
Ngày 20 tháng tư nhuận năm Quí
Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễn hành của trên 800 vị
Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni để tranh đấu cho chính sách
bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốc tế không bị triệt hạ: tại
ngã tư đường Phan Ðình Phùng, Lê Văn Duyệt (Sài Gòn), lúc 9
giờ sáng, Hòa Thượng Quảng Ðức phát nguyện tự tay châm lửa
thiêu thân làm ngọn đuốc “thức tỉnh” những ai manh
tâm phá hoại Phật giáo.
Xem tiếp |
Chết, là hình thái chấm dứt cuộc sống theo cái sống thông tục!
Chết, cũng có nghĩa khởi đầu cho cái sống, mang tính chuyển hoá!
Chết, cũng có nghĩa chấm dứt dòng truyền lưu nhàm chán!
Và Chết cũng là Sống theo nghĩa tương tục của giòng Tâm thức
luân lưu!.
Một cuộc sống cá nhân đang bế tắt, chán nản, đau buồn, thường
chấm dứt sự sống mong tìm một lối thoát.
Một tổ chức, một phong trào bị khủng hoảng về sách lược. một
công ty, một doanh nghiệp lâm vào đường cùng trong doanh
thương…một là họ giải tán, hai là liên kết, ba là chấm dứt lề
thói cũ, tìm một hướng mới như cuộc lột xác cho thích ứng với
tình huống xã hội mong được tồn tại. Chấm dứt trạng huống cũ để
nẩy mầm lối thoát mới đều tạm gọi là chết.
Một thể chế, một quốc gia cũng vậy, tự thân không thích ứng kịp
thời với nhu cầu thời đại, thường đưa đến khủng hoảng và xơ
cứng. Thời đại ngày nay, khoa học mọi ngành luôn cải tiến để tồn
tại và để phục vụ, bắt buộc người dân cũng phải nâng cấp kiến
thức để cuộc sống tự thân và xã hội được cập nhật. Kiến thức
người dân và nhu cầu xã hội luôn biến đổi, biểu hiện cuộc sống
luôn tươi mát vươn lên, với điều kiện giới lãnh đạo một quốc gia
cũng phải nhạy bén kịp thời để đáp ứng cho nhu cầu tất yếu đó.
Vì thế, ngày nay không một quốc gia nào tự mình bế quan, cách
biệt với thế giới nếu không muốn lùi về thời đại bán khai. Tinh
cầu biến thành ngôi nhà chung thì mỗi quốc gia là một thành viên
cùng sinh hoạt, cùng tồn tại qua cấp độ giao lưu văn hoá, nhu
cầu vật chất và mức độ tâm linh không cách biệt nhau lắm.
Những thế kỷ hai mươi về trước, một số quốc gia chưa chuyển mình
kịp thời trong giấc ngủ Đông triền miên của xã hội thủ công nông
nghiệp. Chưa quen giao hoà với cộng đồng nhân loại, thường duy
trì những cá tánh cách biệt một cách thủ cựu, không đáp ứng kịp
thời nhu cầu cấp tiến của quần chúng, thường đưa đến sự rối
loạn, bùng nổ.
Miền Nam Việt Nam trước kia, khi đất nước chia đôi, gia đình nhà
Ngô cai trị xã hội bằng một tập quán quan liêu phong kiến của
Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Cẩn, cộng thêm một tư duy Thần Học được
giáo dục bởi nhà Dòng, theo học thuyết “Cần Lao Nhân Vị” từ Ngô
Đình Thục và Ngô Đình Nhu mà kiến thức chính trị cũng như niềm
tin đều ảnh hưởng từ Vatican và học lý phương Tây. Một đất nước
cai trị bởi tập quán và kiến thức ngoại lai chưa thích hợp với
một dân tộc lâu đời tiêm nhiễm Tam Giáo, dân trí chưa phát triển
đồng bộ tương thích với cộng đồng thế giới, thì sự cưỡng chế tâm
thức trong quần chúng không tránh khỏi. Lúc bấy giờ xã hội miền
Nam
hiện rõ hai khối ý thức tâm linh rõ nét. Gia Đình trị nhà Ngô cố
gắng đem học thuyết Thần học của Ngô Đình Thục hỗ trợ cho học
thuyết chính trị của Ngô Đình Nhu hầu xây dựng một xã hội thuần
tuý Duy Linh để đối trọng với chế độ Duy Vật của Miền Bắc. Thay
vì tạo một ý thức tự nguyện hoặc qua phương sách giáo dục tiệm
tiến để quần chúng thích nghi khả dĩ chấp nhận, nhà Ngô đã dùng
quyền lực, địa vị, vật chất (từ viện trợ của Mỹ) để mua chuộc,
khống chế, cưỡng bức, đẩy nhân dân vào thế đối cực, dĩ nhiên, đó
là lợi thế cho miền Bắc lúc bấy giờ.
Ngoài Tam giáo đồng lưu, miền Nam còn có nhiều giáo phái khác
như Hoà Hảo, Cao Đài Bến Tre, Cao Đài Tây Ninh, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương… và một số đảng phái phát sanh từ thời
Pháp thuộc. Những năm đầu chấp chánh sau khi truất quyền Bảo
Đại, nhà Ngô nóng vội đã triệt tiêu Ba Cụt, Năm Lửa, Trịnh Minh
Thế… hy vọng thâu tóm quyền hành và ổn định xã hội mà không có
một chính sách ổn định nhân tâm, vì thế Đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc phải di nạn sang Campuchea, một số nhân sĩ trí thức các
đảng, giáo phái phải tìm cách thoát thân, một số người dân phải
thoát ly vào mật khu giải phóng. Tâm lý xã hội bắt đầu phát sanh
một cuộc khủng hoảng mới. Tính chủ quan, nóng vội, độc tài của
anh em nhà Ngô muốn đốt giai đoạn trong thời gian thật ngắn,
dùng Kitô giáo hỗ trợ an dân chống giặc, muốn miền Nam là một
Philippines thứ hai, quần chúng cảm nhận được sự bế tắc tự thân,
phát sanh tâm lý bảo lưu cố thủ, biến nhân dân thành chiến tuyến
vô hình dè chừng với chế độ. Tuy nhiên, những quan chức, những
giai cấp có quan hệ tốt với chế độ lúc bấy giờ khi có một vị thế
ổn định thì chế độ trở thành một công ty bảo hiểm để đời sống
của họ vươn lên.
Phật giáo miền Trung lúc bấy giờ đã xây dựng hệ thống tổ chức
khá nề nếp và vững mạnh, thừa hưởng những thành quả Chấn Hưng
Phật Giáo của các đàn anh. Khuông, Vức là cơ sở hạ tầng biết vận
dụng sức mạnh quần chúng, giáo dục đức tin mà phần lớn Gia Đình
Phật Tử là đoàn thể được xây dựng vững mạnh. Tuy Ngô Đình Cẩn
quan hệ thiết thân với thầy Trí Quang, nhưng không vì thế mà hỗ
xám miền Trung có thể nắm được Phật giáo. Cái chủ quan của Ngô
Đình Thục đã đẩy chế độ nhà Ngô vào bế tắc với Phật giáo, cộng
thêm thủ đoạn chính trị của Ngô Đình Nhu và kiêu mạn của Trần
thị Lệ Xuân, phu nhân Ngô Đình Nhu, càng tạo hố ngăn cách lớn
giữa Phật giáo với chính quyền nhà Ngô và sự bất mãn trong quần
chúng. Nắm quyền sinh sát toàn miền Nam, cứ ngỡ chủ động được
mọi vấn đề, chế độ đã không hàn gắn được với lực lượng Phật giáo
bằng sự chân thành mà còn dùng thủ đoạn đánh lừa quốc tế về
những thủ thuật chính trị, bà Trần thị Lệ Xuân càng đi giải độc
với thế giới về Phật giáo thì càng tạo phản ứng trái ngược, cả
chế độ không đánh lừa được tổ chức Liên Hiệp Quốc, Tổng Thư Ký
LHQ bấy giờ đã phải vào cuộc.
Xương máu Tăng Ni, quần chúng Phật tử đã hy sinh, trước đó các
huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đã bị thủ tiêu, bắt bớ khá nhiều.
Sự hy sinh xương máu của toàn thể Phật Giáo Việt
Nam
không phải chống lại để lật đổ chế độ mà muốn chuyển hoá tâm
chất của giới lãnh đạo độc tài, thường thì những người cực đoan
nắm quyền lực ít chịu lắng nghe, họ chủ quan với quyền lực. Cùng
tắc biến, Bồ Tát Thích Quảng Đức là giọt nước cuối cùng để ly
nước phải tràn.
Sự kiện Thích Quảng Đức là một hiện tượng ý hệ chuyển hoá, khi
mà ngôn ngữ, không đủ năng lực chuyển tải. Ngài đã dùng chính
mạng sống để cho Phật giáo được sống và nhân dân miền
Nam
có sức sống, như Thánh Cam Địa đã chết cho dân tộc Ấn được sống
tự do. Mục sư Luther King chết cho dân da màu được sống bình
đẳng.
Trên thế giới có rất nhiều cái chết cho đại nghĩa. Thánh Cam
Địa, mục sư Luther King bị ám sát, nhưng Bồ Tát Thích Quảng Đức
chủ động cái chết. Trong cuộc đấu tranh sống còn với chế độ gia
đình trị, một thiền sư Việt
Nam
lãnh đạo Phật giáo đã nói: Tôi nguyện đem xương máu trang
trải cho Phật pháp, nếu chết thì như cái chết của chân lý trước
bạo lực chứ không phải chết vì bạo lực nầy kém bạo lực khác!
Với lời minh xác như thế, Sa Môn Thích Quảng Đức tự biến mình
thành cây đuốc sống để soi sáng chế độ, ngọn lửa Từ Bi bùng phát
chấn động cả thế giới chứ không phải ngọn lửa sân hận cháy thiêu
tam giới, hà tất huỷ diệt chế độ! Tuy sự kiện Thích Quảng Đức
phát sinh từ một trạng huống xã hội, nhưng ánh sáng ngọn đuốc
sống đó, không vì thế mà chìm theo thời gian. Tâm nguyện của Bồ
Tát được minh chứng bởi quả tim bất diệt, lưu cho hậu thế bài
học ngàn đời: “Cho dù quyền lực tột đỉnh, cũng chỉ tồn tại trong
một thời gian nhất định, nhưng tâm nguyện Từ Bi - Vị Tha, sẽ
sống mãi với cuộc đời.”
Cổ nhân từng nói: “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”,
lòng người là lòng trời, hợp lòng Trời là đạo đức làm người, cho
dù trên ngôi cửu ngũ hay dưới cỏi bàn dân, đạo đức luôn là yếu
tố tồn tại. Đạo đức không phải là thủ thuật chính trị để bảo vệ
ngôi báu mà là khí lực nhân cách để nuôi dưỡng cuộc sống, bình
ổn lòng dân.
Thời đại Phật giáo cực thịnh không phải chùa cao Phật lớn, tu sĩ
tràn lan, đó là dấu hiệu suy thoái nếu bị lạm phát. Đạo lực phát
triển chốn già lam, đạo đức duy trì trong dân chúng, đó là dấu
hiệu vững mạnh của một dân tộc. Người lãnh đạo có Đức Nhân, cán
bộ có đức nghĩa, quần chúng có Đức lễ, tôn giáo có đức Từ thì
chắc chắn xã hội thịnh vượng. Một khi cuộc sống đánh mất những
đức tính căn bản Đạo làm người, xã hội sẽ lâm vào bế tắc, tao
loạn. Một khi giới lãnh đạo thiếu nề nếp kỷ cương của Tâm Đức,
nhân dân sẽ mất niềm tin, như nhà cao tầng đang bị xói mòn chân
móng.
Ngọn lửa Quảng Đức không chỉ là lời cảnh báo cho một trạng huống
đương thời, mà là bài học cho mọi thế hệ trong mọi quốc gia.
Ngọn lửa Quảng Đức không chỉ là giọt cuối cùng để tràn ly nước,
mà cũng là khởi đầu cho cuộc sống trong mọi xã hội, phải biết tự
soi chính mình, biết xây dựng kẻ khác, biết cảm thông, chia sẻ
và hy sinh. Thiền sư không chỉ chuyển hoá cuộc sống bằng đạo
lực, mô phạm bằng thân giáo, xây dựng bằng ngôn từ mà còn thể
hiện Bồ Tát hạnh khi nhu cầu xã hội cần đến.
Việt Nam ngày nay, tuy kết thúc chiến tranh trên 30 năm, nhưng
lòng dân vẫn chưa có hoà bình, nhân dân chưa thừa hưởng được một
nền giáo dục đạo đức căn bản trong xã hội. Chúng ta đánh mất
những tâm đức căn bản nhất vì chạy theo xu thế thị trường và lợi
nhuận. Một xã hội phương Đông đang chối bỏ nền tảng đạo lý tổ
tiên để học đòi theo văn hoá thực dụng phương Tây, cho dù đó là
văn hoá ký gửi, vay nợ, thụ hưởng. Cuộc sống của người dân trên
các nước Tư Bản hiện nay như loại tầm gửi bám trên nhành lá, đọt
cây của một xã hội thị trường, cùng phát triển, cùng tồn tại,
nhưng một giai đoạn khủng hoảng về kinh tế, tài chánh, năng
lượng, bất động sản, tiền tệ… toàn bộ mạng lưới tầm gửi đó sẽ
đồng loạt bị tác hưởng, giao động. Xã hội Việt Nam ngày nay cũng
thế, những nhà cao tầng, những cơ sở quy mô, phần lớn đều được
thế chấp để lấy vốn kinh doanh, một góc độ khác, thì họ đang ở
nhà thuê, dù đồng vốn họ bỏ ra xây dựng, đang là sở hữu của ngân
hàng, nếu không đủ khả năng hoàn nợ, coi như mất nhà. Kinh doanh
của họ tuỳ thuộc khắn khít với kinh tế thị trường. Ngược lại,
một số vùng nông thôn của châu Á, cuộc sống cá biệt sản xuất, tự
cung tự tiêu, họ ít chịu áp lực giao động qua những cuộc khủng
hoảng thế giới, vì thế, cuộc sống có phần cá biệt.
Cuộc giao thoa với thế giới bên ngoài, đòi hỏi bản thân đất nước
phải có bản năng duy trì văn hoá và đạo đức bản địa, hội nhập
không có nghĩa hoà tan mọi đặc thù mà là chắt lọc và đào thải.
Có như thế ít bị áp lực tác hưởng cái tốt lẫn cái xấu từ ngoại
giới.
Cuộc sống luôn biến đổi từng giây như giòng chảy của bộc lưu,
đứng lại là bị loại khỏi dòng tiến, chạy theo không có định
hướng đồng nghĩa tự đánh mất mình. Đòi hỏi tận dụng trí tuệ cho
mọi ngõ ngách để không bế tắc, lỗi thời, cũng không vong bản,
tha hoá.

Thượng tọa Huyền Quang (tức Cố đệ tứ Tăng Thống) và trái tim Bồ tát
Quảng Đức đốt nhiều lần từ lửa củi tới lửa điện đều không
cháy.
Xem tiếp |
Ngọn lửa Quảng Đức không chỉ soi sáng một chế độ trong quá khứ,
mà còn là ánh đuốc cho xã hội hiện tại, tránh cực đoan, biết
lắng nghe và phải hy sinh. Trái tim lưu lại cho hậu thế một lòng
Từ bao la mà tình người cần phải có. Việt Nam đủ mọi đức tính
cao đẹp của tiền nhân, có đủ căn bản đạo đức Tam giáo, vấn đề
còn lại phải vận dụng phát huy, đồng thời mạnh dạn loại trừ
những tật xấu, những học đòi tiêm nhiễm của cuộc sống thực dụng,
để trên dưới cùng gắn bó thì ngoại bang làm sao dám ngỗ nghịch.
Ngọn lửa Quảng Đức luôn sáng tỏ với thời gian và không gian! Như
thế chết nhưng vẫn sống, hạnh nguyện Bồ Tát vẫn sống và giúp mọi
thế hệ vẫn sống cho ra sống bằng trí tuệ và tình người của mình.
Chết để được sống là cái chết cao đẹp nhất trong muôn ngàn cách
chết của kiếp người. Thế giới vẫn tôn vinh cái chết của Bồ Tát
Quảng Đức, vì thế, Phật Giáo Việt Nam và đất nước Việt Nam có
chỗ đứng xứng đáng trong sự ngưỡng mộ của cộng đồng nhân loại
hiện nay.
Minh
Mẫn
14/6/09
----------------------------------
Lửa từ bi
Kính dâng BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨC
Vũ Hoàng Chương
Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên...
Ôi, đích thực hôm nay Trời có Mặt!
Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga.
Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt
Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la.
Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
PHẬT-PHÁP chẳng rời tay...
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.
Không khí vặn mình theo
khóc oà lên nổi gió
NGƯỜI siêu thăng...
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-Đề.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI .
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi ?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.
Ôi ngọn LỬA huyền vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi Vô-Minh
Hướng về Cực-Lạc.
Vần điệu của thi-nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời Kinh;
Tụng cho nhân loại hoà bình
Trước sau bền vững tình huynh-đệ này.
Thổn thức nghe lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về Cây.
Nam-mô THÍCH CA MẦU NI PHẬT
Đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt
tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.
(Khởi viết từ ngày 11-6-63 xong ngày 15-7-63 tại SAIGON)
Bài thơ này đã được Hà Lan Phương và Nguyễn Hải phổ nhạc.