Sự
cám dỗ của Phật giáo tại Pháp
-
PSN - 20.12.2010
Nguyên tác Pháp ngữ: Alain Renon / Le
Monde Diplomatique,
Chuyển ngữ: Khánh Hải Triều Quang,
Dec 12, 2010
Với khoảng 2 triệu rưỡi tín đồ tại Âu
Châu và ít nhất là 5 triệu tại Hoa Kỳ, Phật Giáo đã thật sự bén rễ ở
Tây Phương. Sự phát triển của Phật Giáo rất rõ rệt, đặc biệt là ở
lục địa Âu Châu, nơi mà 30 năm trước đây chỉ được xem như là một tôn
giáo ngoại nhập hay chỉ là một thứ triết học dành cho các nhà thông
thái nghiên cứu. Thời đó đã qua rồi, thí dụ như là trường hợp nước
Pháp. Thất vọng trên lãnh vực chánh trị hay là nạn nhân của sự bất
ổn tinh thần càng ngày càng tăng, nhiều người đã đến với Phật Giáo
với hy vọng tìm thấy một giải đáp cho cuộc sống.
Tại Âu Châu, nước Pháp là nơi Phật Giáo
phát triển ngoạn mục và đa dạng nhất. Trong vòng 20 năm có gần 200
tự viện và trung tâm Phật Giáo được thành lập (1). Số lượng tín đồ
cũng tăng theo cùng một nhịp độ: số Phật tử gấp đôi trong vòng 10
năm: năm 1976 với 200,000 tín đồ, đến năm 1986 tăng lên 400,000. Đến
năm 1997 con số này lên tới 600,000. Bộ Nội Vụ và Sở Thống Kê đều
đồng ý với con số này. Phần lớn tín đồ của Liên Hiệp Phật Giáo tại
Pháp, quy tụ chừng 80% các hiệp hội Phật Giáo. Phật Giáo hiện là tôn
giáo lớn thứ 5 tại Pháp (2). Về phương diện tâm linh, Phật Giáo là
tôn giáo được người Pháp ưa chuộng vào hàng thứ ba. (3)
Bắt đầu từ thập niên 1960, ‘sự thành
công của Phật Giáo trước nhất là nhờ công của các Thiền Sư Nhật Bản
và Tây Tạng. Phật Giáo may mắn có mấy ‘mạnh thường quân’ theo Phật
Giáo, như nhà tỷ phú gốc Anh, Bernard Benson, khi đến lập nghiệp tại
Dordogne (Pháp) từ đầu thập niên 1970, đã mới các nhà sư Tây Tạng
đang tỵ nạn đến giảng pháp’. Một nhà xã hội học, Frederic Lenoir,
thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Liên Ngành Về Tôn Giáo, Tại Trường Nghiên
Cứu Khoa Học Xã Hội đã xác nhận như thế. Sau đó cuộc di dân vĩ đại
của sắc dân Á Châu, nhất là Việt Nam và Cam Bốt đã làm con số thống
kê tín đồ Phật Giáo tăng nhanh. Hai phần ba tín đồ Phật Giáo tại
Pháp là người Á Châu. Tuy nhiên số lượng tăng trưởng nhanh chóng này
không che khuất được sự kiện quan trọng: số lượng người Pháp chính
gốc theo đạo Phật cũng tăng gia nhanh chóng, dù chỉ chừng vài mươi
ngàn.
Số người theo đạo Phật thuộc nhiều
thành phần xã hội khác nhau: từ người thất nghiệp đến các chuyên
viên cao cấp của các đại xí nghiệp. Tuy nhiên thành phần chính theo
đạo Phật là thành phần thị dân trung lưu. Hiện tượng này phản ảnh rõ
ràng trong 2 cuộc nghiên cứu sâu rộng của Bruno Etienne và Raphael
Liogier (4). Hai ông ghi nhận là các người theo Phật Giáo nổi bật
nhất là thành phần Bác Sĩ, các nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, các người
trong ngành truyền thông (nhà giáo, ký giả) và chuyên viên xí
nghiệp. F Lenoir nghiên cứu rộng rãi hơn cho biết là phần lớn những
người theo đạo Phật có trình độ Đại Học và một số đông đảo trong
nghề Y Khoa và các nghề liên hệ. Số lượng nữ giới chiếm 60% và họ
cho biết hai lý do chính yếu khiến họ đến với Đạo Phật là bất bạo
động và tránh tranh chấp.
Động lực khiến Đức Phật đi tìm một con
đường giác ngộ là vì muốn làm giảm bớt đau khổ của con người. Đặc
tính này của Đạo Phật đã làm cảm hóa được những người hành các nghề
y khoa. Chính họ cũng là những người đối diện thường xuyên với những
nỗi đớn đau của con người. Triết lý buông xả của Đạo Phật cũng giúp
họ giải tỏa những phiền não của cuộc tồn sinh và giảm những khủng
hoảng thầm kín riêng tư như mất việc, mất địa vị trong xã hội...Như
các tín đồ của Soka Gakkai ‘phần lớn chừng 55 , 56 ngàn người đều ở
trong tình trạng bấp bênh, khủng hoảng chức vị....Sinh hoạt nội bộ
khiến họ tiết lộ những kinh nghiệm riêng tư, thường được thể hiện
như phương cách thích ứng, nếu không muớn nói là một thứ tâm lý trị
liệu bổ túc’, như Louis Hourmant, thuộc nhóm Xã Hội Học Tôn Giáo ở
Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học, một chuyên viên nghiên cứu
về giáo phái này nhấn mạnh.
Một điểm khác nữa là, việc không thỏa
mãn về tình huống chính trị cũng là bước đầu để người Pháp đến với
đạp Phật. B Etiene và R Lioger viết: ’Tư tưởng của Phật Giáo được
những người muốn thoát khỏi những bế tắc của sụ đối nghịch giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, xem đó như là một ước vọng giải
thoát để đem lại hạnh phúc cho loài người’. Lenoir nhận xét là:’Tất
cả những Phật Tử Pháp đầu tiên trong các thập niên 60-70 tiếp nhận
Đạo Phật như là một đối lực với văn hoá đương hành. Nhiều người đã
đoạn tuyệt với văn hóa cũ bằng cách trở thành một Phật Tử. Một số về
ẩn cư trong các tự viện. Họ đi sâu vào các hệ thống triết lý Tây
Phương và cả những lễ nghi tinh tế của truyền thống mà họ đã chọn’.
Như trường hợp của Matthew RICARD, nhà nghiên cứu sinh học bào tử
danh tiếng, đột ngột từ bỏ con đường công danh quy y Phật Giáo Tây
Tạng và đã trở thành một người thuần thành. Ông là thông dịch viên
cho Đức Đạt Lai Lạt Ma và là một phật tử Pháp tiên phong.
Một Dẫn Lực Kết Hợp
Xã Hội
Các tu sĩ bản xứ, Tây Tạng hay Thiền
Tông lần lược đóng vai trò truyền bá chánh pháp cho thế hệ Phật Tử
thứ hai, đông đảo hơn nhưng có lẽ ít dấn thân hơn. F Lenoir phát
biểu tiếp: ’Từ đó ít có Phật Tử nào đi vào đạo Phật như thế hệ
trước. Họ không muốn ra khỏi thế giới của họ và yêu cầu một lối thực
hành đơn giản, thích hợp với lối sống quen thuộc của họ’, Việc dịch
thuật các kinh luận nền tảng và sự uyển chuyển văn hoá của đạo Phật
có thể đủ thỏa mãn đòi hỏi của họ. Thêm vào đó các thực hành linh
động của đạo Phật rất hữu ích trong việc hình thành mô thức cho Phật
Giáo Pháp. Sự ra đời của Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Pháp được chanh
phủ thừa nhận ngay vào năm 1986, cùng với thái độ cởi mở của Phật
Giáo với các tôn giáo khác, đã xóa được nhãn hiệu ‘giáo phái phương
Đông’ (6). Sự thành công của Phật Giáo còn cho thấy sự khủng hoảng
của Ky Tô Giáo. Jack MARTIN, chủ tịch UBF ghi nhận: ’Gần 90% Phật Tử
người Pháp trước đây theo Ky Tô Giáo, đa số là Thiên Chúa Giáo. Sau
khi thất vọng não nề về các tôn giáo truyền thống, người Phật Tử
Pháp tìm thấy nơi Phật Giáo như con đường tâm linh’. Các Giáo Hội Ky
Tô bị phê phán là không có đối thoại (tất cả đều chỉ thị từ trên
xuống dưới). Michel BOVAY chủ tịch Hội Thiền Học Quốc Tế nói: ’Tôi
luôn luôn có cảm tưởng là có cái gì không lành mạnh trong xã hội
này, ở trường học cũng như trong gia đình, người ta không nói cho
tôi sự thật. Tôi đặt câu hỏi về sự chết và khi tôi hỏi các giáo sĩ
giải thích cho tôi về chúa Ky Tô hay Thiên Đàng, tôi không được ai
trả lời’. Tư cách của các tăng sĩ Phật Giáo làm giảm giá trị của các
giáo sĩ phục vụ chúa. Thầy Trí Tín ( người Pháp) tu tại Tu Viện Linh
Sơn (Phật Giáo Việt Nam) ở Joinville Le Pont vùng ngoại ô Paris nhớ
rõ những kinh nghiệm của mình ’Trong giáo lý người ta dạy tôi tình
yêu đối với người đồng loại. Vào năm 1939 khi tôi thấy các Giám Mục
làm lễ ban phép lành cho các khẩu đại bác, tôi chẳng hiểu ra làm sao
!". Khi đó Thầy mới 12 tuổi, bậy giờ Thầy đã 70 tuổi. Thầy trầm tĩnh
dạy giáo lý của Đức Phật cho những người Pháp nào muốn khám phá một
"tôn giáo duy nhất không hề đòi hỏi tín đồ gây chiến tranh để vinh
danh".
Sự bất lực càng ngày càng lớn của các
tôn giáo truyền thống lâu đời trong lĩnh vực tâm linh khiến nhiều
người càng đến gần Đức Phật:’ Ông Patrick, 53 tuổi, cựu chuyên viên
của hảng IBM đang sinh hoạt tại Trung Tâm Phật Giáo Tây Tạng Rigpa ở
Paris nói: ’Trước kia tôi theo Tin Lành và gia đình của tôi là một
gia đình Tin Lành thuần thành. nhưng tôi đã không tìm thấy ý nghĩa
về đức tin của tôi. Tôi đã sống trong tinh thần tư bản chủ nghĩa,
trong thế giới Tư Bản Chủ Nghĩa (Ông muốn nói đến luận đề của Max
Weber cho là Tin Lành là nền tảng của tư bản chủ nghĩa) nhưng không
còn bận tâm về những điều mà tôn giáo tôi đã giảng dạy. Chính nhờ
Phật Giáo mà tôi đã thực sự bước vào mối quan hệ với chính tôi’.
Cũng trong chiều hướng này B, Etienne và R. Liogier phát biểu: ’
Phật Giáo chứng tỏ là thế kỷ thứ 21 không phải là thế kỷ của tôn
giáo truyền thống như Andre Malraux nói mà là sự trở về con đường
tâm linh. Tâm linh không biến mất trong hoá trình hiện đại hóa,
nhưng chỉ biến dạng và có thể đưa ra những giải đáp khả tín cho
những lo âu xã hội phát sinh từ xã hội hiện đại’.
Trên bình diện thứ yếu hơn, Phật Giáo cho thấy
giới hạn của chánh sách hội nhập tại Pháp.Thí dụ như những người trẻ
gốc Á Châu thất vọng với những kiểu mẫu xã hội phương Tây, quay lại
gắn bó với những sinh hoạt cộng đồng của bậc cha mẹ. Ước mơ tiêu thụ
và làm giàu bị cơn khủng hoảng kinh tế làm tiêu tan, đẩy họ lại với
cội nguồn. L. Harmant xác nhận :’Sự bất an về ý nghĩa tồn sinh thấy
rõ ràng trong giáo phái Soko Gakkai. Ở đây người ta gặp các người
trẻ đến từ những vùng xa xôi của nước Pháp, những thiếu nữ Hồi Giáo,
nhất là từ Algeria, họ tìm thấy nơi Đạo Phật một phương cách giải
thoát họ khỏi những sự kềm kẹp gia đình mà không phải bị cái cảm
giác phản bội văn hoá truyền thống của họ vì không ai bắt họ cải đạo
khi sinh hoạt với Phật Giáo’.
Phật Giáo do đó thể hiện như là một dẫn lực kết hợp xã hội như F.
Lenoir nhận xét: ’Phật Giáo tạo điều kiện cho những cá nhân vụn vỡ
đơn độc (vì mất nền tảng gia đình, trao truyền những kinh nghiệm
riêng tư để cùng nhau học hỏi, Truyền thống được thực hành nhiều
nhất là Đại Thừa nhấn mạnh đến lòng từ bi phổ quát không phân biệt,
được diễn dịch như áp dụng một lý tưởng bao dung vào đời sống của
mỗi cá nhân. Qua đó chúng ta thấy lòng quảng đại trở thành giá trị
then chốt của xã hội’. Nói một cách khác, không những rủ bỏ hình ảnh
tiêu cực lẫn trốn thực tại mà trước đây người ta hay gán ép, Phật
Giáo góp phần tích cực vào trong việc tái phối tri xã hội.
Jean-Pierre, 52 tuổi, trước đây theo Cộng Sản kiểu Mao, hiện là giáo
sư Vật Lý tại Đại Học Toulon, phát biểu:’ Tôi vẫn tiếp tục dính líu
đến chính trị. Nhưng tôi tin tưởng vào những mối liên hệ gần gũi hơn
là các buổi họp, những đoàn đại biểu, những hoạt động này nọ’. Và do
đó không còn phải bận tâm về việc làm tan biến cá thể của mình trong
khối đông những người cùng phe phái. Theo vị Giáo Sư khả kính này,
việc làm cụ thể và có ích là ngăn chặn trào lưu chủ nghĩa quá khích
đang khuấy động tại Pháp và Tây Âu chính là ‘việc giảng dạy vật lý
học không phải là thực tại, mà là một cách nhìn về thực tại. Nói một
cách khác, là dạy cách phân biệt những hình ảnh người ta đưa ra về
thực tại với chính thực tại’.
Là ‘tôn giáo theo yêu cầu’ Phật Giáo đang phục vụ những nhu cầu tâm
linh của thời đại. Người ta cũng thấy sự kiện này nơi các tôn giáo
độc thần mới (7) Nhưng trong Phật Giáo còn một hiện tượng phụ khác.
B. Etinne và R. Liogier viết: ’Chúng tôi giả thiết rằng khối lượng
sách báo công trình nghiên cứu của Tây Phương cho những vấn đề của
chính mình, cũng phù hợp với yêu cầu của Phật Giáo’. Và hai ông thấy
là các nhà xã hội học đang nghiên cứu về hiện tượng này.
Khánh Hải Triều Quang
chuyển ngữ từ bài viết của Alain Renon
trên tờ Le Monde Diplomatique
La « tentation »
bouddhiste en
France
(tháng 12, 1997 . Paris 1.98)
Chú thích:
* Ở đây chúng tôi dịch sát nghĩa chữ
‘de’ vì tiếng Pháp phân biệt 3 loại Phật Giáo, như tiến trình : từ
Bouddhisme en France (Phật Giáo Tại Pháp- có thể là Phật Giáo Tây
Tạng đang sinh hoạt tại Pháp) thành Bouddhisme de France (Phật Giáo
của Pháp do dân Pháp mở ra và quản lý theo luật của nước Pháp) và có
lẽ không bao lâu nữa, sẽ thành Bouddhisme Francais (Phật Giáo Pháp-
có sắc thái văn hóa Pháp).
(1)Trong đó Tây Tạng có 84 trung tâm,
Thiền Nhật Bản có hơn 90
(2) Sau Thiên Chúa Giáo , Hồi Giáo (4
triệu rưỡi), Tin Lành (950,00) và gần bằng Do Thái Giáo
(3) Theo thống kê thăm dò dư luận cũa
hãng Sofret: Khi được hỏi tôn giáo nào được ông bà ưa thích nhất, 5%
trên 2 triệu người Pháp trên 18 tuổi trả lời là Phật Giáo.
(4) Trong quyển Être Bouddhiste en
France, nxb Hachette, Paris, 1997 nhiều tác giả, chủ trì bởi Bruna
Etienne, Giám Đốc Cơ Quan Quan Sát Các Vấn Đề Tôn Giáo thuộc Viện
Nghiên Cứu Chính Trị Đại Học Aix-en-Provence
(5) Luận Án trên đề tài Phật Giáo tại
Pháp và tại Âu Châu, sẽ phát hành vào năm 1998.
(6) Ngoài Sokko Gakkai bị xem là một
giáo phái từ năm 1984, trong báo cáo đầu tiên trình quốc hội Pháp.
(7) Trong bài ‘Vers une Religiosité
Sans Dieu’ (Tiến tới một tôn giáo tính không Thượng Đế) trên báo Le
Monde Diplomatique tháng 9 1997 của Florence BEAUGÉ.
Trên bình diện thứ yếu hơn, Phật Giáo
cho thấy giới hạn của chánh sách hội nhập tại Pháp.Thí dụ như những
người trẻ gốc Á Châu thất vọng với những kiểu mẫu xã hội phương Tây,
quay lại gắn bó với những sinh hoạt cộng đồng của bậc cha mẹ. Ước mơ
tiêu thụ và làm giàu bị cơn khủng hoảng kinh tế làm tiêu tan, đẩy họ
lại với cội nguồn. L. Harmant xác nhận :’Sự bất an về ý nghĩa tồn
sinh thấy rõ ràng trong giáo phái Soko Gakkai. Ở đây người ta gặp
các người trẻ đến từ những vùng xa xôi của nước Pháp, những thiếu nữ
Hồi Giáo, nhất là từ Algeria, họ tìm thấy nơi Đạo Phật một phương
cách giải thoát họ khỏi những sự kềm kẹp gia đình mà không phải bị
cái cảm giác phản bội văn hoá truyền thống của họ vì không ai bắt họ
cải đạo khi sinh hoạt với Phật Giáo’.
Phật Giáo do đó thể hiện như là một dẫn
lực kết hợp xã hội như F. Lenoir nhận xét: ’Phật Giáo tạo điều kiện
cho những cá nhân vụn vỡ đơn độc (vì mất nền tảng gia đình, trao
truyền những kinh nghiệm riêng tư để cùng nhau học hỏi, Truyền thống
được thực hành nhiều nhất là Đại Thừa nhấn mạnh đến lòng từ bi phổ
quát không phân biệt, được diễn dịch như áp dụng một lý tưởng bao
dung vào đời sống của mỗi cá nhân. Qua đó chúng ta thấy lòng quảng
đại trở thành giá trị then chốt của xã hội’. Nói một cách khác,
không những rủ bỏ hình ảnh tiêu cực lẫn trốn thực tại mà trước đây
người ta hay gán ép, Phật Giáo góp phần tích cực vào trong việc tái
phối tri xã hội. Jean-Pierre, 52 tuổi, trước đây theo Cộng Sản kiểu
Mao, hiện là giáo sư Vật Lý tại Đại Học Toulon, phát biểu:’ Tôi vẫn
tiếp tục dính líu đến chính trị. Nhưng tôi tin tưởng vào những mối
liên hệ gần gũi hơn là các buổi họp, những đoàn đại biểu, những hoạt
động này nọ’. Và do đó không còn phải bận tâm về việc làm tan biến
cá thể của mình trong khối đông những người cùng phe phái. Theo vị
Giáo Sư khả kính này, việc làm cụ thể và có ích là ngăn chặn trào
lưu chủ nghĩa quá khích đang khuấy động tại Pháp và Tây Âu chính là
‘việc giảng dạy vật lý học không phải là thực tại, mà là một cách
nhìn về thực tại. Nói một cách khác, là dạy cách phân biệt những
hình ảnh người ta đưa ra về thực tại với chính thực tại’.
Là ‘tôn giáo theo yêu cầu’ Phật Giáo
đang phục vụ những nhu cầu tâm linh của thời đại. Người ta cũng thấy
sự kiện này nơi các tôn giáo độc thần mới (7) Nhưng trong Phật Giáo
còn một hiện tượng phụ khác. B. Etinne và R. Liogier viết: ’Chúng
tôi giả thiết rằng khối lượng sách báo công trình nghiên cứu của Tây
Phương cho những vấn đề của chính mình, cũng phù hợp với yêu cầu của
Phật Giáo’. Và hai ông thấy là các nhà xã hội học đang nghiên cứu về
hiện tượng này.
|
|