Tạng tộc thuần từ trên đất
Ấn
Cầu nguyện
Hòa Bình
Phật tử
Tạng tộc
Bia kỷ
niệm Sujata
Tháp
Sujata |
Sáng ngày 01/01/2009, tại Bồ Đề Đạo Tràng, đã diễn ra buổi lễ cầu nguyện
hoà bình thế giới, có sự tham dự của đại biểu các tôn giáo tại India
như: Islam, Hindu, Tibet, Kito giáo... Đặc biệt có mặt của ngài Pháp
Vương thứ 17, Karmapa Chenno, Phật giáo Tây Tạng.
Trước đó mấy hôm, tộc Tạng đã mở hội chợ bày bán các sản phẩm và pháp
khí của Tôn giáo; Phật giáo xuất thân từ Ấn Độ, nhưng Phật giáo Ấn dưới
0,0% dân số, ngược lại tu sĩ và quần chúng Tây Tạng chiếm 70% lượng số
Phật giáo các quốc gia có mặt. Phật giáo thấm sâu vào máu thịt của tộc
Tạng, vì thế, quần chúng Phật tử Tạng chỉ khác tu sĩ chiếc áo và cái
đầu, ngoài ra, cuộc sống của họ luôn thể hiện và gắn bó một cách thành
kính với tín ngưỡng tôn giáo. Mọi sinh hoạt hằng ngày luôn sống trong tu
tập, tay lần chuỗi, miệng lẩm nhẩm niệm kinh; Tây Tạng là dân tộc duy
nhất kết hợp đời sống thế tuc và tâm linh làm một, họ thể hiện đúng tinh
thần Phật giáo Đại thừa: Thế gian pháp tức Phật Pháp, Phật pháp bất
ly thế gian pháp. Vì thế, từ sắc phục, trang sức, sản phẩm phục vụ
xã hội đều mang tính tín ngưỡng tôn giáo. Thế giới Hồi giáo cũng có sự
gắn bó giũa xã hội và tôn giáo, nhưng sự gắn bó đó mang tính luật lệ hơn
là tâm linh tự phát; Tại Việt Nam, miền Tây Nam Bộ, một chi phái Phật
giáo được biết với cái tên: Phật giáo Hoà Hảo, tinh thần tín ngưỡng qua
sấm giảng thi văn cũng thấm sâu vào đời sống của tín đồ để từ đó Học
Phật tu nhân là chỉ tiêu sinh hoạt biến cõi Tịnh độ lý tưởng thành
một cõi Tịnh độ hiện thực. Ngoài hình thức trang phục và búi tóc củ tỏi
để xác định đó là tín đồ PGHH, họ không có những cái mà sinh hoạt tâm
linh của tộc Tạng luôn thể hiện; ngay cả thời đại Phật giáo Việt Nam
được xem là quốc đạo, cộng đồng xã hội cũng không có nét đặc thù như
thế.
Một điều đặc biệt nhất mà không một Phật giáo ở trong bất cứ quốc gia
nào có được, đó là hạnh nguyện tái sanh của các vị chức sắc và giáo
phẩm. Kể từ Đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên tên là Gendun Drub (1391 -1474)
đến nay đã trải qua 14 đời tái sanh, Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay là
Tenzin Gyatso (1935).
Phụ chính cho Đức Đạt Lai Lạt Ma là Ban Thiền Lạt Ma cũng tái sanh và
Pháp Vương thứ XVII tái sanh năm 1985 sau khi Pháp Vương thứ XVI thoát
hoá năm 1981.
Như thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị lãnh đạo tinh thần cả thế quyền lẫn
tâm linh cho nhân dân Tây Tạng, không những thế, ngài còn là gương mặt
sáng giá nhất của Phật giáo thế giới, ngài có công lớn đối với Phật
giao Tây Phương và cũng là một tu sĩ biểu tượng cho lòng Từ bi, hoà bình
của nhân loại. Người Tây Tạng tuy bị mất nước, nhưng bù lại, họ có quyền
hãnh diện được dẫn dắt bởi những nhà lãnh đạo tâm linh uyên thâm như Đạt
Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma, Pháp vương, Nhiếp chính vương và nhiều
Guru khác. Tuy Tộc Tạng có 6 triệu dân, tiểu Lasha tại Dharamasala chưa
tới 150.000 người, nhưng họ vẫn giữ được đời sống tâm linh thâm hậu, có
một tổ chức giáo dục rất tốt, duy trì một nền văn hoá đặc thù, và tạo
được uy tín cũng như thiện cảm trong cộng đồng quốc tế.
Định cư trên biên giới Ấn Tạng, dưới chân rặng Hy Mã, họ vẫn có một thể
chế chính trị hoà quyện tôn giáo một cách hài hoà, họ cũng như Vatican,
là một quốc gia nhỏ nhưng mang tầm vóc rất lớn; khác với Vatican, uy tín
của họ được biết đến bởi nền văn hoá tâm linh uyên thâm và tinh thần yêu
nước bất bạo động.
India
là quê hương thứ hai, vì thế, tu sĩ Tây Tạng đông hơn tu sĩ Phật giáo
của bất cứ quốc gia nào. Gần Bồ Đề Đạo Tràng, chùa Tây Tạng cũng nhiều
nhất. Những ngày lễ như Tripika, Phật Đản sanh, Tết Ấn, tết dương lịch
hoặc ngày Tôn giáo hoàn cầu, hoà quyện với quần chúng Ấn là nhân dân và
tu sĩ Tây Tạng có mặt khắp nơi trong và ngoài khu vực Bồ Đề Đạo Tràng.
Trong cuộc lễ cầu nguyện hoà bình cho thế giới hôm đầu tháng giêng 2009,
các sư Tây Tạng chiếm gần phân nửa số người hiện diện; đồng thời, vào
lúc nầy, Ngài Pháp Vương đời thứ 17 cũng có mặt, ngài cũng có những thời
pháp tại chùa Tây Tạng cách Bồ Đề Đạo Tràng một kílômét cho tín đồ mọi
quốc tịch. Người dân Tây Tạng chất phác, mua bán thật thà, tính tình hồn
hậu dễ mến.
Vùng Bihar không có những khu giải trí lớn như các quốc gia khu vực,
quần chúng phần lớn đến các Thánh tích tại Bodhgaya. Ấn độ là quốc gia
kỳ lạ, một cái nôi tâm linh của các tôn giáo, một quốc gia phát triển về
công nghệ tin học, vũ khí hạt nhân, tiềm năng về khoa học không gian,
thế mà, có những đại gia giàu nhất thế giới, cũng có những tầng lớp
nghèo nhất toàn cầu; hạ tầng cơ sở tệ hơn cả Việt Nam; tham nhũng cũng
khá phổ biến. Vệ sinh môi trường so với Việt
Nam
cũng dưới một bậc. Ngay cả cước phí thông tin cũng mắc mỏ một cách lạ
lùng. Không lấy các nước phát triển để so sánh, So với Campuchea và Việt
Nam,
thì Ấn độ cũng làm cho du khách nhiều ngạc nhiên trong mọi mặt cuộc
sống.
Sông Ni Liên Thuyền (Nairanjana), cách Bồ Đề Đạo tràng chưa tới một
kílômét đường chim bay, nơi mà Đức Thế Tôn, xuống tắm rửa và thả bình
bát để phát nguyện truớc khi về cội Bồ Đề toạ thiền đến khi chứng đắc,
ngày nay nước khô cạn, đáy sông trơ trọi cát trắng, chỉ có mùa mưa nước
xấp xỉ hơn một mét; Ngày ấy, Đức Phật cũng lội qua lại giòng sông nầy,
chứng tỏ hàng ngàn năm trước, Ni Liên Thuyền không sâu lắm. Bế ngang hai
bờ chưa đến 300m, nó đã đi vào lịch sử, chính vì thế, một resort mọc
ngay cạnh sông lấy tên Sambodhi, trang trí nhiều bức tượng Đức Phật và
Thập Đại đệ tử. Mùa Đông mà đất khô cằn thì mùa hè chắc chắc cây cối
không thể sống nổi. Điều đặc biệt không ai giải thích được, cứ mỗi năm,
vào ngày rằm tháng bảy, giữa lòng sông Ni Liên thuyền nổi lên các chòm
bông tuyết, trước và sau đó một ngày chúng hoàn toàn biến mất. Riêng
làng Sujatagarh, cách Ni Liên Thuyền vài trăm met, tên của một nàng chăn
cừu từng cúng dường đức Thế Tôn bát sữa khi phát hiện Người bị suy kiệt,
chính bát sữa lịch sử đó đã giúp Đức Thế tôn phục hồi sức khoẻ để tiến
đến đại ngộ, cây cối xanh tươi, hoa màu sung túc. Ngày nay, khu tưởng
niệm vẫn còn ngọn đồi xây gạch vào niên đại Asoka, tuy bị Hồi giáo triệt
phá nhưng ngọn đồi gạch nung quá lớn nên dấu tích vẫn còn tồn tại. Khu
di tích rộng nửa mẫu, được rào chắn đơn sơ. Người dân tại khu lịch sử
nầy tôn kính, xem Sujatagarh như một vị thần hộ mạng. Một số thanh niên
trang bị máy móc âm thanh ca hát ngoài trời giữa trưa nằng. Hình như
người Ấn không sợ nắng khi mà da họ đã sạm đen, vì thế kẻ thì nằm ngủ,
người thì ăn uống, bán buôn trên khu đất dọc đường đầy bụi bặm giữa ánh
nắng chói chang. Thỉnh thoảng người đàn bà giặt đồ không có xà bông,
trong vũng nước ao tù xanh đục, phơi trên bãi cỏ kế cận, ngồi chờ áo
quần khô rồi mặc lại, tiếp tục đến những nơi có du khách để ngữa tay nói
được hai tiếng money.
Những ngày này, quần chúng tấp nập như trẩy hội, xe cộ đông đúc. Người
quen chạy xe phía tay mặt, nên thấy Ấn độ theo luật giao thông của Anh
Quốc, xe chạy phía trái cứ như sắp đâm vào nhau. Xe lôi đạp, xe
lambretta, xe gắn máy, xe hơi, loạn cào cào chen lẫn kẻ bộ hành thế mà
chưa xẩy ra tai nạn đáng tiếc.
Xã hội Ấn hoà quyện giữa đời sống tâm linh và thực dụng tạo cho du khách
một cảm giác mơ hồ của hàng ngàn năm trước và cái hiện thực bất toàn của
một xã hội văn minh hiện tại, khó định giá được Ấn Độ đang ở vào thời
đại nào khi mà giai cấp cùng đinh trong xã hội vẫn tồn tại lây lất với
bò, dê, chó, chim muông trong căn chòi rách nát, bên vệ đường, trong xó
xỉnh của khu ổ chuột chắp vá bằng những mảnh nilon, tre, carton hay bất
cứ cái gì có thể! Cũng có kẻ cả đời không hề biết đến một mái nhà, một
căn chòi, họ nằm lây lất bất cứ nơi đâu bên cạnh những con chó hoang ngủ
một cách vô tư giữa con lộ mà không hề bị ai quấy nhiễu. Cách Bodhgaya
không quá hai cây số, không có đường truyền Internet, không có ADSL.
Điện thoại cũng chập chờn. Điện thắp sáng cúp bất cứ lúc nào; Người dân
xài điện miễn phí, người nước ngoài thì phải chịu giá điện đắt đỏ, cước
phí viễn thông rất cao và khó liên lạc.
Ở Việt Nam, từ Sài Gòn ra Hà Nội chỉ một chuyến xe hay tàu hỏa, tại New
Delhi hay Lâm Tỳ ni về Bodhgaya phải qua nhiều chặng xe, đi mất hai ngày
cùng chiều dài đoạn đường tương đuơng. Người dân quen cuộc sống an phận
và chấp nhận nên xã hội trì trệ và mọi sự diễn tiến đều đặn chậm chạp
như giòng chảy sông Hằng.
Xã hội Ấn mọi sự như hài hòa, dung nhiếp lẫn nhau, các tôn giáo cũng
thế. Bồ Đề Đạo tràng là thánh tích Phật giáo, nhưng hàng ngày vẫn có các
tín đồ tôn giáo khác đến ngồi thiền, cầu nguyện, lễ bái. Họ xem Đức Phật
là hiện thân của một vị thần trong tín ngưỡng của họ. Các tôn giáo xuất
thân từ đức Brahma, có cùng nguồn cội, nên họ không có óc đố kỵ. Ngày lễ
tôn giáo hoàn cầu cũng là dịp các tu sĩ của nhiều tôn giáo gặp gỡ nhau
giữa phố thị, họ xuất hiện nhiều ngày như thế để nhận sự cúng dường của
quần chúng. Ấn độ là cái nôi của tâm linh hơn là xứ sở văn minh vật
chất, đa số người dân Ấn không mặn mà với với tiện nghi khoa học; Họ có
thể sống kham khổ nhưng đền chùa luôn được bồi đắp thật tráng lệ.
Nếu so với những nước như Campuchea, Myanmar, India, Lào thì Việt Nam
vẫn có nhiều ưu điểm trong những tiện nghi sinh hoạt thường nhật. Nếu
tại
India
mắc về cước phí và mua simcard khó thì tại Miến, người dân phải bỏ ra
1.000 USD mới sở hữu được một thẻ cellphone. Mọi người có mặt trên đất
Ấn, dù là ngoại quốc, cất chùa, xây nhà và ở bất cứ nơi đâu, chính quyền
không hề can thiệp xét hỏi. Các chùa Việt
Nam
đem tiền qua giúp đở nhân dân nghèo, xây nhà khoan giếng cũng không hề
xin phép chính quyền.
Ngoài đời sống tâm linh cho các tôn giáo và thánh địa cho người Phật tử,
Ấn Độ không phải là xã hội thích hợp cho những ai muốn hưởng thụ, vì thế
nhiều ngàn năm, Ấn độ luôn là chiếc nôi sản sinh nhiều bậc Thánh hiền;
có lẽ vì thế mà Tây Tạng đã chọn India làm nơi dung thân cho những người
con lưu vong; Tây Tạng cũng chọn Bodhgaya làm nơi cầu nguyện hoà bình
thế giới trong đầu năm dương lịch; Mọi người dân đều tỏ ra hoan lạc
trong cuộc sống còn nhiều khắc khổ.
Những người sống theo tâm linh, họ cảm thấy mãn nguyện khi đặt chân đến
các Thánh tích. Từ trường đạo lực luôn được tồn tại và phủ trùm trên đất
nước Ấn khi mà Hy Mã Lạp Sơn, một ngôi nhà thế giới luôn là điểm tựa chở
che cho xử sở Thánh hiền. Ấn độ vẫn là xứ sở nhiều huyền bí khó hiểu. Du
khách luôn bắt gặp từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác cho đến khi tâm
linh được khai ngộ, lúc bấy giờ mới hiểu tại sao Đức Phật và các Thánh
hiền đã chọn nơi nầy làm chỗ đản sinh.
MINH MẪN
02/01/09
|
|
|