
Thế nên đối với "Minh Lớn", hy vọng như là miếng mồi cho chính
cá nhân đương sự mà thôi, và cho những người nào khác muốn tin
tưởng ờ niềm hy vọng đó, kể cả những ai ở Ba Lê và Hoa Thịnh
Ðốn. Đại sứ của Pháp và Hoa Kỳ thực sự mong muốn đưa "Minh
Lớn" vào chiếc ghế tổng thống càng nhanh càng tốt. Như vậy,
niềm hy vọng to tác của "Minh Lớn" là làm thế nào để cho dân
chúng tin tưởng rằng Sài Gòn có thể được cứu vãn bằng cách
"hòa hợp hòa giải dân tộc", do đó giảm nhẹ được cơn sửng sốt
kinh khủng của một Nam Việt Nam thất trận. Ðặc biệt là nhằm
vào quân lính của Sài Gòn để đạt được mục tiêu thực tiễn là
làm cho họ buông súng. Một sự khôn khéo thượng thặng theo kiểu
Machiavel.
Chế độ tổng thống của "Minh Lớn" còn hy vọng gì nữa đây? Phải
chăng họ hy vọng rằng với một sự can thiệp nào đó của quốc tế,
họ có thể kết hợp những phe phái Nam Việt Nam dưới quyền lãnh
đạo của Mặt Trận Giải Phóng và duy trì thực thể Nam Việt Nam
dưới dạng nào đó - dĩ nhiên là không có chính phủ Sài Gòn cũ
- nhằm xoa dịu miền Bắc Việt Nam thân Liên Xô? Ý niệm đó còn
khó chấp nhận hơn hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng nghe vĩ đại
và cao thượng. Mặt Trận Giải Phóng sẽ gồm toàn là người Nam
Việt Nam để làm đối trọng lại Mạc Tư Khoa. Nhiều người trong
giới thân cận của "Minh Lớn" quả thật đã tin tưởng ở kế hoạch
hùng tráng đó. Có thể họ cứ giả thuyết là "biết đâu được".
Ngành ngoại giao quốc tế tài ba đôi khi có thể tạo ra những
chuyện thần tình.
Nhiều người chắc còn nhớ là chúng ta đã làm như thế hồi 1971,
và đã để lỡ mất cơ hội. Lẽ ra chúng ta phải "đánh bóng bàn"
khá hơn. Dù sao đi nữa thì Nixon và Kissinger đã cố gắng hết
sức, với kết quả hạn chế nhưng phấn khởi, nhằm đạt được thế
liên minh kỳ lạ đó, một hành động làm cho các ủy viên bộ chính
trị Hà Nội bất bình rất nhiều và thậm chí còn bối rối hơn nữa
vì Mạc Tư Khoa cũng có tham gia. Ðiều làm cho họ không hài
lòng là Trung Quốc và Hoa Kỳ lại từng bước bang giao và hợp
tác hữu hảo với nhau.
 Những
năm 1971 và 1972 là giai đoạn quan trọng trong bang giao quốc
tế, với Kissinger nắm quyền hành ngoại giao. Tháng Bảy 1971,
Kissinger đi Bắc Kinh để chuẩn bị thượng đỉnh Trung-Mỹ. Tháng
Hai 1972, Nixon mở một chuyến viếng thăm Chủ Tịch Mao rất thân
thiết, kết thúc bằng việc ký kết cái gọi là Tuyên Ngôn Thượng
Hải ngày 28 tháng Hai. Một cơ hội để Trung Quốc nhắc nhở Hoa
Kỳ rằng hai quốc gia phải là những người bạn vô cùng thân
thiết, vì kẻ thù số một của Bắc Kinh lúc nào cũng là Mạc Tư
Khoa chớ không phải Hoa Kỳ.
Người ta còn nhớ tín hiệu được phát ra hồi 1953 ở Triều Tiên.
Khi cuộc Cách Mạng Văn Hóa chấm dứt, Trung Quốc còn phải đương
đầu với các cuộc đấu tranh giành quyền lực và bất ổn trầm
trọng, và cần nghỉ lấy hơi. Cho nên, lửa thử vàng gian nan thử
bạn, một người bạn giúp mình trong lúc khó khăn mới thực sự là
người bạn tốt. Richard Nixon hân hạnh ra tay đỡ đầu cho Chủ
Tịch Mao làm thành viên của cái câu lạc bộ lộng lẫy và rất
quyền thế được gọi là Liên Hiệp Quốc. Và nói nhanh mà thực
hiện cũng nhanh.
Tháng
Năm 1972, ba tháng sau khi đi thăm Bắc Kinh, Nixon đi Mạc Tư
Khoa và tạo cho Liên Xô một cơ hội để vượt qua Trung Quốc, với
bản tuyên ngôn chung Hoa Kỳ-Liên Xô cho biết hai siêu cường
đều có thiện chí giảm thiểu căng thẳng và bắt đầu thương
thuyết hữu nghị về những
vấn
đề
liên quan đến nước Ðức, an ninh Châu Âu, và các
vấn
đề
quan trọng khác. Một trong những
vấn
đề
đó là Thỏa Ước Hạn Chế Vũ Khí Chiến Lược (SALT, Strategic Arms
Limitation Treaty), một thỏa ước làm cho nhiều người ngủ yên
giấc hơn, dù cho mọi người vẫn còn tiếp tục sản xuất vũ khí
hạt nhân như điên, với trò chơi phổ biến là tiến hai lùi một.
Quả thật là một thời đại mới trong ngoại giao quốc tế, nhờ có
chính sách "thư giãn" (détente) tuyệt vời của Hoa Kỳ. Một sự
chọn lựa từ Pháp để đặt tên thật đáng tiếc vì nó có hai nghĩa,
hoặc "thư giãn" hay là "cò súng" - ai chọn nghĩa nào tùy ý.
Trong mật đàm tại Ba Lê, Kissinger không quên lợi dụng tình
hữu nghị mới hình thành với Trung Quốc và Liên Xô để cải tiến
uy tín của ông đối với Lê Ðức Thọ của bộ chính trị Hà Nội.
Bức Màn Sắt phần nào đã biến thành bức màn nhôm, trong khi đó
bức Màn Tre của Bắc Việt vẫn cứ dày đặc như bao giờ. Thuyết
"Tam Quốc" của Kissinger trong chính trị thế giới cuối cùng
đâm ra đạt được năng suất, dễ tiến hành và vô cùng hữu hiệu.
Mọi người đều đồng ý là nếu như tất cả các phe đối nghịch ngồi
lại, nói chuyện với nhau và tìm thế thăng bằng trên một chiếc
bàn ba chân thay vì trên cái kệ hai chân thì ít nguy hiểm và
dễ hơn nhiều. Thực ra, Bắc Kinh đã có kinh nghiệm với ý niệm
"Tam Quốc" này trên ba nghìn năm trước đây và đã đưa ra sử
dụng trở lại năm 1953, qua một ấn bản hiện đại hóa, với vỹ
tuyến 38 ở Triều Tiên. Bắc Kinh chỉ muốn Hoa Kỳ hiện diện bên
cạnh họ để phòng hờ trường hợp Liên Xô tấn công.
Ðã bao năm qua, Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đã tập trung khoảng
một triệu quân dọc theo biên giới chung của hai nước. Lúc nào
cũng thế, phải mất một thời gian lâu dài Hoa Kỳ mới biết được
khả năng của những người ở Bắc Kinh. Thuyết "Tam Quốc" đâm ra
khá hữu hiệu từ những năm 1950 (cũng nhờ có những nhà vật lý
học hạt nhân người Mỹ gốc Tàu vì nhớ nhà nên trở về giúp Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc làm bom). Thuyết đó bây giờ hơi lỗi
thời, nhưng biết đâu được. Như người Pháp hay nói, "càng nhiều
thay đổi, càng y như cũ" (Plus çà change, plus c'est la même
chose), nhắc nhở chúng ta rằng sự vật càng thay đổi thì càng
giữ nguyên trạng.
* * *
 Trở
lại mùa xuân 1975 và hy vọng của "Lực Lượng Thứ Ba" ở Sài Gòn.
Họ hy vọng rằng có thể tự cho mình đã có một thành tích chống
đối lại chế độ Sài Gòn, hy vọng rằng có thể làm cho người anh
em thù nghịch thấy rằng "Lực Lượng Thứ Ba" chưa bao giờ chống
cộng và sẽ vui sướng sinh sống mãi mãi sau này với Mặt Trận
Giải Phóng và Hà Nội. Hòa hợp hòa giải dân tộc sẽ gỡ được thể
diện và trong nước lẫn ngoại quốc đều có thể chấp nhận. Thế
là,
vấn
đề
đời sống xã hội đã xong. "Không theo ta là kẻ thù của ta".
Giờ thì không còn thì giờ, chẳng cần gì nữa hết, ngoại trừ sự
kiện rõ rành rành, không thể chối cãi được là những đoàn xe
tăng xả hết tốc lực chạy xuống phía Nam, một vài chiếc đã đến
cửa ngỏ của Sài Gòn. Xe tăng đó sẽ vào thành phố trong khi
người ta chưa kịp thấu hiểu một cách đúng đắn mấy chữ "hòa hợp
hòa giải dân tộc". Giờ của sự thật và của lịch sử đã điểm -
chỉ có Lực Lượng Thứ Nhất đang tiến lên mà thôi. Không cần đến
Lực Lượng Thứ Hai, Thứ Ba hay bất kỳ lực lượng nào khác nữa.
Số phận lúc nào cũng được quyết định trên chiến trường, chớ
không khi nào ở bàn hội nghị. Thương thuyết và thỏa hiệp chỉ
nói lên thực tế và chỉ được sử dụng để ký kết đầu hàng hay
chiến thắng. Ngoài ra, cũng chỉ là những lời trình bày thiện ý
khơi khơi. Thương thuyết liên hệ đến những sự kiện đích thực,
không phải đến những điều hy vọng. Thỏa hiệp quốc tế chỉ có
giá trị khi nào nó phù hợp với thực tế, có nghĩa là phù hợp
với cán cân lực lượng hay tương quan lực lượng. Buồn thay,
Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973 đầy ấp những thiện ý và hy vọng thay vì
sự kiện.
Hòa hợp hòa giải dân tộc và quyền tự quyết có thể là điều gì
đó trên cõi đời này, và đã được ghi vào Hiệp Ðịnh Ba Lê. Không
một ai có thể bác bỏ giá trị của nguyên tắc căn bản về tình
anh em, về tự do và về dân chủ. Khi chẳng còn có thể nói gì
được nữa, ai cũng có thể tuyên bố, "Tôi yêu thương bạn rất
nhiều và lúc nào cũng tôn trọng ý muốn của bạn như bạn tôn
trọng ý muốn của tôi".
Ở
hội nghị La Celle Saint Cloud giữa hai bên miền Nam Việt Nam,
hòa hợp hòa giải dân tộc và quyền tự quyết là mối quan tâm
chính của tôi trên hai năm trời. Tình anh em, như bất cứ tình
yêu nào, khó mà giãi bày qua ngôn ngữ cụ thể và qua hành động.
Ý nghĩa của hòa hợp hòa giải dân tộc và quyền tự quyết có thể
trải rộng từ sự đại diện theo tỷ lệ trong ngành lập pháp đến
việc phân chia quyền hành trong ngành hành pháp của một chính
phủ liên hiệp. Như vậy phải mất nhiều năm các chính đảng mới
thực hiện được các cuộc bầu cử tự do và dân chủ. Hy vọng về
hòa hợp hòa giải dân tộc và quyền tự quyết không mấy sáng sủa,
nhưng lại là những đề tài hấp dẫn, thảo luận mãi không thôi.
Khi xe tăng Bắc Việt đến vùng ngoại ô Sài Gòn, người ta có thể
hy vọng là ít ra sẽ có một lễ đầu hàng trang trọng, với bút để
ký tên, với những bảo đảm và giám sát quốc tế và sự hiện diện
của đại diện siêu cường. Có người có thể cũng hy vọng được coi
như tù binh chiến tranh theo quy chế Thỏa Ước Genève. Tuy
nhiên, hy vọng đó thực ra có vẻ khó thành hiện thực. Ðáng lý
ra điều đó phải được đặt dưới sự bảo hộ của Ân Xá Quốc Tế và
Ủy Ban Quốc Tế Hồng Thập Tự, thay vì giữa người Việt với nhau.
Chúng tôi đã là những người "phản bội Tổ Quốc" trên một trăm
năm dưới chế độ thực dân Pháp và trước đó nữa, "bù nhìn" của
xâm lược Tàu trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất. Phía bên kia
cứ lập đi lập lại nhiều lần với chúng tôi như thế. Cho nên,
bất cứ hy vọng nào để được coi là tù binh chiến tranh dưới
Thỏa Ước Genève đều trở nên lố bịch. Chúng tôi tha hồ muốn tự
cho mình là gì cũng được - chiến sĩ đấu tranh cho tự do, người
bảo vệ dân chủ, nhân công của nền kinh tế thần diệu, giới ưu
tú của nhân loại - nhưng không được tự cho là tù binh chiến
tranh. Chúng tôi chỉ là những người "phản bội Tổ Quốc". Hy
vọng duy nhất còn lại cho nhân dân và đất nước chúng tôi là
đoàn kết lại như là một gia đình. Có thể hy vọng đầu hàng như
anh em, như họ hàng, như chú bác, nhưng đòi được quy chế quốc
tế về tù binh chiến tranh giữa thân thuộc với nhau là khôi hài
và buồn cười đối với cả hai bên.
Dĩ
nhiên, ít ra cũng hy vọng có được điều "mong ước sau cùng",
nếu muốn - đó là hy vọng khỏi bị hành quyết. Bất hạnh thay,
đây là
vấn
đề
giữa mỗi người và lương tâm của mình. Ở đây chẳng ai giúp đỡ
được chúng ta. Không ai lại đem hàng triệu tên "bù nhìn" đi
hành quyết, nhưng mỗi ngày đều có người bị đem hành quyết trên
khắp thế giới. Hy vọng nhỏ nhoi mà lại nhiều đau khổ. Danh
sách có thể kéo dài vô tận. Ai ai cũng có thể hy vọng một điều
gì đó, tốt hoặc xấu, vô lý hay có lý, cho chính mình hoặc cho
người khác, hay cho mọi người. Muốn cho hy vọng xuất hiện và
có giá trị, "Minh Lớn" phải làm cho niềm "hy vọng để mà hy
vọng" của ông mang một mục đích, có ý nghĩa, hợp lý và có tính
thực tế, hay thậm chí có vẻ là như thế. Một trường hợp khó xử
cho ông. Ông tự ép buộc mình phải hy vọng mà thiếu những yếu
tố đó.
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một thảm kịch cho nhiều người
dưới nhiều hình thức, nhưng đó cũng là một cuộc chiến lạ lùng.
Loại chiến tranh đó, nhân dân Mỹ và các tổng thống của họ mới
gặp lần đầu. Trong sách vở của West Point hay Wall Street
không có một điều gì để giúp cho Lyndon B. Johnson biết rằng
ông phải đương đầu với loại an ninh nào của Hoa Kỳ. LBJ thực
tình nghĩ rằng ông hành động vì quyền lợi của nhân dân Mỹ và
công việc cụ thể của ông ở Nam Việt Nam là chặn đứng sự bành
trướng của cộng sản quốc tế, mà những tay chuyên viên của ông
coi như là đồng nghĩa với chiến tranh du kích. LBJ phải mất
nhiều thời gian và tiền bạc mới hiểu ra là không đơn giản như
thế đâu. Nếu như quan niệm của LBJ không lồng trong một Ðại Xã
Hội (Great Society) rất giàu có và hùng mạnh về quân sự thì có
thể đã mất ít thời gian hơn và ít tốn tiền của người nộp thuế
hơn mới rút tỉa được kinh nghiệm.
Vâng, Hoa Thịnh Ðốn coi chiến tranh như là một cuộc chiến đấu
chống lại sự bành trướng của cộng sản quốc tế, nhưng các bộ óc
thông minh nhất trong Văn Phòng Hình Bầu Dục không biết đến
một nhân tố căn bản và có tính quyết định nhất. Là sự lây lan
của cộng sản được pha trộn một cách khéo léo cùng với đà vùng
lên dữ dội của chủ nghĩa quốc gia trong bối cảnh giải thể chủ
nghĩa thực dân trên khắp thế giới, đòi hỏi chấm dứt sự có mặt,
sự thống trị và sự đô hộ của ngoại bang và đòi phục hồi độc
lập và chủ quyền. Những điều này không có liên hệ gì với súng
ống cả. Cuộc đấu tranh giành độc lập của "Bác Hồ" không có lý
lẽ gì để tồn tại nếu không được cộng sản quốc tế ủng hộ chống
lại Ba Lê trước kia và sau này chống lại Hoa Thịnh Ðốn. Hồ Chí
Minh chẳng còn cách nào chọn lựa khác hơn là đặt cộng sản quốc
tế ngang hàng với chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam. Tổng Thống
Eisenhower đã thấy rõ điều đó nên đã khuyến cáo đồng minh Ba
Lê của mình là nên bỏ kiểu chiến tranh thuộc địa lỗi thời ở
Ðông Dương đi và thay thế bằng một chiến tranh chống cộng sản
quốc tế, vì tự do và dân chủ. Nói thì dễ nhưng khó làm.
Ba Lê hoàn toàn khánh tận và đuối sức. Làm thế nào người ta có
thể đòi hỏi một tên thực dân có vẻ xấu xa trước kia bỗng dưng
trở thành một chàng hiệp sĩ rạng rỡ, chễm chệ trên lưng một
con ngựa trắng được? Thế nên, sau này có vẻ hơi bất công khi
Richard Nixon than phiền rằng Chiến Tranh Việt Nam là con đẻ
của John F. Kennedy và Ðảng Dân Chủ phải có trách nhiệm cứu
vãn danh dự của Hoa Kỳ. Richard Nixon đã cố gắng và có phần
nào thành công trong việc cố gắng hết sức mình để cứu vãn danh
dự Mỹ cho đến giây phút cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống.
* * *

Thực
tế mà nói thì với tất cả sự giúp đỡ của Tổng Thống Eisenhower,
phải nhìn nhận rằng Tổng Thống Diệm mở màn toàn bộ công trình
với một thế bất lợi trầm trọng là chủ nghĩa quốc gia Việt Nam
bị cho là ngang hàng với sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Nam Việt
Nam và Nam Việt Nam trở thành Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do. Một
nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nếu không phải là bất khả thi, so
với nhiệm vụ của "Bác Hồ". Một nhiệm vụ dễ dàng hơn nhiều nếu
phải giải thích cho những người tầm thường ngoài đường phố Sài
Gòn và dân nghèo ở nông thôn Việt Nam biết thế nào là một
"người yêu nước", với bổn phận thiêng liêng phải chống lại bất
kỳ sự thống trị nào của ngoại bang và sự hiện diện của họ trên
lãnh thổ quốc gia. Thật là quá dễ đối với "Bác Hồ" khi gắn
liền việc phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa
cộng sản và truyền bá đường lối Mác-Lê cho đó là phương cách
tốt nhất để chống lại người giàu có và thế lực, để bảo vệ lợi
ích chính đáng của người nghèo khổ và bị áp bức. Ông có thể
suy luận một cách đơn giản để chứng minh rằng Cộng Sản Việt
Nam là hiện thân của người Việt Nam yêu nước chân chính và của
người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc đích thực. Làm sao có
thể thuyết phục để cho thiên hạ chấp nhận rằng người giàu có,
sung túc lại đi bảo vệ lợi ích của kẻ nghèo được? Ðòi hỏi
người nghèo khó khốn khổ đấu tranh cho nếp sống của bọn nhà
giàu thì cũng là chuyện khôi hài.
Cũng
như nhiều người ở Nam Việt Nam, tôi thấy bối rối vì những khía
cạnh khác của cuộc xung đột. Ðó là tính khủng khiếp và tính
hung bạo mù quáng của nó. Một khi sấm sét của chiến tranh đã
giáng xuống, bên này bắt đầu đổ trách nhiệm cho bên kia mở đầu
cuộc chiến đẫm máu. Dứt khoát là trong đầu của nhiều người
khác cũng lẫn lộn và khó xử như thế, theo nhận xét của tôi lúc
bấy giờ. Một cuộc chiến tranh dữ dội và đẫm máu đang diễn ra.
Ai cũng muốn thấy chiến tranh chấm dứt càng nhanh càng tốt,
nhưng không ai biết làm cách nào để kết thúc. Giống như mọi
người khác, tôi rất mong muốn sự tàn bạo, chết chóc và tàn phá
kia sớm chấm dứt. Nhưng bằng cách nào đây? Bằng cách nào? LBJ
có thể đã tự đặt cho ông câu hỏi như thế hàng triệu lần, không
biết phải làm gì với quân lính của ông ở Nam Việt Nam, ngoại
trừ tiếp tục tiến trình leo thang.
Lúc bấy giờ là mùa xuân năm 1975, tôi không làm sao quên được
cuộc thảo luận thẳng thắn, vào một buổi tối năm 1968, về cuộc
chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Hồi đó ở Sài Gòn, trong một bữa
ăn tối tại tư gia của ông Soo Young Lee, đại sứ Nam Triều
Tiên, về sau làm đại sứ của Cộng Hòa Triều Tiên tại Ba Lê. Ông
và tôi đang nói chuyện phiếm với Tướng William C.
Westmoreland, lúc bấy giờ là tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở Nam
Việt Nam. Tôi nhắc lại lời Tổng Thống Park của Triều Tiên đã
nói cùng chúng tôi tại Thượng Ðỉnh Manila năm 1966:"Khi đi
đánh giặc thì phải thắng chớ không phải để thua".
Thế là Ðại Sứ Lee, một cựu tướng lãnh không quân, nói đùa,
"Ðúng rồi, cũng giống như đá bóng chỉ ở trên nửa sân phía bên
mình!", thì làm sao mà thắng được.
Tướng Westmoreland không bình luận gì về nhận xét của chúng
tôi nhưng chỉ nhoẻn miệng cười, một trong những cái cười phóng
khoáng và giòn tan trứ danh của ông. Nếu tôi không lầm thì bữa
ăn là để tiễn Westy (tên gọi thâm mật của Westmoreland).
Cho nên, trong chiến lược "không-thắng, chẳng-thua", Hoa Kỳ đã
có lần ném bom đến tận vỹ tuyến thứ hai mươi, cài mìn Cảng Hải
Phòng và không kích Hà Nội mười hai ngày đêm vào dịp Giáng
Sinh 1972. Như vậy để được gì? Phá vỡ các tuyến tiếp tế chăng?
Ðe dọa leo thang chăng? Một tác động tâm lý đối với địch à?
Trên nguyên tắc, có phải là một phản ứng từng bước, hạn chế,
cân xứng trong thế tự vệ chống lại xâm lược không?
* * *
Một tuần lễ sau trận ném bom xao động dư luận nhân dịp Giáng
Sinh 1972 đánh xuống Hà Nội, Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ
thương thuyết trở lại ở Ba Lê. Lúc đó, Tổng Thống Nixon tuyên
bố rằng đó là "một cuộc đầu hàng kỳ lạ của địch đối với những
điều kiện của chúng ta". Thế thì, Hoa Kỳ ném bom Hà Nội là để
tác động tâm lý, không phải Cộng Sản Bắc Việt, mà là dành cho
Quốc Hội và nhân dân Mỹ. Như thế có phải là mục đích mâu thuẩn
lại thực tế, và hy vọng tùy theo mục đích không? Nếu không
phải ngay trong lúc đó thì khi nhìn lại người ta thấy rằng
không phải hy vọng chiến thắng mà hy vọng đừng thua, hay đúng
hơn là hy vọng thoát khỏi tình trạng hỗn độn kinh khủng trong
vinh dự bằng mọi giá. Trời Ðất lại đảo ngược nữa rồi!
 Tất
cả chúng ta có thể biết ơn Tổng Thống Richard Nixon, Cố Vấn An
Ninh Quốc Gia Henry Kissinger và Ðô Ðốc Thomas H. Moorer, Chủ
Tịch Tham Mưu Trưởng Liên Quân, qua việc thu ngắn chiến tranh
Mỹ ở Việt Nam một cách đáng kể với trận ném bom nhân dịp lễ
Giáng Sinh 1972 xuống Hà Nội. Cuộc chiến tranh dài nhất (dù
cho không công bố) trong lịch sử Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ nên
đổi tên thành "Chiến Tranh duy nhất của Mỹ ở Việt Nam". Như
thế may ra có thể làm cho dân chúng quên đi một cách nhanh
chóng hơn giai đoạn buồn phiền và khủng khiếp trong lịch sử
Hoa Kỳ.
* * *
Dĩ nhiên là hồi mùa xuân năm 1975, người ta không thể tin
rằng, với bộ máy chiến tranh ghê gớm, chính phủ Mỹ, một đồng
minh của chế độ Sài Gòn, một quốc gia lãnh đạo thế giới tự do,
lại có thể để cho quân cộng sản của Bắc Việt tiến đến cửa ngỏ
Sài Gòn. Ngay khi mọi người thấy rằng Hoa Kỳ đã đưa lực lượng
của họ ra khỏi Việt Nam thì dường như lý do tồn tại của chính
phủ Sài Gòn cũng tan biến. Thì ra là như thế. Vì tình hình
thực tế, vì không thể trông thấy một kết quả đáng giá, vì
không có một lý lẽ hay mục đích nào để tiếp tục chém giết nhau
nữa, nên không còn cách gì để cho Nam Việt Nam hy vọng được
nữa, như họ đã được người lãnh đạo Thế Giới Tự Do dạy bảo cho
trong hai thập niên qua. Ðã có một Nam Việt Nam với Hoa Kỳ.
Không có Hoa Kỳ thì không còn Nam Việt Nam nữa. Nhưng, có phải
thực sự người ta đã đánh mất mục đích ở Hoa Thịnh Ðốn không?
Trong vòng hai thập niên, chính sách Mỹ về chiến tranh Việt
Nam có mục đích đầy đủ ý nghĩa. Thế nhưng, mục đích đầy đủ ý
nghĩa đó đã bị bỏ rơi vì đã trở thành hết sức vô lý, phi lý,
bất hợp lý và vô ý nghĩa do chỗ chi tiêu một cách điên rồ, do
tàn phá khủng khiếp, do con số tử thương không thể tưởng tượng
và đau khổ không kể xiết mà mọi bên phải gánh chịu trong chiến
dịch của Mỹ để mưu tìm tự do và dân chủ ở Việt Nam. Thật ra và
cuối cùng, chính nhân dân Mỹ, chứ không phải năm tổng thống
Hoa Kỳ có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam, đã chịu trách
nhiệm về vụ đánh mất mục đích có ý nghĩa.
Còn đối với các nhà lãnh đạo và chính khách của Sài Gòn thì
khả năng hy vọng của con người đã bị giảm xuống còn có thành
tố tương phản cơ bản là hy vọng sống còn hay đương đầu với
định mệnh, dù cho phải hy vọng khơi khơi. Trong trường hợp này
thì chẳng có bao nhiêu là hy vọng. Hy vọng phải cao hơn sự
thôi thúc để sống còn một cách tự nhiên và theo bản năng. Sống
còn là có ý nghĩa, nhưng chỉ một mình ý niệm sống còn không
thôi không thể là một mục đích có ý nghĩa để hy vọng. Mặt
khác, "hy vọng khơi khơi" chẳng đem lại ý nghĩa hay mục đích
gì để hy vọng một điều gì đó, mà chỉ làm cho người ta "hy vọng
để mà hy vọng", một cách mơ hồ, không có chút gì hợp lý. Muốn
hy vọng cần phải có lý do. Hoa Thịnh Ðốn đã cho Sài Gòn có lý
do để hy vọng trong hai mươi năm, nhưng không thể làm cho nhân
dân Mỹ có một lý do nào để duy trì tự do dân chủ ở Nam Việt
Nam nữa, khi người Mỹ chịu thuế phải trả một cái giá quá cao
về tiền bạc và nhân mạng. Giống như mọi chuyện ở đời, lý tưởng
tự do dân chủ cũng có cái giá của nó. Và hy vọng cũng phải có
cái giá của nó về mặt lý do.
*
* *
(Kỳ tới: Hòa đàm Ba Lê) |