
[....]

Sau khi
Sài Gòn
tan
hàng, thành phố được đặt dưới quyền quản lý của Ủy Ban Quân Quản,
mà người chịu trách nhiệm là Thượng Tướng Trần Văn Trà, tư lệnh
lực lượng vũ trang Mặt Trận Giải Phóng. Ông ra lệnh cho tất cả các
công chức chế độ
Sài Gòn
trước kia, từ chánh sự vụ trở lên, và tất cả các sĩ quan quân đội,
từ thiếu úy trở lên, phải trình diện học tập cải tạo trong ba mươi
ngày, từ tháng Năm đến tháng Sáu 1975. Những nhân viên dân chính
và quân đội khác của chính phủ
Sài Gòn
chỉ cần học tập bảy ngày tại trú quán sở tại.
Như thế,
ít ra chúng tôi cũng biết được những gì dành cho chúng tôi. Thế
nào cũng phải có trả thù và trừng phạt, trong chừng mực nào đó. Ba
mươi ngày là một cái giá thấp phải trả, dù cho dưới tên gọi học
tập cải tạo, hay uốn nắn trở lại, hoặc giam cầm hay thậm chí bỏ
tù. Nhiều công chức hay sĩ quan cấp cao của
Sài Gòn
nghĩ rằng nếu phải chịu ba trăm ngày thì cũng được đi. Tôi sẵn
sàng chịu đựng biện pháp khe khắt hơn, miễn là không phải tù chung
thân hay xử tử. Tôi nghĩ từ năm đến mười năm tù cũng có thể chịu
đựng được, nhưng biết đâu sẽ đến hai mươi năm. Tôi quan tâm nhiều
nhất, không phải cho cá nhân tôi, nhưng cho sự an toàn và yên lành
của cha mẹ và những người trong gia đình tôi.
Phần
đông những công chức và sĩ quan của
Sài Gòn
trước kia đều có nhiều
hy vọng
và tinh thần vững chắc khi gần đến ngày học tập cải tạo. Cũng như
tôi, nhiều người cảm thấy đỡ day dứt và đỡ lo sợ. Hàng nghìn người
chúng tôi bắt đầu trình diện tại những địa điểm quy định, phần lớn
là các trường tiểu học và trung học. Những đám đông ồn ào và nhộn
nhịp, được hàng tá thân nhân đưa tiễn. Nhiều người đến trình diện,
mang theo thức ăn và nước uống, chẳng khác nào một cuộc đi chơi
biển hay đi hội chợ. Thậm chí còn có những trường hợp khôi hài
nữa.
Tôi
phải vất vả mới làm cho người ta chấp nhận đẳng cấp của tôi để
được thu nhận vào học. Chức vụ chính thức của tôi là "quốc vụ
khanh". Tội cho anh chàng phụ trách đăng ký, dò ngược, tra xuôi
danh sách quy định những chức vụ phải nhập học mà chẳng thấy chức
vụ của tôi đâu cả. Anh ta bối rối thấy rõ khi tôi xác nhận đúng là
chức vụ của tôi phải đăng ký tại đó. Thế mà anh ta vẫn không chịu
nhận.
Thiên hạ
xếp hàng đàng sau tôi nóng lòng nhảy vào cuộc tranh luận. Họ bảo
rằng:
- Ông
Phong có đủ điều kiện để được đăng ký mà.
Anh
chàng đáng tội kia bối rối nhìn quanh tìm cách xác nhận. Anh ta
bực mình hỏi gặng:
- Chắc
vậy, phải không?
Mọi
người đều la to:
- Ðúng
rồi!
Vẫn còn
hoài nghi, anh ta hỏi tôi:
- Thế
thì anh lớn hơn chánh sự vụ, chớ gì. Nếu không đúng thì tôi sẽ bị
rầy đó.
- Ðúng
rồi, tôi trên chánh sự vụ mà.
Cuối
cùng, tôi được thu nhận và đưa đến một nhà ngủ nội trú nữ sinh gần
sở thú
Sài Gòn.
Có thể nói là lúc bấy giờ tôi có
hy vọng
chút nào đó do chỗ những người chiến thắng còn rộng lượng để cho
tôi trả một cái giá nhẹ như thế và tôi còn có thể chia sẻ với gia
đình và đất nước một thân phận chung.
Ngày hôm
sau, xe tải quân đội đến đưa nhóm người chúng tôi tại trường nữ
học đi cô nhi viện Long Thành, cách xa
Sài Gòn
khoảng ba mươi cây số. Có nhiều chỗ nhốt người tương tự trên khắp
Nam Việt Nam, giam giữ
trên hai trăm nghìn viên chức dân sự và sĩ quan quân đội trước
kia. Cô nhi viện nằm trên một thửa đất rộng lớn, bằng phẳng, không
cây cối, với khoảng một tá nhà gạch thô sơ, lợp nhôm, nền gạch.
Tôi nghĩ số người bị giam ở đó cũng vào khoảng trên ba nghìn. Ðàn
ông,
đàn bà nhốt riêng, nhưng ban ngày chúng tôi được tự do sinh hoạt
lẫn lộn bên trong vòng rào. Sinh hoạt tự nó đi vào nề nếp một cách
nhanh chóng. Mỗi ngày được cung cấp hai bữa ăn, nhưng cũng có quày
hàng cho những ai muốn mua thực phẩm, thức uống phụ thêm và các
vật dụng thường dùng khác.
Tôi bị
nhốt trong một căn nhà rộng lớn và trống trơn cùng với một nhóm
khoảng hai trăm người. Tôi nhận ra một ít bộ trưởng trước kia,
trong số đó có một
ông
bạn thuở nhỏ, đã làm Bộ Trưởng Công Chánh, cùng với Bộ Trưởng Tài
Chính, quen biết với tôi trước kia thời còn đi học bên
Pháp,
Bộ Trưởng Xã Hội, Bộ Trưởng Giáo Dục, Thứ Trưởng Văn Hóa và Thứ
Trưởng Thông Tin. Những người còn lại đều là công chức cấp thấp
của chính phủ
Sài Gòn.
Chúng
tôi ngủ trên sàn gạch. Tôi tìm ra được một góc yên tĩnh cho gói
hành trang nhỏ của tôi và cho cá nhân tôi. Tôi phát hiện ra những
người nằm cạnh tôi là các
ông
Thứ Trưởng Thương Mại và Thông Tin, một dân biểu quốc hội và một
quan
tòa già nua của tối cao pháp viện. Lần đầu tiên tôi quen biết
những người này. Trong số ba nghìn người bị giam cầm, tôi có thể
nhận diện ra không tới hai mươi người đã gặp trước kia, dù cho mọi
người có vẻ biết tôi là ai và ai cũng tử tế với tôi. Có một bầu
không khí sinh động, vui vẻ, chẳng buồn rầu bao nhiêu. Người nào
cũng bận rộn từ sáng tới khuya, thăm hỏi lẫn nhau, tụ tập thành
nhóm nhỏ, tán gẫu không ngớt. Tôi không thích nói nhiều và thường
ngồi riêng ở một góc. Thiên hạ biết tôi muốn được yên tĩnh nên giữ
ý không quấy rầy tôi, ngoại trừ chào hỏi hay nhoẻn miệng cười với
tôi khi đi ngang.
Ban đầu,
cuộc sống không có
vấn
đề
gì và chẳng bao lâu gia đình biết được nơi giam giữ chúng tôi.
Thân nhân bắt đầu kéo đến trước cổng trại tìm cách gặp mặt và liên
lạc với những người bị giam giữ, mà không được, nhưng cũng đưa
được thức ăn, nước uống, quần áo và tiền bạc vào trại. Không có
một thân nhân nào đến thăm tôi, vì trước khi đi trình diện học
tập, tôi đã yêu cầu gia đình đừng đi thăm, mà chỉ chờ tôi trở về
thôi. Thế nhưng, tôi cũng nhận được vài lá thơ và ít tiền, và nhắn
được về nhà, báo đã nhận được tiền và cho biết là tôi vẫn bình yên
để cho cha mẹ tôi yên lòng.
Trại đầy
ấp những người nằm trong diện học tập cải tạo. Ngoài công chức và
quân đội ra, còn có nhiều thường dân, cũng như những tư nhân thuộc
những cái gọi là chính đảng. Có hôm, một đảng viên thuộc loại đó
gián tiếp làm náo động lên. Một biến cố ồn ào xảy ra bên khu nữ.
Tôi không được chứng kiến cảnh náo động, nhưng nghe nói rất nhiều
về chuyện đó. Tin loan truyền khắp trại là có một người phụ nữ
chừng hai mươi tuổi khóc la và lăn lộn dưới đất, cầu Trời, khấn
Phật gia hộ độ trì cho cô được về nhà. Thì ra, đó là một cô gái
nghèo, gần như dốt đặc làm công cho một bà giàu có, ủy viên ban
chấp hành của một chính đảng tí hon nào đó của
Sài Gòn,
vì háo danh và vì những lý do tào lao khác. Bà đã ngoan ngoãn
trình diện học tập cải tạo với chức vụ khá kêu đó trong đảng. Vì
sợ không được ăn ngon, mặc đẹp nên người nữ chính khách kia đem cô
người làm theo để giặt giũ và nấu nướng cho bà. Chẳng may là bà
chủ đã đăng ký cô người làm với tư cách là "bí thư" nên cô bị đưa
đi học tập cải tạo. Nhưng bà không khai rõ là thư ký riêng của bà
cho nên cô ta bị cho đi học tập cải tạo với tính cách là "bí thư",
một từ để chỉ chức vụ quan trọng trong chính đảng. Sau mấy ngày bị
giam giữ, bà chủ đã chạy chọt thế nào để được tự do, nhưng bà lại
quên đem cô làm công ra theo. Bà chủ cấp tốc rời trại, không thèm
có một lời nào với cô làm công, nên cô điên tiết lên, vì bà chủ đã
ra về mà quên cô.
Ngoài
việc quýnh quáng lên vì điên tiết, cô gái thương tâm kia không
biết phải xử sự ra sao khi không có quần áo để giặt và chẳng phải
nấu nướng gì hết. Mọi người đều tìm cách xoa dịu và an ủi cô, nói
rằng rồi đây bà chủ sẽ tìm cách cho cô được tự do. Trong lúc chờ
đợi, cô gái cũng vơi được buồn phiền vì được biên chế vào tổ "chị
nuôi" để làm phụ bếp nấu ăn cho tù. Cô nàng thấy vui sướng vì có
công việc làm, vì thấy mình hữu dụng mà không cần phải có một bà
chủ. Sau đó, tôi không có tin tức gì của người con gái đáng thương
đó nữa.
[....]
Ðến
thời điểm mà chúng tôi đã được người ta gây ảo tưởng là hết ba
mươi ngày học tập cải tạo, chúng tôi lại mơ hồ biết rằng ngày ra
về
chưa đến, như Thượng Tướng Trần Văn Trà, Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản
Thành Phố Hồ Chí Minh, đã quyết định trước kia. Có tin đồn rằng
viên chức cao cấp ngoài Hà Nội đã vào để tổ chức và nắm lấy quyền
cai trị ở miền nam
Việt Nam. Không ai giải thích hoặc cho biết lý do tại sao không
cho chúng tôi về nhà, như mong đợi. Cũng như phần đông bạn bè bị
giam cầm, hy vọng của tôi đã hoàn toàn tiêu tan. Chúng tôi lại
bước vào giai đoạn mới là không biết phận mình sẽ ra sao. Cũng một
nỗi bấp bênh, như chúng tôi đã trải qua, ngay sau khi Sài Gòn lọt
vào tay cộng quân, nhưng lần này chúng tôi bị nhốt trong trại tập
trung chứ không phải ở nhà cùng với gia đình và được đi đây đi đó
trong thành phố.
Qua trao
đổi với những người cảnh vệ, chịu nói chuyện với chúng tôi, chúng
tôi được biết rằng chúng tôi sai quấy vì đã đánh phá và gây tội ác
chống lại Tổ Quốc. Người ta không gọi chúng tôi là những người
"phản bội Tổ Quốc", nhưng họ cũng úp mở cho chúng tôi hiểu rõ là
đã tiếp tay với "bọn tân đế quốc Mỹ xâm lược", đem lại chết chóc
và hủy diệt cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Chúng tôi không
được biết có bị đưa ra tòa hay không, hay là có bị xét xử trên căn
bản nào hay không. Cũng không ai nói hình phạt dành cho chúng tôi
là thế nào và bao lâu và không ai cho biết thời hạn giam giữ sẽ
được phán quyết như thế nào, cho từng cá nhân hay một cách tập
thể.
Vì vậy
cho nên tôi càng thêm quan tâm đến hy vọng, nhưng hy vọng bằng
cách cân nhắc giữa ảo tưởng và sự vỡ mộng. Tôi có nhiều lý do
chính đáng để hy vọng nhưng thực tế lại không cho phép tôi hy
vọng. Rõ ràng là tôi đã có hy vọng vì tôi đã tin tưởng ở lời nói
của Thượng Tướng Trần Văn Trà về ba mươi ngày học tập cải tạo.
Chẳng may cho chúng tôi là giới chức cao cấp hơn đã quyết định
lại, trái với ý định của Tướng Trà, như tôi được biết sau này. Sau
đó, ông cũng biệt tích giang hồ.
(Kỳ sau:
Ra Bắc)
Phan Quân