.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

  Xem toàn Thư mục Phan Quân

Hope and Vanquished Reality - Nguyễn Xuân Phong

8. Thượng đỉnh Manila            
7. "Nội các chiến tranh" và tôi
6. "Du học" miền Bắc               
5. Học với Tập                           

4. Hòa đàm Ba lê                      
3. "Mỹ cút, Nguỵ nhào"              
2. Bốn Mươi Tám Giờ               

1. Một thành phố tan hàng       

8. Thượng đỉnh Manila 1966

  • 30.12.2007

Trước khi vào chuyện.- Sau khi làm Ủy Viên Lao Ðộng khoảng một năm, ông Phong được bổ nhiệm vào chức vụ Ủy Viên, Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tương đương với b trưng phủ thủ tưng.

 

*  *  *

 

Đôi lời về Thượng Đỉnh Manila.- Đáp ứng lời mời của Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand E. Marcos – sau khi đã hội ý với những nước liên hệ - nguyên thủ của bảy quốc gia Châu Á Thái Bình Dương đã đồng ý họp thượng đỉnh tại Manila vào hai ngày 24 và 25 tháng Mười năm 1966, để thẩm định về cuộc chiến ở Nam Việt Nam và duyệt xét lại những ý định của họ trong vùng Châu Á Thái Bình Dương. Thành phần tham dự gồm có:

 

1.- Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand E. Marcos;

2.- Tổng thống Đại Hàn, Park Chung Hee;

3.- Tổng thống Hoa Kỳ, Lyndon B. Johnson;

4.- Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo VNCH, Nguyễn Văn Thiệu;

5.- Thủ tướng Úc Châu, Harold Holt;

6.- Thủ tướng Tân Tây Lan, Keith Holyoake;

7.- Thủ tướng Thái Lan, Thanom Kittikachorn;

8.- Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương VNCH, Nguyễn Cao Kỳ.

 

Tất cả các quốc gia trên đây đều có quân tham chiến tại Việt Nam.

 

*  *  *

 

Khi được bổ nhiệm vào chức vụ Ủy Viên Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương hồi năm 1966, tôi mới bắt đầu hiểu được những gì đang diễn ra trong chính phủ Sài Gòn. Một lần nữa, tôi lại may mắn gặp được một vị công chức khác, cũng do Tây đào tạo, ông Trần Ngọc Giàu, một người bạn cũ khác của ba tôi, coi tôi như con cháu.

 

Nhiệm vụ mới của tôi cũng đơn giản là theo dõi văn thư đến và đi, để phối hợp các bộ trong chính phủ và chuẩn bị tài liệu cùng với những yếu tố để quyết định, trình lên thủ tướng, có kèm bản tóm lược vn đề và ý kiến đề nghị. Tôi cũng được giao phó công tác điều phối chương trình tiếp khách của thủ tướng, tổ chức các phiên họp liên bộ, tiếp những khách ngoại quốc nào mà không ai chịu tiếp và tham dự những sinh hoạt xã hội vô thưởng vô phạt.

 

Tôi chẳng có gì nhiều để làm nên tôi có thì giờ để suy ngẫm thêm đôi chút về diễn biến của cuộc chiến và những bí ẩn giữa Hoa Thịnh Ðốn Sài Gòn. Ðồng thời cũng là một thời kỳ mà tôi bắt đầu khám phá ra cái thế giới tương phản giữa huyền thoại và thực tế, hiểu được cái ý niệm chủ quan và khách quan, được coi như là đã tạo nên những sự kiện thực tế của cuộc sống, nhưng phần lớn chỉ là sản phẩm xuất phát từ óc tưởng tượng của con người. Tôi bắt đầu nghĩ đến chiều hướng biến thiên của lịch sử đang bao trùm lấy tôi, và nói theo cách nói của người Anh quốc, như một câu chuyện huyền thoại về hai thành phố, cụ thể là của Sài Gòn Hoa Thịnh Ðốn.

 

Trong thời kỳ làm Ủy Viên Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, việc đáng kể nhất mà tôi có dự phần là công vụ đi Manila vào cuối tháng Mười 1966. Tôi thuộc thành phần của phái đoàn tiền phong, có nhiệm vụ hoàn thành việc chuẩn bị thượng đỉnh bảy quốc gia bàn về Việt Nam, do Ferdinand Marcos, Tổng Thống Phi Luật Tân, chủ trì và khách mời danh dự là Tổng Thống Lyndon Baines Johnson (LBJ) của Hoa Kỳ. Ðó là một thượng đỉnh mang tính lịch sử của những niềm hy vọng chưa từng có bao giờ. Ðó là thời điểm leo thang quân sự, nhưng cũng là lúc mở màn cho chính sách giải kết của Hoa Kỳ để ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Tổng Thống Johnson điều chỉnh kịch bản cho phù hợp với tinh thần của chương trình "củ cà rốt và cây gậy", qua lời lẽ như: "Xâm lược không được thắng, nhưng hãy ngưng đánh nhau để tạo dựng một chương trình tái thiết vĩ đại cho cả Bắc lẫn Nam Việt Nam, do viện trợ Hoa Kỳ đài thọ". Ngay từ năm 1965, qua lời tuyên bố ở Baltimore ngày 7 tháng Tư, LBJ đã đưa ra "củ cà rốt" nhằm viện trợ một tỷ Mỹ kim cho các nước Ðông Nam Á, kể cả Bắc Việt. Ông cũng không quên cho biết là muốn thương thuyết vô điều kiện với Hà Nội để chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tại thượng đỉnh Manila, ông nói rõ hơn bằng cách đề nghị rút toàn bộ quân lính Hoa Kỳ ra khỏi Nam Việt Nam trong vòng sáu tháng, ngay khi Hà Nội chấm dứt xâm lược vũ trang chống lại chính phủ Sài Gòn. Dĩ nhiên là "Bác Hồ" hoàn toàn không làm sao giải thích được một giải pháp như thế cho nhân dân miền Bắc và nhân dân thế giới. "Bác Hồ" khó chấp nhận lý lẽ đơn giản của LBJ là để cho Mỹ rút quân lính về mà không cần phải đánh họ. Trái lại, lập luận đó phải đợi đến Tổng Thống Nixon mới thực thi được, để bắt đầu đưa quân lính về hồi năm 1969, thế nhưng "Bác Hồ" cũng không ngưng chiến tranh. Tổng Thống Johnson không còn có cách nào khác hơn là theo đuổi chương trình "súng và bơ" mãi cho đến cuối nhiệm kỳ của ông hồi tháng Giêng 1969. Ông cũng được an ủi là có hy vọng đem lại điều tốt cho mọi người - người Việt Nam và người Mỹ - và làm cho toàn thế giới được văn minh và tiến bộ hơn.

 

Ngay từ đầu thập niên 1960, với tư cách là phó tổng thống, LBJ đã hăng say chủ trương thực hiện một chương trình phát triển đại quy mô vùng châu thổ sông Cửu Long của Nam Việt Nam. Rủi thay, niềm hăng say nồng nhiệt và "củ cà rốt" vĩ đại đó đã bị bỏ dở. Nếu như LBJ đã có khả năng thực hiện chương trình đó thì phần số và định mệnh của cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ có thể hoàn toàn khác hẳn.

 

  *  *  * 

 

Nhiệm vụ viết bài diễn văn cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, cuối cùng lại lọt vào tay tôi. Một công việc cấp bách mà lại giao cho tôi chỉ có vài giờ trước khi lễ khai mạc bắt đầu. Vào khoảng hai giờ sáng, tôi thấy ông Thiệu vẫn còn đang chuẩn bị bài diễn văn tại phòng của ông ở khách sạn Manila, nơi tạm trú của các phái đoàn. Sở dĩ tôi đến gặp ông Thiệu vào lúc đó là vì tôi có nhiệm vụ phải báo cáo cho ông về việc làm của phái đoàn tiền phong tại thượng đỉnh. Thế là, ông yêu cầu tôi xem qua bài diễn văn, mà tôi chưa được đọc. Bài diễn văn này đã được các phụ tá của ông soạn thảo, dưới hình thức của một bài phát biểu rất kêu, nói lên quyết tâm bất biến của Sài Gòn là tiếp tục chiến đấu. Một bài diễn văn hoàn toàn lạc đề đối với một thượng đỉnh cho ước vọng hòa bình và tôi thưa thẳng với ông như thế. Ông Thiệu rất khó chịu với nhận xét của tôi. Ông nổi giận ném bản thảo cho tôi rồi bảo tôi sửa lại. Tôi nhanh chóng thảo bài diễn văn khác, chỉ đọc trong khoảng mười phút thay vì ba mươi của bài cũ.

 

Vào năm giờ sáng, Ðại Sứ của Sài Gòn tại Manila, ông Phạm Ðăng Lâm, bị dựng dậy để nhận lãnh nhiệm vụ khó khăn là phải làm sao đưa in bài diễn văn mới cho kịp giờ. Philip Habib hay tin có bài diễn văn mới nên rất muốn có một bản. Mỹ mà không biết trước được những gì người cầm đầu của Việt Nam Cộng Hòa sắp tuyên bố công khai trước thượng đỉnh là điều tuyệt đối không thể chấp nhận. Ông Thiệu và mọi người khác, kể cả Philip Habib, chỉ đọc được bài diễn văn mới vào lúc tám giờ sáng, một giờ trước khi Tổng Thống Marcos tuyên bố khai mạc thượng đỉnh và nhường bục đọc diễn văn lại cho ông Thiệu. Bài diễn văn của ông Thiệu mở đầu bằng câu "Chúng tôi muốn có hòa bình". Câu này đã làm cho toàn thể cử tọa của phiên họp quốc tế lập tức đứng lên vỗ tay tán thưởng ông Thiệu khá lâu. Không biết thiên hạ có hiểu một cách chính xác ông Thiệu muốn nói gì qua câu nói đó hay không, nhưng mọi người đều hài lòng. LBJ có vẻ hoan hỉ hơn ai hết với câu tuyên bố rất mong đợi đó. Nhưng, cá nhân tôi thật tình mong muốn như thế khi thảo ra câu đó và hết sức ước muốn chiến tranh chấm dứt.

 

Trong khi ông Thiệu tìm mọi cách chứng minh rằng chế độ Sài Gòn có khả năng đứng vững, cả về quân sự lẫn chính trị, thì dứt khoát Hoa Kỳ đã không còn kiên nhẫn và cuối cùng đã quyết định tìm phương thức để kết thúc chiến tranh một cách nhanh chóng. Chiến lược của LBJ là chọn phương thức đưa quân bộ chiến Hoa Kỳ can thiệp ồ ạt ở Nam Việt Nam. Nhưng, ông vẫn chưa hiểu loại chiến tranh mà ông phải đương đầu. Hàng trăm nghìn lính Mỹ đã được đưa vào Nam Việt Nam, nhưng tình hình cứ trở nên tồi tệ hơn. Thế giới gần như mệt mỏi với chuyện đánh nhau nên đã chuyển hy vọng từ chiến trường sang bàn hội nghị. Người ta hy vọng với một mục đích chung là giải pháp hòa bình, nhưng lại là một niềm hy vọng thiếu mất ý nghĩa và lý do để cho các phe liên hệ có thể chấp nhận. Ai cũng hy vọng có hòa bình, nhưng không một người nào biết cách để đạt được. LBJ khuyến cáo chúng tôi đừng làm cho Thượng Ðỉnh Manila biến thành một phiên hội họp để bàn về chiến tranh và nhấn mạnh rằng nên coi ông như là một thành viên bé nhỏ nhất trong cuộc họp cấp cao của bảy nước, có thể nói là người cuối cùng trong "bảy hiệp sĩ Samurai".

 

Rõ ràng là LBJ hy vọng sao cho thế giới - và một lần nữa Hà Nội - biết rằng ông muốn có một giải pháp thương thuyết cho cuộc xung đột dễ sợ đó. Hồi 1965, Tổng Thống Johnson đã tìm cách thuyết phục Hà Nội hội đàm, nhưng thực ra ông nghĩ rằng Hồ Chí Minh không muốn điều gì khác hơn là một sự chiến bại của Mỹ ở Việt Nam. Hồ Chí Minh và bộ chính trị sẵn sàng tìm phương thức theo đường lối bí mật riêng của họ để mở hướng hội đàm riêng rẽ với Hoa Thịnh Ðốn, nhưng cũng quả quyết tin rằng LBJ chẳng khi nào chấp nhận một giải pháp, theo đó chế độ chính trị Sài Gòn sẽ không còn được Mỹ hậu thuẫn qua sự hiện diện của quân lính Mỹ và việc can thiệp quân sự. Một cuộc đối thoại giữa những người điếc.

 

Ở Thượng Ðỉnh Manila, hai ông Thiệu và Kỳ có rất nhiều hy vọng củng cố địa vị cá nhân và thuyết phục cho các quốc gia đồng minh thấy rằng Nam Việt Nam vẫn còn vững vàng để đóng vai trò Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do ở miền Viễn Ðông, và vẫn còn xứng đáng để cho Hoa Kỳ chiến đấu và chi viện, hầu bảo vệ thanh thế và làm cho thiên hạ tin tưởng. Thì chẳng phải chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, trên căn bản, coi số phận của cả Ðông Nam Á tùy thuộc vào sự sống còn của một Nam Việt Nam chống cộng đó sao? Cảm tưởng chung của các quốc gia gọi là đồng minh vẫn tiếp tục hy vọng một cách mơ hồ rằng Hoa Kỳ có thể chấm dứt can thiệp ồ ạt bằng quân sự mà chế độ Sài Gòn vẫn cứ tồn tại như thế nào đó. Thế thì, thực sự liệu có hy vọng gì cho một giải pháp thương lượng hay không?

 

*  *  *

 

Tôi cầm đầu phái đoàn Việt Nam để, cùng với Mỹ, soạn thảo bản thông cáo chung. William Bundy cầm đầu phái đoàn Mỹ, gồm có nhiều nhân vật liên hệ đến Việt Nam trước kia. Trong ủy ban soạn thảo còn có phái đoàn của các quốc gia có quân ở Nam Việt Nam, như Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên và Thái Lan. Phiên họp làm việc diễn ra tại dinh tổng thống, Ðiện Malacañang, dưới quyền chủ tọa của Thứ Trưởng Ngoại Giao Phi Luật Tân, ông Ingles. Chúng tôi bắt đầu làm việc vào khoảng sáu giờ chiều, và đến mười một giờ đêm, chúng tôi mất đi nửa tiếng vì cuộc tranh luận hăng say của hai phái đoàn Mỹ và Nam Triều Tiên. Thật là bối rối vì bạn bè chúng tôi lại tranh chấp nhau vì quyền lợi của Việt Nam.

 

Cuộc tranh luận xảy ra khi ủy ban soạn thảo đề cập đến vn đề thương thuyết với phía bên kia. Phái đoàn Triều Tiên nhất định là họ và các đồng minh khác của chính phủ Sài Gòn phải có mặt trong bất cứ cuộc hòa đàm nào. Phái đoàn Mỹ lập luận cho rằng chuyện đó phải là một vn đề giữa người Việt Nam với nhau (tất cả chúng tôi có được cảm tưởng là tuy Bundy nói như vậy một cách rất nghiêm túc, nhưng lại không gì thành thật lắm!)

 

Khi thấy có vẻ như cả Mỹ lẫn Triều Tiên đều không chịu nhượng bộ chút nào hết, tôi đề nghị tạm ngưng một lúc để xả hơi. Trong thời gian tạm nghỉ, một nhân viên phái đoàn Triều Tiên đột nhiên yêu cầu tôi đến gặp trưởng phái đoàn của ông. Ông này cấp thời tỏ ý tiếc là đã phải tranh luận gay cấn với phái đoàn Mỹ. Ông ta cho biết đã nhận chỉ thị nghiêm ngặt của tổng thống Triều Tiên liên quan đến điểm đã tranh luận, vì họ đã trải qua một trường hợp tương tự với Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Ông cảnh giác là nếu như hòa đàm có xảy ra, Sài Gòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng với phía bên kia, rồi Sài Gòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết, rồi cuối cùng chỉ phải chấp nhận và tuân hành. Dĩ nhiên, tôi chân tình cám ơn ông đã có lời khuyên và nói rằng ai cũng biết "Người Anh Cả" của chúng ta nổi tiếng là có thói quen cứ làm theo ý mình. Chúng tôi biết ơn những người bạn Triều Tiên đã can thiệp hộ chúng tôi về yếu tố then chốt đó, nhưng chúng tôi cũng có bổn phận phải làm mọi cách để bảo vệ quyền lợi của chính mình và phải hết sức chú ý về việc Hoa Kỳ sẵn sàng làm bất cứ gì cần phải làm để bảo vệ quyền lợi thiết thân của họ.

 

Khi ủy ban họp trở lại, tôi đề nghị đưa vào thông cáo chung một câu nói rõ ràng là, nếu Hà Nội chịu ngồi vào bàn hội nghị, Sài Gòn cũng sẵn sàng tham dự, sau khi tham khảo rộng rãi các đồng minh của mình. Như vậy cũng đủ để đem hy vọng lại cho những người đọc bản thông cáo chung của Thượng Ðỉnh Manila.

 

*  *  *

 

Tổng Thống Johnson có vẻ rất hài lòng với thượng đỉnh. Tôi có nhiều dịp để cùng cười vui với ông trong dạ tiệc Fiesta Barrio do Tổng Thống Marcos khoản đãi, khi kết thúc kỳ họp cấp cao. Ông rất vui vẻ và thân mật. Một lúc sau, tôi được nhân viên phái đoàn Mỹ cho biết riêng là ngày hôm sau, 26 tháng Mười, Tổng Thống Johnson sẽ đi Cam Ranh, nằm ngay phía Nam Ðà Nẳng, để thăm quân lính Hoa Kỳ, mà không công bố trước cho báo chí biết. Họ nói ông không cần có một nhà lãnh đạo nào của Sài Gòn ở đó để đón ông, nhưng sự có mặt của tôi cũng quá đủ để tháp tùng ông. Tôi rất đỗi ngạc nhiên về điều đó và trả lời ngay cho Philip Habib và các đồng sự của ông rằng tôi mà làm thế thì hoàn toàn không phải lẽ, chưa nói đến chuyện là điều đó nhất định sẽ đưa tôi vào hang cọp về mặt chính trị.

 

Bất cứ chính khách nào của Sài Gòn cũng cảm thấy vinh hạnh nếu được một ông tổng thống mời như thế. Nhưng tôi xin từ chối, với lời cám ơn, và nói rõ rằng tôi không thích tiếp nhận món "quà tẩm thuốc độc" đó. Tôi đề nghị với những người Mỹ tiếp xúc với tôi là nên mời Thủ Tướng Nam Việt Nam đón Tổng Thống ở Cam Ranh. Biết được cơ hội này, nhiều phe phái chính trị Nam Việt Nam cố gắng tìm cách để được mời tham gia nghi thức danh dự nghênh đón. Trong khi đó, tôi tìm cách lánh mặt và nương náu cạnh Marcos Phu Nhân cùng với đoàn mỹ nhân duyên dáng và xinh đẹp, mang biệt danh "Blue Ladies", được chỉ định hầu tiếp những khách tham dự Thượng Ðỉnh trong thời gian ở Manila.

 

Do ai và bằng cách nào tôi không bao giờ được rõ, nhưng cuối cùng có quyết định là ngày hôm sau ở Cam Ranh, tôi sẽ đứng dưới chân cầu thang máy bay của Tổng Thống Johnson, cùng với Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương của Nam Việt Nam, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, để chào mừng Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh Hoa Kỳ tại căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ. Nhưng như thế cũng chưa hết ngạc nhiên đối với tôi. Ngay khi vừa đặt chân xuống mảnh đất Việt Nam và bắt tay chúng tôi, Tổng Thống chỉ vào tôi và nói với Tướng Kỳ:

- Ông này là người có nhiệm vụ khó nhất ở Sài Gòn.

Tại sao ông lại nói thế? Tôi không hề biết, nhưng sau này tôi được người ta cho hiểu rằng ông rất cảm kích với cái câu mà tôi viết để mở đầu bài diễn văn của ông Thiệu, "Chúng tôi muốn có hòa bình". Tôi cho rằng đó là một cách khen tặng của ông, nhưng tôi không biết ông đã có cách gì để tìm ra một giải pháp hợp tình hợp lý cho các bên để có thể chấm dứt tình trạng hỗn độn khủng khiếp ở Việt Nam hay chưa. Dù thế nào đi nữa thì nhất định cũng là một loại quà tẩm thuốc độc đối với tôi. Chẳng bao lâu sau đó, tôi được bổ nhiệm vào một bộ khác.

 

Phan Quân

(Trích dịch)

 

(Hết)

 

 


PHAN QUÂN

 
Tên thật: Phan Văn Minh
Ngày sanh: 17.02.1931
Dân Sài Gòn
Học sinh Pétrus Ký
Khoá I Thủ Đức (1951-1952)
Sĩ quan bộ binh: (1952-1953)
Sĩ quan Không Quân: (1954-1975)
Tù cải tạo: (1975-1987)
Định cư ở Pháp: (1990-...)

Tác phẩm :

Tập truyện Nỗi Buốn Côi Cút.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.