.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)
CHƯƠNG MỤC

Tư Tưởng

Văn hóa

Giáo Dục

n Học

Diễn Đàn

Chính Luận

Ký Sự - Xã Hội

Khoa Học & Môi Trường

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 TỦ SÁCH

Sophie Quinn-Judge: Hồ Chí Minh những năm chưa được biết đến

Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa

Lê Minh Văn: Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp: Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày

 


Bát Nhã chưa yên

  • DIỄN ĐÀN PNBN-II - 28.04.2009 | Nguyên Như

Thiền sinh cư sĩ lắng nghe Pháp thoại trong 1 khóa tu tại tu viện Bát Nhã (photo PS)

Xã Dambri là một vùng xa vắng hoang sơ. Quốc lộ từ Sài Gòn đi Đà Lạt không chạy qua đây nên ít có ai để ý đến địa danh này. Nhưng từ ngày Thượng tọa Đức Nghi cúng dường ngôi chùa của mình, cùng với mảnh đất trong vùng rừng núi chập chùng này cho Sư ông Làng Mai, bộ mặt Dambri tự nhiên vươn lên nhiều sức sống. Cũng từ ngày đó, ngôi chùa có tên Bát Nhã của Thượng tọa bắt đầu được nhiều người biết đến, với một tên mới là Tu viện Bát Nhã - Làng Mai. Chánh điện của ngôi chùa vẫn còn giữ nguyên với những nghi lễ thờ cúng như những ngôi chùa khác ở  Việt Nam. Thêm vào đó là thiền đường Cánh Đại Bàng rộng lớn được xây cất để đáp ứng nhu cầu, từ khi pháp môn Làng Mai được đem về hành trì tại đây. Đó là chưa kể đến những tăng xá và ni xá được xây cất trong thời gian cấp tốc để đủ chỗ ở khoảng 500 người ở thường trú. Ít nhất, đến giờ này chưa có một ngôi chùa hay một tu viện nào của Việt Nam có một số lượng đông đảo tăng ni như tại tu viện Bát Nhã. Cũng như chưa có một tu viện nào ở Việt Nam mà chỉ trong một thời gian ngắn đã được nhiều người từ nhiều nơi biết đến như tu viện Bát Nhã này, nhất là giới trẻ ở các thành phố lớn như Huế, Sài Gòn, Hà Nội, hay Đà Nẵng.

Bát Nhã đã trở thành địa chỉ cho tất cả những ai muốn được thư giản sau một tuần mỏi mệt vì áp lực của công việc... Ở nơi đây gần như có đủ những chất liệu lành mạnh và hạnh phúc. Ngồi thiền buổi sáng để có sự an lạc trong tâm hồn. Nghe Pháp thoại để thấy được sự sống và hạnh phúc đang có mặt. Ăn cơm chánh niệm để thấy được tặng phẩm quí giá của đất trời ban cho, mà thường thường trong cuộc sống hàng ngày chúng ta ít để ý đến. Người ta thường nói : ăn cũng là nghệ thuật, là văn hoá. Nếu có trà đạo hay thiền trà thì chúng ta tìm thấy ở tu viện Bát Nhã còn có thiền ăn cơm. Ngoài ra còn có thiền hành, thiền buông thư, thiền làm việc, v.v… Tất cả mọi hành động điều là thiền. Thật là đơn giản cho những ai chưa biết thiền là gì. Đương nhiên thiền tập là con đường lâu dài miên mật, nhưng ở tu viện Bát Nhã có một cánh cửa thiền thật đơn giản để bạn dễ dàng bước vào. Những bước chập chửng đầu tiên. Vâng, những bước chân chập chửng vụng về đầu tiên ấy lại là nền tảng cho những bước chân vững chải sau này. Thiền là chánh niệm và chánh niệm là thiền.

Ngày tôi đến tu viện Bát Nhã thì cửa thiền còn rộng mở. Chưa bị công an xã đến khoá chốt ngăn chận. Ngày quán niệm đầu tháng thật khó quên trong tâm tưởng của tôi. Mọi người từ mọi nơi về tham dự rất đông mà khung cảnh lại êm đềm và thanh thản. Mọi người hình như ai cũng hiểu là về đây để hưởng sự êm đềm của một ngày, một cuối tuần, mà cuộc sống chật vật nhiều khi không cho phép. Một ngày ở tu viện Bát Nhã rất dài, vì bạn phải dậy thật sớm để dự buổi thiền toạ và tụng kinh. Mọi người thực tập sống những giờ phút chánh niệm nên chỉ trao đổi những câu chuyện với nhau trong giới hạn. Do đó không khí thanh tịnh dịu êm có mặt khắp nơi. Khu vườn Lâm Tì Ni thu nhỏ thật xinh xắn, thu hút những bước chân thiền hành qua đó. Tượng người mẹ tay dắt hai đứa con thơ như nhắc nhở chúng ta nên nhớ đến những ngày hạnh phúc bên mẹ. Trân quí những ngày còn có mẹ, để lỡ một ngày mẹ có mất đi, ta đỡ phải nuối tiếc.

Những ngày tôi lưu lại tu viện Bát Nhã thật là hạnh phúc. Tôi ước ao sẽ có nhiều tu viện như thế tại Việt Nam, một làn gió mới đem đến sự an lành hạnh phúc cho mọi người, bỏ lại sau lưng những mệt nhọc bon chen trong cuộc sống hàng ngày. Có một nơi dừng chân và với những phương tiện thật đơn giản nhất là chúng ta có được sự thoải mái cả thân và tâm.

Rời tu viện Bát Nhã tôi vẫn ao ước có một ngày trở lại. Đôi khi ước mơ của tôi rất đơn giản, như về đó để được ngồi nơi căn nhà nhỏ bên suối, nghe tiếng nước chảy róc rách của thác nước nho nhỏ gần đó. Những gì tôi nghĩ rất đơn giản giờ đây có thể không còn đơn giản nữa. Một khi những vị xuất gia tại đây không còn được sự thanh tịnh để tu hành, thì những cư sĩ và thiền sinh làm sao có thể về lại tu viện Bát Nhã. Mọi chuyện đổi thay đã xảy ra một cách nhanh chóng, chung qui cũng chỉ vì  Thượng tọa Đức Nghi không giữ lời hứa. Lợi dụng dịp này, Ban Tôn Giáo Chính Phủ cũng chen vào làm cho tu viện Bát Nhã trở nên xáo trộn mất đi sự thanh tịnh của thiền môn.

Năm 1998 Thượng tọa Đức Nghi qua Làng Mai thăm viếng, vận động tài chánh xây dựng tu viện Bát Nhã. Năm 2001 qua tu viện Lộc Uyển để tìm hiểu thêm về mô thức sinh hoạt và tu học của Làng Mai. Thượng tọa cũng muốn các đệ tử của mình tìm hiểu về pháp môn Làng Mai nên đã gởi các vị đệ tử lớn qua Làng tu học.

Năm 2005 trong chuyến về Việt Nam thăm quê hương và hoằng pháp lần thứ nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thượng tọa đã thỉnh mời Thiền Sư và tăng thân Làng Mai lên thăm chùa Bát Nhã. Trước sự hiện diện của tứ chúng, Thượng tọa tuyên bố cúng dường tu viện cho Thiền Sư và tăng thân Làng Mai để làm nơi tu học, đào tạo giáo thọ nhằm cung ứng cho nhu cầu tâm linh rất lớn trong khu vực Đông Á. Trong những lý do Thượng tọa nêu ra có một điểm đáng chú ý là : Thiền Sư Nhất Hạnh là người yêu nước, có tinh thần Đạo Pháp và Dân Tộc.

Thấy được quá trình cộng tác lo cho đồng bào tỉnh nhà về mặt từ thiện, tâm linh và sự thành tâm phát nguyện của Thượng tọa nên Thiền sư Nhất Hạnh đã chấp nhận sự cúng dường.

Hoài bảo của Thượng tọa lúc đó là tu viện Bát Nhã sẽ trở thành nơi tu học cho 1.000 tăng ni. Tăng thân Làng Mai đã hết lòng hợp tác để biến hoài bảo đó thành sự thật. Số tiền Làng Mai đầu tư vào việc xây dựng các cơ sở đã lên đến con số cả chục tỷ bạc. Số tiền trên là do bá tánh tứ phương cúng dường vì yêu chuộng pháp môn của Làng Mai.

Trong khi Bát Nhã đang trên đà phát triển kỷ lục trong một thời gian không quá hai năm. Từ một ngôi chùa bé nhỏ chơ vơ giữa cao nguyên vắng lặng với số tu sĩ không lấp đầy những đầu ngón tay, phật tử thì le hoe dăm ba cụ già, v.v… Chỉ sau hai năm áp dụng pháp môn Làng Mai, Bát Nhã đã trở nên đồ sộ với những dãy cư xá hai từng cao dành cho tăng, ni, và cư sĩ ; với đại thiền đường có khả năng chứa tới hàng ngàn người ; với những khóa tu có tới hàng vạn người tham gia ; với những ngày quán niệm cuối tuần mà rừng xanh vốn cô tịch cũng phải giang rộng vòng tay ôm ấp hàng đoàn xe đò, xe ca đủ màu chở đầy ắp người từ các thành phố lớn đổ về, tức thì hàng ngàn, hàng vạn đóa sen búp tươi vui cùng những nụ cười hàm tiếu được trao nhau trong im lặng mà thơm ngát tình người ; trong chốc lát các cư xá của tu viện bị lấp đầy mà cũng không đủ chỗ, làm cho rừng thông trông có vẻ vô tình cũng phải che chở cho những dãy lều nhấp nhô như sóng nước đại dương cho thiền sinh trú ngụ qua đêm trong những ngày tu học ấy.

Nhưng! bỗng nhiên Thượng tọa Đức Nghi đổi ý, tung ra những văn thư kết tội Thiền Sư « làm chánh trị » một cách vô căn cứ. Ta đã biết rằng Thượng tọa cũng là học trò đắc pháp với Thiền Sư trong một đại Giới đàn tổ chức tại Làng Mai, Pháp quốc năm 2006 với bài kệ kiến giải như sau :

Bát Nhã hương thiền quyện cỏ cây
Tâm không như nước chẳng vơi đầy
Năm xưa chốn cũ từng quay gót
Ta lại cùng ta về lại đây

Những gì Thiền Sư làm ngày trước Thượng tọa cho là yêu nước, đến một thời điểm khác thì Thượng tọa cho là làm chánh trị. Tôi nghĩ rằng Thượng tọa là người tu, không dễ dàng đổi trắng thay đen như vậy.

Có người nói rằng Thượng tọa muốn xây dựng Bát Nhã thành một trung tâm du lịch sinh thái, với những kiến trúc Phật giáo như tượng đài và cảnh quang, v.v… Trong khi chủ đích của Làng Mai là hoằng pháp xây dựng con người văn hóa, đào tạo thiền sinh trở thành những giáo thọ có khả năng tháo gỡ khổ đau, thiết lập an vui, hạnh phúc cho con người và xã hội. Đó cũng là nhu cầu rất lớn của thời đại. Cho nên từ tháng 2 năm 2007 sau khi cơ sở hạ tầng của Tu viện tạm đủ thì Làng Mai quyết định ngưng mọi công trình kiến trúc, tập trung năng lực và thời giờ cho việc đào tạo. Phải chăng bất đồng xảy ra từ đó ?

Tôi nghĩ đó không phải là lý do duy nhất, mà có sự tác động của Ban tôn giáo, và nhất là ngành Công an Tôn giáo của nhà nước lên Thượng tọa Đức Nghi. Chúng ta cũng nên nhớ lại 10 điểm kiến nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh trao tay Chủ tịch Nguyễn Minh Triết sau ngày hoàn mãn ba Đại trai đàn chẩn tế năm 2007. Trong đó, điểm thứ 10 đề nghị giải thể Ban Tôn Giáo, và ngành Công an Tôn giáo.

Nếu đặt câu hỏi thế nào là làm chánh trị ? Câu trả lời còn tuỳ thuộc vào môi trường và không gian cũng như thời gian xuất hiện động thái gọi là « chính trị » đó. Khi Thiền sư Nhất Hạnh trao Kiến nghị lên chánh phủ, không ngoài mục đích giúp canh tân đất nước. Đã là kiến nghị thì chánh phủ có quyền cân nhắc, đâu là những đề nghị hay, có hiệu quả tốt để đem ra áp dụng, nó không có tác dụng bắt buộc, hay chỉ trích, thậm chí bêu xấu chế độ. Ngày xưa vào đời Lý, đời Trần đã có những vị minh quân đã từng hỏi ý những vị thiền sư cho việc trị quốc, an dân kia mà. Tiếc thay, Ban Tôn Giáo, và Công an tôn giáo đã cố tình bóp méo sự thật đâm ra thù oán Thiền Sư, bởi vì theo họ, Kiến nghị nhà nước giải tán Ban Tôn Giáo và ngành An ninh Tôn giáo chẳng khác nào Thiền sư đã đập bể bát cơm của họ.

Để làm rõ vấn đề, chúng ta xem lại phần giải thích lý do (đăng trong Lá thư Làng Mai số 31) đưa ra điểm thứ mười trong Kiến nghị đó như sau:

- Thế hệ lãnh đạo trước đã lập ra Ban Tôn giáo và ngành Công an Tôn giáo với mục đích kiểm soát hoạt động tôn giáo, trên căn bản nhận thức tôn giáo là duy tâm, là thuốc phiện của dân, cần phải được nhiếp phục, cần phải được hạn chế, và vì đạo Phật đã được coi là một tôn giáo thì đạo Phật cũng là duy tâm, là thuốc phiện của dân. Nhưng thế hệ lãnh đạo bây giờ đã hé thấy được sự thiết yếu của đạo đức, thấy rằng đạo Phật có thể đóng góp thật đáng kể cho công trình bảo tồn phong hóa và đạo đức, thì đáng lẽ ra ít nhất nhà nước cũng phải thay đổi vai trò của Ban Tôn giáo. Hệ thống Ban Tôn giáo từ Trung ương đến các cấp tỉnh, huyện, quận, cần đến không biết bao nhiêu cán bộ và nhân viên, tốn kém công quỹ rất nhiều. Trong số các nhân viên của Ban Tôn giáo các cấp, có khá nhiều cán bộ trước đã bị kỷ luật nhẹ, sau đó mới đưa vào ngành tôn giáo. Ông Vụ trưởng Vụ Phật giáo mà không hiểu được ý nghĩa truyền thống của hai chữ giải oan và biện hộ giúp cho danh từ này thì làm sao giúp cho Phật giáo đi lên kịp thời theo xu thế thời đại?

Trong buổi tiếp kiến ấy Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã có dịp trấn an ngài Chủ tịch Nguyễn Minh Triết về lý do mà Ngài đưa ra Kiến nghị như sau:

- Những điều chúng tôi nêu lên trong bản đề nghị này không có mục đích chỉ trích, phê phán mà chỉ có mục đích xây dựng. Đất nước chúng ta chắc chắn là sẽ đi về hướng này, không thể nào khác hơn được, nhưng với ý thức của ngài Chủ tịch nước thì những điểm đề nghị trong đây sẽ được nhanh chóng thực hiện hơn, thế thôi. Điểm nào thực hiện được ngay thì xin nhà nước làm ngay; điểm nào cần nhiều thời gian hơn thì có thể làm chậm hơn chút ít. Các vị lãnh đạo làm được sớm hơn chừng nào thì đất nước và dân tộc được nhờ sớm hơn chừng đó.

Cũng trong Lá thư số 31 này, tác giả còn cho chúng ta biết thêm rằng :

- Vào lúc bản đề nghị được đệ trình thì Ban tôn giáo chính phủ đang chuẩn bị dự trù được nâng lên cấp bộ, thành Bộ tôn giáo, ngang với các bộ khác. Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, hôm 08.08.2007, (đúng 3 tháng + 3 ngày sau ngày trao Kiến nghị) đã ra nghị định 08/NĐ-CP đưa Ban tôn giáo chính phủ vào thành một bộ phận của bộ nội vụ. Nói tóm lại, tuy Ban tôn giáo chính phủ không được giải thể, nhưng ban sẽ không bao giờ trở thành được một bộ. Điều này chắc đã làm cho các vị trong Ban tôn giáo không được hoan hỷ đối với Làng Mai và cả các vị trong ngành Công an tôn giáo có thể cũng đã cảm thấy bị tổn thương. Nhưng mục đích của bản đề nghị không phải nhắm vào cá nhân một nhân vật nào, một vị lãnh đạo nào, mà chỉ là để xây dựng cho đất nước. Nếu quý vị không phụng sự đất nước trong khuôn khổ Ban tôn giáo hay trong ngành Công an tôn giáo thì quý vị vẫn có thể phụng sự được đất nước trong các ban ngành khác, và công đức của quý vị vẫn được đất nước và đồng bào ghi nhận. Ai cũng biết là cách thức tổ chức các giáo hội và Ban tôn giáo chính phủ ở nước ta là bản sao của cách tổ chức bên Trung Quốc. Trung Quốc có những sai lầm của họ và cách thức làm việc của họ đã tạo ra những phản ứng bất lợi cho họ đứng về phương diện nhân quyền. Vụ Pháp Luân Công và vụ Thiên An Môn xảy ra chỉ đem lại những tiêu cực và những khó khăn cho chính quyền, mà sự kiểm soát gắt gao kia chẳng đem lại lợi ích gì cho nhà nước và cho đất nước Trung Quốc. Tại sao ta phải bắt chước Trung Quốc về mặt này? Ta có thể làm khác hơn và hay hơn Trung Quốc về chính sách tôn giáo. Nếu đạo Phật Việt Nam có được cơ hội thì sẽ đổi mới mau chóng và có thể đi trước Phật giáo Trung Quốc trên đường hiện đại hóa ít nhất là ba mươi năm. Trung Quốc đã giác ngộ rằng, Phật giáo là gia sản tinh thần của đất nước và chỉ có nền đạo đức dân tộc mới ngăn chặn được những tệ nạn xã hội đã hoành hành trong bao nhiêu năm dưới cái nhìn Mác Xít duy vật, thì tại sao ta không làm được như thế và hơn thế?

- Một Ban Tôn giáo có thể rất lợi ích nếu chỉ làm được các việc sau đây: yểm trợ cho các tôn giáo trong việc tu tập, phòng ngừa và bài trừ các tệ nạn xã hội, tạo điều kiện pháp lý dễ dàng cho các tôn giáo làm việc cứu tế xã hội, giúp các tôn giáo có nhiều cơ hội ngồi lại với nhau để chia sẻ kinh nghiệm tu tập và vượt thắng thái độ giáo điều, có khuynh hướng cho tôn giáo mình là độc tôn, yểm trợ các tôn giáo trong việc dân tộc tính hóa những giáo lý và hành trì của mình, để tất cả các tôn giáo đều trở thành những thành phần đích thực của nền văn hóa dân tộc. Làm được những điều này mà không cần sử dụng tiền bạc và sự trừng phạt(1).

Thế là, sự việc đã được Làng Mai giải thích một cách rõ ràng, minh bạch, không ai thấy ở đấy một mải mai gì gọi là chính trị, có chăng thì đó là con đường đúng đắn giúp dân, giúp nước tiến lên. Ấy vậy mà những Nhóm Thế Lực đã cố tình gán ghép, xuyên tạc, và vu cáo cho Thiến sư « làm chính trị » như một câu trong văn thư của ngài Trưởng Ban Tôn Giáo : « đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước, đưa lên mạng internet một số thông tin sai sự thật về thức tế Việt Nam… ». Họ đã lợi dụng chức quyền trong Chính phủ gây ảnh hưởng, tác động lên giới tu sĩ có chức trong các giáo hội, cũng như một số cá nhân, cụ thể ở đây là Thượng tọa Viện chủ tu viện Bát Nhã Thích Đức Nghi, mượn tay những vị này để trả thù một Thiền sư không ngại tuổi già xả thân giúp nước như Sư ông Làng Mai.

Sự kiện, hàng ngày gây khó khăn có liên quan đến những vấn đề như : cư trú, giảng dạy, sinh hoạt thiền môn, di chuyển của các vị giáo thọ, tu sĩ, thiền sinh cư sĩ,… xảy ra gần đây cho tu viện Bát Nhã đã cho thấy bàn tay điều hành, chỉ đạo từ xa hoặc trực tiếp của Công an Tôn giáo, của Ban Tôn Giáo Chính Phủ ở cấp cao như văn thư 1329/TGCP-PG do ngài Trưởng Ban Nguyễn Thế Doanh ký ngày 29.10.2008, mà trong một bài phân tích, nhà báo Lê Nguyên đã kết luận đó là Tờ khai tử quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam ; như việc Công an địa phương đến từng nhà của các sư cô, sư chú đang tu học tại Bát Nhã để vu cáo Làng Mai, tác động, hăm dọa, dụ dỗ, các bậc phụ huynh buộc họ phải khuyên con em bỏ tu, hay chuyển sang chùa khác, v.v… ; như việc cấm cửa, không gia hạn visa, trục xuất các vị giáo thọ Làng Mai gốc Việt mặc dù họ chưa từng vi phạm bất kỳ luật lệ, hành chánh nào của Việt Nam, v.v… Những việc đó làm sao Thượng tọa Đức Nghi có thể thực hiện được ? Rõ ràng bàn tay Công an và Ban Tôn giáo đã hiện rõ như ban ngày. Thế nhưng Họ rất tinh ma khéo dàn dựng vấn đề như là một tranh chấp trong nội bộ nhằm che đậy bản chất trả thù chỉ vì những đòi hỏi mang tính phá hoại tiềm năng đất nước của họ đã không được Làng Mai đáp ứng ; chỉ vì một đề nghị bổ ích cho đất nước đi lên của một vị Thiền sư khả kính của thế giới hôm nay.

Đó là một trong những lý do chính của vấn đề. Điều đáng tiếc là Thượng tọa Đức Nghi đã để bị các Nhóm Thế Lực này lợi dụng. Và Bát Nhã sẽ chưa yên khi nào các Nhóm Thế Lực này chưa được nhân dân và chính quyền nhận thức như một trong những trở lực cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước.

 

Nguyên Như

Bạn nào chưa từng đến Bát Nhã, hãy bấm vào đây, xem Phóng sự bằng hình của một Bloger đã từng tham gia ngày Quán niệm mỗi cuối tuần đầu tháng tại Bát Nhã.

(1) Xem thêm Lá Thơ Làng Mai số 31: http://langmai.info/new/th-vin/la-th-lang-mai/811-la-th-lang-mai-s-31-04022008.html 

Đây là ý kiến riêng của các tác giả, không nhất thiết phản ánh chủ trương của Phù Sa.


PHÁP NẠN CHÙA BÁT NHÃ II rất mong đón nhận ở các bạn những: thư từ, ý kiến, nhận định, tường thuật, hình ảnh, âm thanh...  Mỗi tiếng nói là một viên gạch xây nền công lý nước nhà, và nhất là là góp phần quyết định cho sự sinh tồn của Tu viện Bát Nhã. Hãy gửi thư về chúng tôi qua địa chỉ: phusaonline@gmail.com Trân trọng cám ơn các bạn!


Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen!

ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT

CHƯƠNG MỤC

PHẬT SỰ

PHÁP ĐÀM

VU LAN 2551

VESAK 2552 (2008)

VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN

ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA

THEO DẤU THIỀN SƯ 3 | 4 | 5 | 6

LIÊN MẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.