.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Nhất tâm đảnh lễ : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Đệ Tứ Tăng Thống - kiêm Giám viện Tu viện Nguyên Thiều thượng Huyền hạ Quang Đại lão Hòa thượng Tân viên tịch chi Giác Linh !


Chung quanh
lễ Tang ôn Tăng Thống (phần II)

T

ôi đã viết Phần I để hầu chuyện Ôn. Nay viết tiếp Phần II để thưa chuyện cùng chư tôn thiền đức Tăng Ni trong và ngoài nước, cũng như tất cả quý đạo hữu, quý phật tử, quý huynh trưởng và đoàn sinh GĐPTVN trên thế giới, và tất cả những ai có liên hệ trước, trong và sau tang lễ Ôn Tăng Thống.

Những chuyện muốn nói, đều đã trở thành quá khứ, nên bỏ qua. Nhưng quá khứ sai lầm, nếu không nhắc đến một lần để kiểm điểm, sửa sai, tránh lỗi cho tương lai, sẽ bị lặp lại ở thời gian khác, địa điểm khác. Vì vậy, cần phải nói.

Trước tang lễ, trong nước có những bài báo và một vài thư rơi gửi qua email, nói về việc “ông Quảng Độ” hoặc “nhóm Quảng Độ” sẽ lợi dụng tổ chức lễ tang Hòa thượng Thích Huyền Quang, để “công khai hóa một tổ chức bất hợp pháp của họ, mang tên ‘Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất’.” Sau đó là phản ứng từ Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, tố cáo rằng nhà nước CSVN “giành quyền” và “giành giật” (chữ dùng của ông VVA) tổ chức tang lễ của Hòa thượng Thích Huyền Quang, kêu gọi các chính khách, dân biểu, tổ chức nhân quyền của Hoa Kỳ lên tiếng can thiệp, “yêu sách Hà Nội để cho GHPGVNTN tự do tổ chức lễ tang đức Đệ Tứ Tăng Thống.” Người ở ngoài nước chẳng biết thực hư ra sao về sự việc giằng co giữa nhà nước và giáo hội, nhưng qua các lời tố cáo của hai phía, người ta thấy sự bất kính của những người phát ngôn (của cả hai phía: vài tờ báo của cộng sản và PTTPGQT) đối với một bậc cao tăng của GHPGVNTN nói riêng, và Phật giáo Việt Nam nói chung. Trong nỗi đau buồn mất mát về sự ra đi của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Tăng Ni và Phật tử bỗng thấy nổi cộm lên những lời qua tiếng lại rất ồn ào, nặng nề, sặc mùi chính trị, tạo nên hình ảnh không đẹp cho không khí lễ tang. Nghi ngờ và gán cho chư tôn đức Viện Hóa Đạo là âm mưu “ra mắt” GHPGVNTN trong dịp lễ tang, chính là hành vi bất kính đối với người nằm xuống; mà lên tiếng rùm beng cho rằng nhà nước “giành giật” lễ tang của giáo hội cũng là thứ ngôn ngữ bất kính với đức Tăng thống của mình. Lễ tang là lễ tang, làm gì có chuyện lợi dụng này nọ, cũng không phải là một món vật để “giành giật” qua lại. Những người phát ngôn bất kính như vậy đều không phải là Phật tử, không phải là môn đồ pháp quyến, cũng không phải là thành viên GHPGVNTN (dù cũng có người mang chức danh của giáo hội), mà chỉ là những người ở ngoài, chẳng có liên hệ gắn bó gì với bậc cao tăng nằm xuống. Họ là những người thuộc các thế lực chính trị cho nên chỉ nhìn thấy màu sắc chính trị và tô vẽ màu sắc chính trị cho lễ tang. Các chính khách, các dân biểu nước ngoài, các nhà đấu tranh chống Cộng thuộc những tổ chức đảng phái hay tôn giáo khác ở hải ngoại hăm hở nói hùa theo, bơm phồng hiện tượng “giành giật” lễ tang, thậm chí có người còn dùng những từ ngữ thô lậu, vô lễ, quá xúc phạm, như “cướp xác,” hoặc “giành xác chết”… Chung qui cũng chỉ vì chính trị, chính trị, chính trị… Rồi cứ la lối, lên án người ta đã “chính trị hóa” tang lễ của Ôn Tăng Thống! Người ta nào? Người ta là ai? Hãy tự hỏi chính mình trước.

Ngay từ ngày đầu khi Ôn Huyền Quang viên tịch, báo chí của nhà nước thật quá xúc phạm, vô lễ, kém văn hóa, khi gọi các vị cao tăng của Phật giáo bằng từ “ông” này, “nhóm” nọ, ngoài việc gán cho chư tôn đức Viện Hóa Đạo GHPGVNTN những âm mưu, ý đồ thế này thế khác đối với tang lễ. Nhưng đây là ngôn ngữ đời thường của những kẻ làm việc theo chính sách, theo chỉ thị, những kẻ chỉ biết vâng lệnh cấp trên, không kể gì lễ nghi tối thiểu của con người trên đất nước bốn ngàn năm văn hiến. Trách họ thì cũng nên tự trách ta. Họ nghe và thấy “phát ngôn nhân” Viện Hóa Đạo GHPGVNTN thường xuyên nguyền rủa, chưởi bới, nhục mạ chư tôn đức Tăng Ni không cùng quan điểm, hoặc không chịu tuân phục những sắp xếp điều hành của phát ngôn nhân này, nên họ xem thường Tăng Ni và dùng ngôn ngữ thiếu lễ độ đối với Tăng Ni thì cũng là do người của Giáo hội “vẽ đường cho hươu chạy” mà thôi. Một người xưng là Phật tử, xưng là trí thức, khoa bảng, hoạt động cho văn hóa, nhân quyền, mang trách nhiệm là “phát ngôn nhân” của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, có thể dùng những thứ ngôn ngữ thiếu văn hóa và vô cùng hỗn xược đối với Tăng Ni thì làm sao trách được những kẻ từng bị châm biếm là vô học, rừng rú dùng ngôn ngữ ấy đối với các Tăng Ni mà họ cho là chống đối lại họ!

Trong thời gian tang lễ, ở Nguyên Thiều và nhiều tự viện khác ở quốc nội và hải ngoại, đồng loạt tổ chức lễ tang, tưởng niệm Ôn Tăng Thống. Niềm đau và lòng thành của mỗi Tăng Ni, Phật tử hướng về bậc cao tăng suốt đời phụng sự Đạo pháp và Dân tộc như Ôn Tăng Thống là tình cảm thiêng liêng, đạo vị, tha thiết và thâm sâu. Dù bỏ một bên ngôi vị Tăng Thống của giáo hội, Ôn Huyền Quang vẫn là bậc cao tăng trưởng thượng đáng tôn kính của Phật giáo Việt Nam mà bất kỳ Tăng Ni Phật tử nào khi nghe tin Ngài viên tịch, cũng đau xót, nghiêng mình tưởng niệm, và nếu có đạo tràng nào tổ chức lễ thọ tang thuận tiện nhất, họ sẽ tự động đến dự. Đây là tâm thái và đạo lý tự nhiên của người sống đối với người đã mất, dù ở thế gian hay ở trong đạo. Do vậy, ngay ở Lễ Tưởng Niệm và Thọ Tang sớm nhất được tổ chức tại Chùa Bảo Quang, miền Nam California vào ngày 6/7/2008, gần 200 Tăng Ni Việt Nam (xin nhấn mạnh: Tăng Ni Việt Nam – là những Tăng Ni thọ ân và biết rõ Ôn Huyền Quang là ai, ở vị trí nào trong nền Phật giáo Việt Nam) đã tự động đến dự lễ trong một không khí rất trang nghiêm, xúc động. Một số vị có mặt trong buổi lễ này đã từng có thời gian làm việc chung với Ôn Tăng Thống, một số vị khác học trò, một số vị chưa bao giờ gặp Ôn nhưng luôn quí kính và nghe danh thơm của Ôn, và đặc biệt có vị đệ tử xuất gia duy nhất của Ôn tại hải ngoại là Thượng tọa Thích Minh Dung, đại diện môn đồ pháp quyến đọc ai văn trước linh đài. Điều kỳ lạ là trong khi buổi lễ đầy đạo tình này diễn ra, lại có vài người đứng biểu tình cầm loa hô những khẩu hiệu và câu quyết do ai đó viết sẵn, nhắm vào hướng những người dự lễ. Ở bài viết trước đây, Phần I, tôi cho những người biểu tình chưởi bới trước đám tang như vậy là những người “vô học, thiếu văn hóa”. Nay lại được tai nghe mắt thấy một người đầu tròn, khoác tăng y, trả lời phỏng vấn một đài truyền hình online, cho rằng Tăng Ni và Phật tử tổ chức lễ thọ tang ở Chùa Bảo Quang là “mị dân”, tôi thật đau xót và tủi nhục thay cho Phật giáo Việt Nam đã nuôi dưỡng và chấp chứa một con người như thế!

Phóng viên hỏi lý do tại sao Tăng Ni và các chùa ở miền Nam California không đến tham dự lễ tưởng nguyện và thọ tang tại Chùa Diệu Pháp ngày 13/7/2008, nhưng người trả lời không dám nói sự thực, mà đã cố gắng chuyển “mũi dùi” của người phỏng vấn qua đối tượng khác; không tự nhìn nhận rằng Văn Phòng II đã mất uy tín, mất chính nghĩa, mất hết đạo tình, đạo lý đối với Tăng Ni và Phật tử Việt Nam hải ngoại, mà chỉ lo chỉ trích, kết tội, xuyên tạc, dè bỉu lễ tang của đại khối Tăng Ni và Phật tử ấy. “Có rất nhiều nhà sư Sri Lanka, Thái Lan, và ngoại quốc, và rất ít Tăng Ni Việt Nam đến tham dự lễ tại Chùa Diệu Pháp,” đài truyền hình nói như vậy trong bản tin là họ đã thừa biết thực trạng và lý do tại sao Văn Phòng II tổ chức sau một tuần (để đủ thời gian kêu gọi, vận động Tăng Ni Phật tử tham dự), mà rồi cuối cùng vẫn chỉ thấy các nhà sư xa lạ nước ngoài, không ai biết họ và họ cũng chỉ biết Ôn Tăng Thống một cách đại khái qua tên và ngôi vị của Ngài mà thôi. Và đây là lời của người đầu tròn, áo vuông, có tên đạo là CL[1] , trả lời cho phóng viên truyền hình online vì sao Tăng Ni ở miền Nam California không đến tham dự lễ tại Chùa Diệu Pháp:

“Những người đó theo giáo chỉ số 9 thì đó là những người đã xây lưng với giáo hội… họ là tu sĩ mà họ lại xây lưng lại với giáo hội, họ đã bất kính đối với đức Đệ tứ Tăng thống, và họ là người Việt Nam tị nạn cộng sản nhưng mà họ đã đánh mất căn cước tị nạn, thành ra họ đã làm những việc không tốt… Họ cũng tổ chức lễ tang nhưng theo Thầy nghĩ đó chỉ là cách mị dân. Vì họ sợ những người Việt Nam tị nạn cộng sản nói chung, Phật tử nói riêng, không ủng hộ, không bằng lòng họ, mà như không bằng lòng thì sự sống còn của họ sẽ rất là mệt, do đó họ phải làm với tính cách mị dân để mong rằng làm như vậy là họ thương giáo hội, thương đức Tăng Thống, nên họ làm như vậy để che mắt, chứ thực ra một con người mà đã không khâm tuân, không nghe lời cha mẹ mà còn chưởi bới cha mẹ thì không thể nào khi cha mẹ nằm xuống mà làm thế này thế kia, chỉ là giả dối, không thiệt tâm của họ…”

Phỉ báng và vu khống kẻ khác là điều mà một tỳ kheo không bao giờ làm, huống gì tội phá hòa hợp tăng, dè bỉu và sỉ nhục cả một tập thể Tăng, là điều mà ngay cả một Phật tử bình thường nhất cũng không làm, không phải chỉ vì sợ phạm vào ngũ nghịch tội [2], mà chính vì thiện tâm, tín tâm của họ không cho phép. Nhưng trường hợp của CL thì không thế qui chiếu nơi giới luật tỳ kheo (vì không xứng và không còn là tỳ kheo để qui chiếu), cũng không thể qui chiếu nơi hành xử của người tại gia ngũ giới bình thường (vì thiện nam tín nữ thì không thể dấn sâu vào một trong năm tội đại nghịch). Chỉ xét theo đạo lý làm người trong truyền thống văn hóa Việt cũng đủ thấy rằng một con người công khai hủy nhục, xúc phạm một ngàn người đang thành tâm dự tang lễ, là một hành vi “vô học, thiếu văn hóa” (nhóm từ mà tôi đã dùng để gọi những người biểu tình chống phá tang lễ trước chùa Bảo Quang ngày 6/7/2008). Nhóm từ này dùng cho ông CL cũng đúng, nhưng chưa đủ. Phải dùng chữ “vô đạo” của nền văn hóa Việt mà Tổ Tiên Ông Bà chúng ta thường dùng để gọi một con người vô luân, bất trị, không còn luân thường đạo lý và, nói nôm na theo cách của thời nay là “hết thuốc chữa”.

Có thể coi như CL đã nói thay tiếng nói của VPII trong cuộc phỏng vấn nói trên. Còn nếu Văn Phòng II không đồng quan điểm với CL hẳn là đã công khai ngỏ lời xin lỗi, sám hối với Tăng đoàn miền Nam California về sự bất kính, vô lễ, xúc phạm tâm thành của hơn hai trăm Tăng Ni (chưa kể hơn bảy trăm Phật tử) tham dự lễ tang Ôn Tăng Thống.

Quí vị có thể bấm vào www.littlesaigontv.com/thursday.html (phát hình vào Thứ Năm ngày 17/7/2008) để xác thực về những gì tôi trích dẫn ở trước, đồng thời cũng lắng nghe vài câu trả lời của bên phía những vị Tăng mà CL gọi là “mị dân”, để thấy rằng, những vị này vì trong thời gian đang thọ tang, không muốn phát biểu bất cứ điều gì đi ngược với tâm nguyện và đạo hạnh của Ôn Tăng Thống, nhưng cũng phải miễn cưỡng trả lời phỏng vấn của đài truyền hình về tính cách “mị dân” do CL phun vấy vào họ. Họ đã không chỉ trích hay tỏ một ý tiêu cực nào về lễ tưởng nguyện tại Chùa Diệu Pháp, mà chỉ cho biết rằng sở dĩ họ không tham dự buổi lễ ấy vì đã thọ tang Ôn Tăng Thống vào tuần lễ trước tại Chùa Bảo Quang rồi; hoặc vì buổi lễ của Chùa Diệu Pháp trùng ngày với buổi lễ do môn đồ pháp quyến của Ôn Tăng Thống là Thượng tọa Thích Minh Dung tổ chức tại Chùa Quang Thiện; hoặc vì Chùa Quang Thiện gần hơn; hoặc vì không có người lái xe đưa đi.

Đó là những nhức nhối, đau lòng của thời gian tang lễ, bao gồm các lễ tưởng niệm và thọ tang tại hải ngoại.

Bây giờ hãy nhìn về tương lai, những gì có thể xảy ra sau tang lễ Ôn Tăng Thống.

Trước ngày cung nghinh kim quan nhập tháp, 11/7/2008, chúng ta thấy hình ảnh hai thế lực chính trị (nhà nước cộng sản và PTTPGQT) cầm loa tố cáo qua lại với nhau, làm ầm ĩ, huyên náo, mất thanh tịnh cho lễ tang của Ôn Tăng Thống, khiến cho một số Tăng Ni và Phật tử dù hết lòng quí kính Ôn, cũng không muốn bị dây dưa phiền lụy, và thay vì thân hành đến cung tiễn kim quan nhập tháp, họ đã thắp hương từ đạo tràng của chùa, tịnh xá, tư gia, từ các địa phương, các tỉnh thành, các nước, hướng vọng về Nguyên Thiều, thành kính đảnh lễ. 800 vị Tăng và gần 200 vị Ni dự lễ nhập tháp tại tu viện Nguyên Thiều, đa phần thuộc các sơn môn, pháp phái tại Bình Định, một cái nôi to lớn của Phật giáo miền Trung. Gia Đình Phật Tử cũng được huy động đông đảo, khoảng 2000 đoàn viên đến hầu và phục vụ tang lễ suốt nhiều ngày. Cuối cùng, lễ cung nghinh kim quan nhập tháp cũng diễn ra thật trang nghiêm, hùng tráng và hết sức cảm động. Đây chính là do nơi đạo lực của Ôn, một bậc cao tăng mà ngay nơi đạo hiệu đã nêu đủ hành trạng và tâm đức của Ngài: Như An (Dũng), Giải Hòa (Bi), Huyền Quang (Trí); và cũng do nơi đạo lực của hiện tiền Tăng có mặt, trên một nghìn tỳ kheo, tỳ kheo ni. Theo dõi hình ảnh được đăng tải sớm và đầy đủ nhất từ các trang Hải Triều Âm, Pháp Vân, Quảng Đức, chúng ta thấy lễ nhập tháp thật vô cùng trang nghiêm, tịch mặc, và mọi người an lòng, toại nguyện.

Trong khi đó, ông VVA, qua PTTPGQT lại thêm lần nữa bất kính với Ôn Tăng Thống, bất kính với chư tôn đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, và bất kính với Tăng Ni Việt Nam từ các tỉnh, đặc biệt là Tăng đoàn Bình Định, khi cho rằng Sự kiện nhà cầm quyền Hà Nội đã không dám xâm lấn giành giật tổ chức lễ tang như chiến dịch rầm rộ trên báo đài mấy ngày qua, là một thắng lợi lớn lao của cộng đồng nhân quyền thế giới, và cũng là kết quả của những sự lên tiếng và áp lực đồng tiến của các nhà ngoại giao, đại biểu Quốc hội và các xã hội dân sự trên toàn cầu. Nhờ vậy, sự tập họp đông đảo chưa từng thấy của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử thuộc GHPGVNTN trong cuộc tiễn đưa Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang về nơi an nghỉ, sau một đời Ngài tận tụy với nhân sinh, đất nước và đạo pháp…” Đây là một tuyên bố hỗn láo của một người tự tôn và nhiều hoang tưởng. Đạo hạnh của Ôn Tăng Thống, đạo lực của Tăng đoàn Việt Nam bao gồm GHPGVNTN, GHPGVN cùng chư sơn môn pháp phái không nằm trong tổ chức giáo hội nào, không lẽ không tạo nên được một y báo trang nghiêm, thanh tịnh và hòa hợp cho lễ tang một bậc cao tăng hay sao mà phải cậy nhờ đến can thiệp vu vơ và xa xôi của các dân biểu và các chính khách sa-lông! Tăng đoàn Việt Nam ngày nay không lẽ tan nát đến độ không giải quyết được những bất ổn ngoại tại và nội tại cho một lễ tang một bậc trưởng lão tỳ kheo hay sao! Năm 1992, một mình Ôn Huyền Quang tự động rời Chùa Hội Phước Quảng Ngãi (nơi Ngài bị lưu đày, quản thúc), một mình thân lâm dự lễ tang Ôn Linh Mụ, lúc đó không có Hội Đồng Lưỡng Viện, không có Viện trưởng VHĐ, không có Tăng Thống, không có bất cứ một Tổng vụ trưởng hay Chánh Đại Diện Miền, Chánh Đại Diện Tỉnh nào tháp tùng cả; vậy mà Ôn ứng khẩu tuyên bố trùng quang giáo hội giữa hàng ngàn Tăng Ni và Phật tử qui phục, và giữa vòng vây của công an (thời ấy hãy còn khắt khe gấp trăm lần bây giờ), có cần phải nhờ đến bất cứ một thế lực quốc tế nào không!? Đã vậy, khi Ôn dõng dạc cất lời nguyện phục hoạt giáo hội trước kim quan Ôn Linh Mụ, lại bị một Thượng tọa cắt điện, cúp âm thanh (vị này bây giờ là một Hòa thượng ngồi trong VTT), khiến Ôn phải gắng hơi sức để nói to trước hàng vạn người. Hãy ôn lại cảnh ấy, để thấy rằng đâu là sức mạnh của Tăng đoàn. Tăng đoàn, sơn môn Huế đã phủ phục lắng nghe Ôn, biểu đồng tình với Ôn, tạo nên không khí trang nghiêm của lễ tang mà không ai, ngay cả chính quyền lúc đó, có thể quấy phá can thiệp được. Bây giờ, Tăng đoàn toàn quốc và Tăng đoàn Bình Định ở đâu, Hội đồng Lưỡng Viện ở đâu, các vị Chánh Đại Diện tỉnh thành ở đâu, mà theo ông VVA, mọi việc êm đềm thuận lợi của lễ tang đều nhờ sự lên tiếng can thiệp của quốc tế! Thật là vọng ngoại và tha hóa một cách lố bịch, ngông cuồng.

Bây giờ hãy nói đến chuyện Chúc Thư của Ôn Tăng Thống. Trước khi viên tịch, Ôn có chính thức để lại Chúc Thư hay không thì chỉ vài người, hoặc một người biết mà chưa tiện công bố. Những người quan tâm đến hiện tình và tiền đồ Phật giáo, mong Ôn nhắn gửi đôi điều may ra đánh thức và khích lệ những người ở lại hòa hợp, đoàn kết để cùng chỉnh đốn, xây dựng, phục hoạt giáo hội. Những người quan tâm đến địa vị của mình trong tổ chức giáo hội thì mong rằng Ôn không để lại Chúc Thư gì cả, vì nếu có Chúc Thư sẽ có những lời ngay thật và góp ý của Ôn trong việc xây dựng và sắp xếp nhân sự của giáo hội theo ý của Ôn; như vậy sẽ lộ hết chân tướng những người từng lạm dụng danh nghĩa của Ôn để ra giáo chỉ này, thông bạch nọ.

Cho nên, trong khi những môn đồ pháp quyến “thực thụ” của Ôn thương tiếc và bận bịu bối rối với lễ tang, cũng như việc cư tang, thì một thiểu số người đang lo lắng không biết Ôn có để lại chúc thư nào hay không, và đã trao chúc thư cho ai. Họ mong rằng Ôn không để lại chúc thư gì cả, hoặc nếu để lại chúc thư thì chúc thư đó chỉ trao riêng cho họ. Trong trường hợp Ôn không để lại chúc thư, họ sẽ quyền biến tạo ra chúc thư thích hợp hoàn cảnh, tâm lý và kế sách của họ; còn nếu Ôn có để lại chúc thư và chúc thư đó nằm trong tay họ thì họ sẽ “phương tiện thiện xảo” mà thay đổi nội dung chúc thư, miễn sao nhắm đến mục đích bảo vệ giáo hội đúng theo ý của họ là được rồi. Điều họ sợ nhất là Ôn có để lại chúc thư nhưng lại không trao cho họ mà trao cho một môn đồ pháp quyến mà họ không kiểm soát được, hoặc một vị giáo phẩm tín cẩn đặc biệt nào đó của Ôn. Không lường trước được có hay không có chúc thư thật, họ múa chiêu thức “vũ lộng giả-chân”, trước hết là phao tin đồn sẽ có lễ suy tôn và danh sách Hội đồng lưỡng viện trong Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang tại Chùa Diệu Pháp ngày 13/7/2008. Tin đồn này nhằm xác định là chúc thư “thật” đã có trong tay họ rồi. Tin ấy được đăng tải chính thức trên mạng Calitoday suốt nhiều ngày, nói là tin từ Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (PTTPGQT); nhưng mặt khác, cũng trang lưới này phỏng vấn Thượng tọa Viên Lý về sự kiện suy tôn và danh sách mới này thì được trả lời là hoàn toàn không nghe, không biết gì. (Sau Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang ở Chùa Diệu Pháp, bản tin này đã được lấy xuống). Cũng có người nhận xét rằng sở dĩ PTTPGQT nói là sẽ có lễ suy tôn và danh sách mới của Hội đồng lưỡng viện là vì ông VVA đã soạn sẵn danh sách này rồi, muốn công bố sớm trước khi có chúc thư thật đưa ra; nhưng vì bên nhà muốn công bố Chúc Thư vào dịp chung thất Ôn Tăng Thống nên VVA đành thuận theo. Một tuyên bố khác của ông VVA trước phóng viên đài Little Saigon TV ngày 17/7/2008 cũng chứng minh rằng ông VVA đã có sẵn “Chúc Thư” dù rằng VHĐ cho biết sẽ công bố vào dịp Lễ Chung Thất Ôn Tăng Thống ở trong nước vài tuần nữa. Chúc thư của Ôn Tăng Thống nếu có để lại thì chỉ có chư vị trưởng lão trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương mới có thẩm quyền mở ra, một cách công khai, và công bố trước Hội Đồng Lưỡng Viện. Ông VVA chỉ là một phát ngôn nhân đang ở ngoài nước, làm sao biết được nội dung thế nào mà nói là “đã biết mà chưa được phép tiết lộ vì chưa có lệnh của giáo hội”! Chẳng phải là ông đã có sẵn một chúc thư, một danh sách sắp xếp nhân sự mới rồi hay sao! Ông nôn nóng muốn công bố “chúc thư” trên tay ông, nhưng phải gắng nhẫn nại chờ đợi. Thời gian từ lễ nhập tháp đến ngày chung thất là thời gian thử xem có chúc thư của Ôn Tăng Thống xuất hiện từ một người nào hay không, cũng vừa đủ để nghe ngóng tình hình và quyết định đưa ra một chúc thư như ý. Thời gian ấy đối với ông VVA như ngồi trên lửa, không biết được chúc thư thật sẽ xuất hiện lúc nào, và từ đâu đưa ra. Nếu có một chúc thư thật, bất kể từ đâu và lúc nào công bố, cả sự nghiệp và mọi toan tính của VVA và CL sẽ tiêu thành tro bụi. Do đó, có thể sẽ có một chiêu đánh phủ đầu trước: tung ra chúc thư giả, tạo một trận hỏa mù trước khi công bố chúc thư “thật giả” được soạn sẵn. Chiêu thức tung hỏa mù chúc thư giả này, vừa có cơ hội để tấn công những kẻ đối lập mà họ rất thù ghét và hãi sợ, vừa khiến cho chúc thư thật nếu có được đưa ra từ môn đồ pháp quyến hay từ những người tín cẩn của Ôn Tăng Thống sẽ không được mọi người tin nữa. Sau khi trận hỏa mù Chúc Thư giả tung ra rồi, VVA lập tức tuyên bố trong Thông cáo báo chí ngày 22/7/2008 là “Vậy từ đây đến đó, mọi văn kiện tiếm danh Đức cố Đệ tứ Tăng thống đều là tài liệu giả”. Từ đây đến đó tức là đến l chung thất, ngày sẽ công bố “Di chúc và Giáo chỉ sắp đặt việc Phật sự tại hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo” theo tuyên bố của Thượng tọa Thích Viên Định vào ngày 11/7/2008 mà ông VVA trích dẫn. Với lời tuyên bố trên, họ xem như đã tạm thời yên tâm trong việc triệt hủy chúc thư thật trước khi nó xuất hiện.

Theo hướng đó, người ta thấy trước những chi tiết sau đây sẽ xuất hiện trong Chúc Thư “được coi là thật”, được soạn từ Paris và công bố vào Lễ Chung Thất của Ôn Tăng Thống sắp tới, trong nước và hải ngoại:

-          Suy tôn HT VT VHĐ lên ngôi vị Tăng Thống hoặc Xử lý Thường Vụ VTT (thực ra, đúng theo Hiến chương, Đức Tăng Thống không có thẩm quyền trao ngôi vị Tăng thống kế nhiệm cho vị khác mà phải do Đức Phó Tăng Thống trong vòng 100 ngày kể từ khi Đức Tăng Thống viên tịch, triệu tập Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương để suy tôn tân Tăng thống);

-          HT QĐ có quyền quyết định trong việc kiện toàn, chấn chỉnh, thay đổi, hoặc hoán chuyển nhân sự để đối ứng với mọi tình huống (nhằm bao che cho những hành động sai lầm phạm phải qua Giáo chỉ số 2 và số 9);

-          HT Hộ Giác lên ngôi vị Phó Tăng Thống;

-          HT CL làm Chủ tịch VPII;

-          TT Thích Viên Định làm Viện trưởng VHĐ;

-          Sắp xếp những nhân sự khác của giáo hội trong và ngoài nước theo đề nghị của Ôn (mà thực ra là ý của ông VVA – vì chính HT VT đã có lần thưa với Ôn Tăng Thống là phần hành chánh và nhân sự thuộc về VHĐ, không phải phần việc của Tăng Thống. Cho nên các giáo chỉ lưu nhiệm hay chúc thư sắp xếp nhân sự phải biết là không phải phần việc của Tăng Thống. Ngài chỉ có thể đề nghị, yêu cầu quan tâm điều này điều kia mà thôi)…

-          Giáo chỉ số 2 và số 9 do Tăng thống ban hành rất là cần thiết, nếu chưa khâm tuân thì hãy khâm tuân; xin khen ngợi những vị chí thành khâm tuân (lại cố gắng chứng minh và gán cho Ôn Tăng Thống hai quyết định sai lầm trầm trọng này đối với lịch sử giáo hội)

-          Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế lâu nay làm việc rất tích cực và hữu hiệu, giáo hội ta nhờ PTTPGQT mà phát triển mạnh, được quốc tế biết đến, và được tồn tại đến hôm nay, cho nên cần duy trì và phát triển cơ quan thông tin và vị phát ngôn nhân này (đây là chi tiết quan trọng mà bất cứ văn kiện nào của Giáo hội cũng phải nêu ra, nếu không thì Giáo hội sẽ bị tiêu diệt ngay, không còn ai bảo vệ được!)…

Đó là những điều mà người ta muốn đưa vào Chúc Thư, không màng đến tâm nguyện và hoài bão thực sự của Ôn Tăng Thống đối với giáo hội và Phật giáo như thế nào. Và nếu Chúc Thư, giả giả, thật giả, mạo danh Ôn Tăng Thống, được một số người sử dụng để làm bàn đạp tiến thân, hoặc để làm vững mạnh thêm vây cánh của mình, tôi thật là không còn gì để nói.

Họ đã tán tận lương tâm: lạm dụng danh nghĩa của Ôn Tăng Thống khi Ngài còn sinh tiền, và cho đến khi Ngài viên tịch, họ vẫn không buông tha. Lịch sử mai sau không biết sẽ ghi như thế nào về những hư ngụy gian trá của hôm nay nếu Ôn nhẫn nhục không lên tiếng, không để lại chúc thư với thủ bút của Ôn. Nhưng tôi biết một điều: nhân quả sẽ không sai chạy, và ác báo trước sau gì cũng sẽ đến với những người phạm ngũ nghịch tội. Dù họ là những người “hết thuốc chữa”, tôi vẫn cố gắng cầu nguyện cho họ, ít ra là vào những giây phút cuối đời, sẽ thức tỉnh và sám hối với Ôn Tăng Thống, với Tăng đoàn, và với giáo hội mà họ đang tâm phá nát.

 

Vancouver, ngày 22 tháng 7 năm 2008.
Thích Siêu Phương


[1] Tôi xin phép phải lược bỏ giới phẩm và họ Thích ở đây, vì thực tâm tôi thấy vị này không xứng đáng được sử dụng bất cứ danh xưng hay phẩm vị nào của Phật giáo.

[2] Năm tội cực ác mà người phạm phải có thể đọa vào địa ngục Vô gián, cho nên còn gọi là Ngũ Vô gián tội, gồm có: giết cha, giết mẹ, giết a-la-hán, làm thân Phật đổ máu, và phá hòa hợp tăng.

 

Nhất tâm đảnh lễ : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Đệ Tứ Tăng Thống - kiêm Giám viện Tu viện Nguyên Thiều thượng Huyền hạ Quang Đại lão Hòa thượng Tân viên tịch chi Giác Linh !

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.