Staline, xa hoàng đỏ
Con người Staline
Trong nội bộ
Đảng, người ta nể Staline không phải vì sợ mà vì cảm tình.
Staline nắm được triều thần, nhưng thường thường thì họ cũng
phục tùng ông vì thiện cảm. Staline lớn tuổi hơn họ, ngoại trừ
Klim Vorochilov, Bộ Trưởng Chiến Tranh. Phần đông, những nhơn
vật quyền thế quanh Staline đối xử rất thân tình, gọi ông bằng
tục danh "Koba" hay "Sosso". Năm 1930, họ đều là những nhơn vật
liên minh với nhau, chớ không phải là người thuộc hạ nên ai cũng
toàn quyền hành động. Một số thì liên kết vì thân tình, đôi khi
biến thành liên minh đối nghịch lại Staline. Số khác thì thường
bất đồng ý kiến với Staline. Cái khó của Staline là ở chỗ ông
nắm một cái đảng không có thứ bực nghiêm minh mà lại cai trị một
đất nước quen sống trong một thể chế chuyên quyền thời xa hoàng.
Staline không phải là một quan lại lu mờ, như Trotski tưởng.
Nhứt định là ông ta có tài tổ chức. Ông không bao giờ hành động
hay nói năng tùy hứng mà cân nhắc cẩn thận từng quyết định. Ông
có thể làm việc bất kể ngày đêm, thông thường là một ngày mười
sáu tiếng. Ông có một cái tài khác thường và lạ kỳ. Ông có thể
mê hoặc người ta, vì ông là một con người dễ mến. Dẫu cho không
gây được cảm tình thật sự, ông cũng làm cho người ta cảm thấy
tình bằng hữu. Ông thường nổi nóng, nhưng khi đã quyết định mơn
trớn thì không ai cưỡng lại được.
Ông có gương mặt cởi mở và linh động, dáng điệu uyển chuyển dịu
dàng, lúc nào cũng tràn đầy nghị lực. Những ai đã một lần gặp
ông đều mong muốn gặp lại vì ông làm cho đối tượng có cảm tưởng
là từ nay đã có một sự ràng buộc mãi mãi với ông. Theo Artiom -
người con nuôi của Staline và Nadia – thì với trẻ con, Staline
cũng coi như người lớn và cho chúng có cảm tưởng là cũng quan
trọng. Những người khách đều ngạc nhiên vì tánh khiêm tốn của
ông, vì cung cách hút ống điếu của ông và vì sự thanh thản của
ông. Sau khi gặp Staline lần đầu, Joukov, vị thống chế tương
lai, mất ngủ khá lâu vì "dáng dấp của J. V. Staline, giọng nói
ung dung của ông, những phán đoán thực tiễn và sâu sắc của ông
cũng như sự chú ý của ông khi lắng nghe tôi phúc trình làm cho
tôi khâm phục vô cùng". Còn ông Soudoplatov, một nhân viên mật
vụ, thuật lại rằng "khó mà nghĩ rằng một con người như thế có
thể lừa dối ai vì những phản ứng của ông rất là tự nhiên, không
chút kiểu cách màu mè". Nhưng ông này cũng nói thêm là "ông ta
hơi cứng rắn mà không cần che đậy".
Theo nhận xét của những con người bôn-sê-vít tỉnh lẻ thì cung
cách ăn nói trầm tĩnh và không màu mè của Staline là một lợi
thế, còn khá hơn nhiều so với điệu ăn nói huyễn hoặc của
Trotski. Giọng ăn nói không suôn sẻ và không hùng hồn làm cho
người đối thoại cảm thấy tin tưởng hơn. Thiên hạ không tin tưởng
gì ở Staline, nhưng đó là người mà Đảng tin cậy. Ông ta tiêu
biểu cho Đảng, những từng lớp cấp dưới tin tưởng ông ta. Beria,
người đứng đầu ngành mật vụ cho là Staline "rất khôn ngoan", là
"một thiên tài chánh trị". Thô lỗ hay dịu dàng không cần biết,
ông ta nổi bật so với những người xung quanh nhờ trí thông minh.
Không phải Staline chỉ giao du với những người quyền chức, mà
ông cũng tiếp xúc với công chức cấp nhỏ, luôn luôn tìm những
người giúp việc cứng rắn hơn, trung thành hơn và chịu làm việc
không mệt mỏi. Lúc nào thuộc cấp cũng có thể tiếp xúc với ông
được, vì ông có nói: "Tôi sẵn sàng giúp đỡ và tiếp các đồng
chí."
Những người thuộc phe nhóm của Staline coi ông như là chủ tướng
của họ, nhưng trong nhãn quan của họ thì ông còn hơn thế nhiều.
Staline tự đặt cho mình một vai trò hào hùng và thánh thiện. Khi
Đảng hoan hô ông như là một lãnh tụ thì ông tỏ lời cám ơn: "Các
đồng chí hãy tin tưởng là tôi sẽ hết lòng hy sinh cho sự nghiệp
của giai cấp công nhơn, và nếu cần, bằng từng giọt máu của tôi.
Tôi xin dâng những lời chúc tụng của các đồng chí lên Đảng vĩ
đại, đã sáng tạo và nuôi dưỡng tôi, rập theo hình dáng và giống
y như Đảng."
Tuy nhiên, người anh hùng tự cho là có trọng trách thiên định đó
tích cực tìm cách bảo bọc những người cùng phe nhóm trong một
thân tình hiền hòa, để cho mọi người tin rằng ông là người đáng
tin cậy hơn hết. Staline có tính khí bất thường nhưng lúc nào
cũng có óc hài hước. Ông là con người dễ tiếp cận và vui tánh.
Staline để ý đến bạn bè và những người thân cận. Ông cũng để ý
đến nơi ăn chốn ở của họ, kể cả chuyện con cái của họ trong gia
đình. Ông thường theo dõi tình hình vật chất của thuộc cấp và
sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Ban lãnh đạo thường thiếu hụt vì đồng
lương tháng được ấn định trên căn bản "tiêu chuẩn tối đa của
Đảng", trong tinh thần "một người lao động có trách nhiệm" không
thể nào lãnh lương nhiều hơn một người thợ tay nghề cao. Nhưng,
người ta đã có cách để giúp đỡ những người lao động thiếu thốn,
như những giỏ thức ăn do căn tin của điện Cẩm Linh cung cấp hay
những phần ăn đặc biệt do các cửa hàng quốc doanh phân phát cho
những nhà lãnh đạo. Ngoài ra còn có những bao thơ, những quà bí
mật bằng tiền mặt hay phiếu mua hàng hoặc chi phí nghỉ hè.
Đảng không phải chỉ là một sự tập họp lại những nhóm người,
nhưng gần như là một tập thể có tính gia đình. Giai cấp lãnh đạo
gần như là một tổ hợp phe phái và bè cánh. Lazare Kaganovitch là
người nhỏ nhứt trong năm anh em, trong số đó có ba người là nhơn
vật bôn-sê-vít quan trọng. Các thành viên của gia đình bên vợ
Staline đều là công chức cao cấp. Cả hai anh em nhà Sergo đều là
những nhơn vật lỗi lạc ở Caucase, nơi mà nạn bè phái gia đình đã
thành quy luật. Ngoài ra, cả một hệ thống chằng chịt hôn nhơn
đồng tộc càng làm cho quan hệ quyền lực thêm phần rắc rối và có
những hậu quả tai hại. Khi một người quyền thế mất chức thì
những người liên hệ cũng rơi theo, như những người leo núi liên
kết cùng một sợi giây.
Staline coi những người liên minh với ông như một "nhóm thật hạn
hẹp" đầy tình nghĩa anh em, đã hình thành "qua quá trình đấu
tranh" chống lại chủ nghĩa cơ hội của Trotski và Boukharine. Thế
nhưng, từ lúc cuộc "cách mạng của Staline" biến nông thôn thành
một ảo ảnh đầy ác mộng thì Staline cảm thấy rằng từ nay trong Bộ
Chánh Trị đã có sự hoài nghi và lòng trung thành đã có vấn đề.
Những phiên họp của Bộ Chánh Trị rất cởi mở và thoáng, dẫu trong
tình hình nguy ngập vẫn cứ vui vẻ. Staline không khi nào chủ tọa
những phiên họp Bộ Chánh Trị, dành danh dự đó cho Rykov, chủ
tịch Hội Đồng Ủy Viên Nhơn Dân – Sovnarkom. Được biết là Staline
không bao giờ lên tiếng trước tiên ở phiên họp Bộ Chánh Trị, để
cho những thành viên tự do giải bài tư tưởng, không phải đắn đo
e dè.
Những phiên họp Bộ Chánh Trị thường hay kéo dài, giờ này qua giờ
nọ, nhiều khi làm cho Staline mỏi mệt. Ông phải yêu cầu tạm
ngưng, dời chương trình nghị sự lại hôm khác. Staline cũng biết
rằng ông không có được sự nhứt trí trăm phần trăm trong Bộ Chánh
Trị. Có nhiều ủy viên Bộ Chánh Trị muốn hợp đồng lại để cho
Staline ra rìa. Rykov, ông chủ tịch hữu khuynh của Sovnarkom
không tin tưởng gì các kế hoạch của Staline và bây giờ thêm
Kalinine nữa cũng hơi hoài nghi Staline. Nên chi, Staline biết
rằng ông có thể bị liệt vào thành phần thiểu số trong Bộ Chánh
Trị, thậm chí bị lật đổ.
Staline cảm thấy khó chịu với tình trạng không nhứt trí trong Bộ
Chánh Trị, đặc biệt là trong khi có cuộc khủng hoảng trầm trọng
về chuyện nông thôn. Staline không khi nào tha thứ thái độ phản
bội của Kalinine. Mỗi sự chỉ trích là một vấn đề sanh tử, phải
trái, lành mạnh hay bịnh hoạn đối với một con người đa nghi,
thường tự cho mình là quan trọng và phải đảm nhiệm một thiên
mệnh. Mấy tháng qua, Staline cứ nghiền ngẫm mãi tình hình mất
tin tưởng của những người chung quanh.
Chánh sách quá khích của Staline dẫn tới những cuộc đàn áp quá
lố, làm dấy lên một phong trào đối kháng khiến ông cảm thấy rất
lo ngại. Những phản ứng quá mạnh tay của Staline tạo ra một bầu
không khí làm cho ông có nhiều lý do phải sợ hãi. Nỗi sợ hãi lo
âu đó ảnh hưởng đến sinh hoạt trong gia đình.
* * *
Trong những ngày
nghỉ ngơi ở miền Nam, Staline hay được tin Rioutine, một người
bôn-sê-vít kỳ cựu, chịu trách nhiệm ngành nghệ thuật thứ bảy,
đứng về phe đối lập. Staline phản ứng cấp thời, viết thơ cho
Molotov, nói rằng chỉ đuổi Rioutine ra khỏi Đảng không chưa đủ
mà phải đày đương sự đi càng xa Mạc Tư Khoa càng tốt. Đồng thời,
Staline tạo ra một loạt những vụ án ngoạn mục và dựng lên những
vụ "mưu phản", được cho là do những người bị nghi ngờ là "kẻ phá
hoại" tạo ra.
Staline thúc đẩy nhịp độ tập thể hóa và hối hả tiến hành chương
trình công nghiệp hóa. Cứ tình hình càng căng thẳng là Staline
càng làm tăng thêm bầu không khí gay cấn, tạo ra những kẻ thù
mới để làm cho những người đối nghịch thực sự bên trong Đảng và
những chuyên viên kỷ thuật nào cho rằng những dự án của Staline
là không thi hành được phải lo sợ.
Staline ra lịnh ngay cho Molotov cấp thời công bố những lời thú
tội của các thành phần gọi là "phá hoại", và một tuần sau đó
tuyên bố là "những tên đểu giả đó phải bị xử tử hết". Thế là,
Staline nhứt quyết đánh vào bọn hữu khuynh trong chánh phủ. Ông
phát động một chiến dịch chống bọn đầu cơ tiền tệ, mà những
người chịu trách nhiệm là các ủy viên tài chánh Rykov, Piatakov
và Brioukhanov, những tên "cộng sản khả nghi". Staline muốn cho
máu phải đổ nên ra lịnh cho trùm mật vụ Menjinski bắt thêm bọn
phá hoại. Sau đó, Staline ra lịnh cho Molotov "xử bắn vài ba
chục tên phá hoại xâm nhập vào những văn phòng của Molotov".
* * *
Mùa hè năm 1930, trong khi Đại Hội thứ XVI tôn vinh Staline lên
ngôi lãnh tụ thì Nadia lâm bịnh nặng, ông phải đưa Nadia đi
Carlsbad để tìm cách chữa trị hữu hiệu nhứt, kế đó ông đưa Nadia
đi Bá Linh để thăm gặp người anh của bà, Pavel, và bà chị dâu,
Génia. Bịnh trạng của Nadia thật là phức tạp, bí ẩn, có lẽ thuộc
tâm thần. Bà bị đau trong bụng, có lẽ là do hậu quả của một lần
phá thai. Bà còn bị đau đầu, đau thật nhiều, có lẽ là triệu
chứng của sự lấp ráp sai lệch của những mảnh xương sọ, hay là
chỉ vì hậu quả của những trận đấu đá nội bộ của Liên Bang Xô
Viết. Dẫu cho phải để hết tâm sức vào việc tổ chức Đại Hội, vào
cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù ở nông thôn và trong Bộ Chánh
Trị, Staline vẫn tận tình lo cho vợ.
* * *
Như vậy, Staline là một con người tràn đầy mâu thuẩn và bất ngờ.
Là một đối tượng có lý trí, thông minh, đôi khi cũng thơ mộng,
có một thể chất cân đối và trên trung bình, nhưng lại có khuynh
hướng độc ác, không lành mạnh. Phải chăng, vì Staline đã mang
dấu ấn của một tuổi trẻ chịu ảnh hưởng của một người cha nát
rượu, hành hạ con cái và của một bà mẹ thiếu tình thương, không
phải là một loại gà mái chịu che chở đùm bọc con dưới đôi cánh?
Hơn nữa khi vào đời, Staline đã lao vào đà tranh đấu của một
đảng viên cộng sản và lăn lóc qua kiếp tù đày. Ngoài ra, có thể
hai lần chết vợ một cách hụt hẫng và ngỡ ngàng đã làm cho con
tim của ông rỗng không, mở ngõ mời vào những xung động ác ôn.
Rồi đây, người ta sẽ còn chứng kiến những hành động tàn bạo của
Staline, trên đà lịch sử của Liên Xô. Công lao gọi là "dựng
nước" của Staline – "Người cha yêu thương của nhơn dân" - đã bị
những hành động độc hại và vô lương của ông làm hoen ố một cách
đáng tiếc.
(Còn
tiếp)
Cố Nhân
(Nguồn: "Le Charmeur", trong "Staline, la cour du tsar
rouge", của S.S. Montefiore, nxb. Editions des Syrtes,
2005.)
|