Kẻ Bị Mất Phép Thông Công
Hà Nội
1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức
Nguyên tác:
“L’excommunié”
Nguyễn
Mạnh Tường
- 13 Tháng 5 năm 1991
Dịch gỉa: Nguyễn Quốc Vĩ - 23 Tháng 11 năm 2009
PHẦN HAI :
Mõm đá Tarpeienne
1.
Vụ Án Nhân Văn – Giai Phẩm
2.
Ông quan toà Việt Nam
3.
Sấm sét báo hiệu cho cơn bão tố
4.
Trận đấu bò đầu tiên trong Mặt Trận Tổ Quốc
-
Những câu hỏi xoay quanh vần đề thứ nhất.
5.
Trận đấu bò lần thứ hai ở Đại Học
- Tôi thật lòng rất tiếc cho các đồng chí trong Mặt Trận.
6. Hai loại người
7. Hai nền văn hoá
8. Trận đấu lần thứ ba tại Đảng Xã Hội Việt Nam
9. Thái độ của người trí thức trong thế giới cộng sản
8. Trận đấu lần thứ ba tại Đảng Xã Hội Việt Nam
Nếu những
người tổ chức cuộc đấu tố ở Đại Học đã hy vọng là tôi sẽ bị sỉ nhục,
mất thanh danh thì họ đã lầm. Ngoại trừ một ít gián điệp, chỉ điểm
đang lẫn lộn trong đám đông, cũng như thường lệ trong những cuộc họp
quần chúng khác, đại đa số đều đứng về phía tôi, dành cho tôi những
cái nhìn đầy thiện cảm, những cái nhìn thật làm tôi ấm lòng. Không ai
dám biểu lộ tâm tình của họ một cách nào khác, cả vài cử chỉ hay lời
nói, vì họ sợ bị điểm mặt bởi công an và sẽ bị phiền phức. Chủ nghĩa
chính trị cực đoan đã thất bại cay đắng và lãnh đạo đã rút một bài
học.
Chính vì thế mà trận đấu ở Trụ Sở Trung Ương của Đảng Xã Hội được xảy
ra, nếu tôi nghĩ đúng, là trong vòng riêng tư. Chẳng có gì bất thường
đến cuối ngày. Chuyện khác thường trong cảnh riêng tư này là nó không
giống như lần ở Đại Học, hôm mà những con rối đã được nhận chỉ thị và
những thông tin nhằm để đấu đá tôi, được có ghế ngồi và tung những lời
buộc tội. Trong phòng họp, chỉ có tôi và ba người xử ngồi sau một
chiếc bàn phủ khăn xanh. Tôi ngồi đối diện với họ trên một cái ghế.
Tôi có cảm tưởng là đang trở về với lúc đang bảo vệ luận án Tiến Sĩ,
hay đang là thí sinh của một lần thi nào đó. Trong thực tế, tôi sớm
nhận ra là tôi đang đứng trước một phiên toà của Đảng được triệu tập
để bí mật xét xử một đồng chí đã phạm một tội trọng, một chuyện tai
tiếng đã làm nhơ bẩn Đảng, và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Năm 1951, trong thời kỳ bí mật kháng chiến, Đặng-Châu-Tuệ, một đảng
viên Cộng Sản, đến hỏi tôi và một người khác là Bác Sĩ
Nguyễn-Xuân-Nguyên, nạp đơn xin gia nhập vào hàng ngũ của Đảng. Những
tư cách và hành động của chúng tôi đã được trên cao lưu ý. Khi mà
những người cộng sản rất thích chủ nghĩa hình thức và luôn bị ám ảnh
bởi chuyện tập thể hoá con người như là những vật sở hữu, xếp mỗi
người tùy theo tuổi tác, nam nữ, nghề nghiệp để đưa họ vào những tổ
chức quần chúng, để giáo dục và dễ dàng quản lý. Một mặt khác, họ
không cho phép trí thức được hưởng tự do cá nhân, họ muốn kéo trí thức
vào Đảng, vào những vị trí cao và vị trí lãnh đạo, để họ hãnh diện.
Thật vậy, vào thời ấy, những kẻ tham vọng, cơ hội chủ nghĩa, mơ ước
được đứng vào hàng ngũ cộng sản đã làm nhiều cử chỉ hạ cấp để được
chiếu cố dưới mắt của những kẻ tuyển dụng. Hơn nữa, cũng trong thời kỳ
đó, khá nhiều trí thức nhận thấy tính hẹp hòi không thể chịu được của
lãnh đạo, và tính ngoan cố của họ đã bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về
Hà Nội và ở đó họ đã bắt đầu một chân trời mới khá hơn. Hậu quả là mặc
dù không ai bảo ai, Bác sĩ Nguyên và tôi cho rằng việc dành cho chúng
tôi cái “vinh dự” chỉ là một hành động chứng tỏ họ nghi ngờ chúng tôi,
muốn đưa chúng tôi vào vòng kềm toả chặt chẽ hơn qua sự kiểm soát chặt
của chi bộ Đảng và ngăn ngừa chúng tôi có có những ý nghĩ toan tính
đó. Cả hai chúng tôi đều từ chối lời mời ấy. Nhưng lãnh đạo không chấp
nhận cho chúng tôi đứng ngoài tổ chức. Họ đề nghị chúng tôi gia nhập
đảng Xã Hội. Cuối cùng, để được yên thân, chúng tôi chấp nhận đề nghị.
Thật không khôn ngoan nếu mình tỏ ra chống đối bằng khẳng định và rõ
ràng từ chối ý muốn của Đảng, nhất là trong thời kỳ bí mật kháng
chiến, có nhiều cặp mắt vô hình đang theo dõi mọi hành động chúng tôi.
Rủi ro quá lớn.
Nhưng đảng Xã Hội mà chúng tôi gia nhập là cái gì? Theo riêng ý kiến
cá nhân của tôi, đây là chỗ tập trung một số trí thức, một số rất nổi
tiếng như ông Nguyễn-Xiển, một cựu giáo sư có Cử Nhân Toán, ông
Hoàng-Minh-Giám, trước đây tốt nghiệp ngành Giáo Dục và đã dạy ở một
trường Tư Thục tên là Thăng Long. Dường như cả hai đã được liên lạc
trong thời kỳ bí mật kháng chiến. Vì vậy, trong những ngày đầu tiếp
theo Cách Mạng (tháng 8, 1945) Nguyễn-Xiển được giao trách nhiệm làm
Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Bắc Bộ, Hoàng-Minh-Giám thành phụ tá cho Hồ
Chí Minh và sau đó được đưa làm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Việt Nam. Tôi
chỉ biết sơ là họ ở trong một đảng thuộc cánh tả, trong đoàn Đại Biểu
Quốc Hội lần thứ nhất, họ đã làm cho mọi người chú ý bởi họ đều mang
cà vạt đỏ trong suốt kỳ họp. Trong thời bí mật kháng chiến, tôi được
biết cái đảng này, được trang hoàng với cái tên “Xã Hội”, đã tập trung
một số trí thức trong số những người tham gia kháng chiến tự xưng mình
là thuộc đảng trí thức mặc dù một số người đầu tiên gia nhập lại là
những người mà tôi có dịp gặp trong những vụ án mà tôi được chỉ định
làm luật sư miễn phí, họ chỉ là những người lao động chân tay không hề
có cái gì gọi là trí thức. Trở về Hà Nội, ngoài tổ những người dạy
học, đa số là giáo sư Trung Học, còn có tổ bác sĩ y khoa và dược sĩ,
và tổ thứ ba là kỹ sư và chuyên viên kỹ thuật, cùng với tổ thứ tư
tuyển chọn những thợ thủ công và những viên chúc nhà nước hạng thấp
cho từng khu, và cuối cùng là tổ thứ năm gồm những luật gia, những
người đã tốt nghiệp trường Luật ở Hà Nội, với đa số trong họ là những
quan lại bổ nhiệm ở các tỉnh trước khi được cải biên qua nghề quan toà
trong ngành Tư Pháp Việt Nam.
Trước vụ án Trăm Hoa Đua Nở, cuối cùng đã biến thành một cuộc tai biến
lớn cho giới trí thức, cái mác “Trí Thức” vẫn được xem là có giá. Đảng
Xã Hội thường tự cho mình là cao hơn đảng Dân Chủ là đảng bao gồm
những “tư sản”, những kỹ nghệ gia, thương gia đã từ bỏ niềm tin quá
khứ, đã hiến dâng tài sản cho Nhà Nước, và giữ những ghế trong Mặt
Trận Tổ Quốc. Có phải sự xuất hiện của nhiều đảng như thế có nghĩa
rằng cộng sản đang thực hiện dân chủ?
Than ôi, chẳng có chuyện ấy đâu. Trong lãnh vực này, cũng như trong
những lãnh vực khác, chúng nó bịp bợm một cách đáng xấu hổ, làm quáng
mắt nhân dân, và chúng đã tiến quá xa trong nghệ thuật hoá trang và
đóng vai giả mạo người khác. Trong cái nhìn đầu tiên và trong những
cuộc mít tính trước công chúng, đảng Cộng Sản tỏ vẻ kính trọng hai
đảng anh em kia, nhưng cao trên tường, là hai cán cờ đan chéo, một là
cờ của Liên Sô với búa liềm và một là cờ đỏ sao vàng của Việt Nam, và
trên đó là hình của bộ ba Marx-Lénine-Staline,
và ở dưới nhô ra tượng của Hồ Chí Minh bằng thạch cao đang nhìn cảnh
tượng của những nụ cười qua lại, vô số những cú cúi đầu chào nhau giữa
ba đảng với nhau và cho thấy cái vẻ rất đoàn kết giữa ba người làm
quần chúng rất ngưỡng mộ.
Không có gì còn có ý nghĩa hơn: phông cảnh dàn dựng, sân khấu, thứ tự
ưu tiên. Trên đỉnh cao là ba vị thần
Marx-Lénine-Staline tiêu biểu cho chủ thuyết Cộng Sản. Dưới nữa
là cờ hai nước, và, dưới nữa là lãnh tụ nước. Trên đỉnh cao của khối
tháp, trên ngai vàng là chủ thuyết chính trị của quốc tế vô sản nó
đang cai trị các nước và các dân tộc. Người ta có thể tranh cãi lâu
dài trên những nguyên tắc, chơi với câu cú từ ngữ, ầm ĩ cãi cọ, tung
vào nhau những cú đấm qua bài viết, chuyện đấu chữ láp giáp có thể kéo
đến muôn đời, nhưng trở về trên cơ sở những sự kiện thì việc dẫn ra
câu kết luận là không thể bác bỏ được. Ở Việt Nam, trong tất cả những
buổi mít tinh công cộng, việc dàn dựng như vừa nói trên là những chứng
cứ cho thấy độc quyền chính trị trên tất cả những sinh hoạt khác của
con người. Nó đặt dưới quyền lực tuyệt đối của nó mọi quá trình suy
nghĩ và mọi bước đi của linh hồn, một thứ quyền lực đang khống chế
toàn diện mọi diễn đạt biểu lộ của con người, nó đặt ra một hệ thống
giá trị và buộc mọi người phải tuân theo mà theo đó vô sản quốc tế đã
biến chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cá nhân của nhân dân thành nô lệ.
Văn hoá cộng sản đào tạo ra con người cộng sản chỉ có lời thề nhân
danh Marx và Lénine, chỉ biết tin vào Đảng, người nắm giữ Sự Thật,
biểu hiện một chủ nghĩa cực đoan làm cho họ không còn biết gì đến
những hiện tượng và những chuyện thực tế đang xảy ra. Họ đã trở thành
những con người với những tình cảm thật lạ lùng xa lạ và bị người đời
kết án. Bất cứ tiến bộ chính trị nào của họ cũng bị trả giá bằng một
sự thụt lùi về trí tuệ và lòng dân.
Cũng như thế, mọi bước tiến của vương triều quốc tế vô sản cũng đồng
thời là một bước lui cho bản sắc của dân tộc. Điều tuyệt vời mà ai
quan sát cũng thấy là cả dân tộc, trước đây bị vướng vào vết lún của
phong kiến, nay lại rơi vào vòng kẹp của các nước anh em và phải tung
hô những khẩu hiệu của chủ nghĩa công sản. Về phía nhân dân, họ hoan
hô tán dương thành quả của những người kháng chiến, trong thời kỳ bí
mật và tán dương những người rao giảng sau ngày Cách Mạng thành công,
thì cũng có nhiều người khác còn nghi ngại về những chuyện sai trái
của đám vẹt. Nhưng dù sao, cũng nên tự hỏi về mức độ thành tín của
quần chúng nổi dậy, đặc biệt là giai cấp nông dân, khi họ phát biểu
niềm tin mới. Chuyện này đã thấy trong thời kỳ hợp tác hoá ở nông
thôn. Nếu giai cấp nông dân càng hoan hô Đảng trong thời Cải Cách
Ruộng Đất, trừng trị giới địa chủ và chia nhau những mãnh ruộng của
họ, thì họ lại càng ngần ngại gia nhập vào những hợp tác xã nông
nghiệp, nơi mà họ không chút gì hăng hái làm việc, lại càng thờ ơ về
năng suất, điều này có thể xem như một sự phá hoại công khai! Nếu tiểu
tư sản thành phố biểu lộ một cảm tình nồng nhiệt đón mừng Chính Phủ
Kháng Chiến trong ngày họ tiến vào Thủ Đô, họ cũng cảm thấy cay đắng
khi chuyện tập thể hoá các căn phố, tước bỏ khỏi họ những phương tiện
sinh sống, làm cho một vài chủ nhân nhỏ rơi vào cảnh thiếu thốn cơ cực
đến mức tự ném mình vào sông Hồng để tự tử. Một số trí thức sẽ nói gì,
khi mà họ, những người ngay khi vừa mới vào Đảng, đã kêu gào như thể
mình là những người cực kỳ cộng sản hết lòng căm thù chống bọn xét lại
đủ cả mầu sắc và, nói một cách chung, là tất cả những kẻ hôm nay bị
nghi là dị giáo, nhưng biết đâu một vài chục năm sau, có thể đột ngột
thay đổi tư duy và đắm vào đúng những tội lỗi năm xưa mà họ đã trừng
phạt một cách hăng say cay độc?
Trên cơ sở những sự kiện mà sự thật không ai có thể chối bỏ, người có
thể cho phép mình tự hỏi cái nhiệt tình của kẻ tín đồ mới có đủ sâu,
đủ thực như người ta tưởng như thế không?
Đó là cái ngơ ngác kinh hoàng khi người ta nhìn thấy bạo lực nhân dân
đã xảy ra tràn ngập các nước Đông Âu. Những kẻ cuồng tín chai sạn nhất
bắt đầu cảm thấy những nghi ngờ làm lòng mình kinh hãi khi họ thấy
nước Liên Sô vĩ đại đang lung lay sụp đổ, mà đó lại là nước sớm nhất
đã dạy chủ nghĩa Mác Lê cho thế giới. Chủ nghĩa hoài nghi càng lớn
mạnh khi người ta nghe chính những tay giáo điều mới hôm qua còn hô
hào cỗ võ cho một tương lai xã hội chủ nghĩa, thì hôm nay lại gọi chủ
nghĩa xã hội với những nhóm từ mà trước đây họ dùng để kết án chủ
nghĩa tư bản: kinh tế thị trường với tự do cạnh tranh, luật cung cầu,
xí nghiệp tư doanh … Họ tự hỏi với mình là làm sao phân biệt giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, tại sao cùng một thứ câu chữ mà ý
nghĩa lại đổi thay một cách nhanh chóng kỳ diệu như thế? Họ lo lắng là
vẫn còn một số ít nước vẫn còn bám víu vào thứ chủ nghĩa xã hội mà số
lớn các nước “anh em” đã quay lưng chối bỏ, như một cơn ác mộng cần
phải quên một khi đã thức. Về phía dân chúng, họ cũng kinh hoàng khi
thấy đâu cũng tràn ngập những tội ác đã nhấn chìm một số lớn người của
Đảng đang cầm quyền mà bộ mặt đạo đức giả đã bị phơi bày trần trụi.
Nhưng, vào năm 1956, cộng sản Việt Nam đang trên đà vinh quang và tự
hào với những niềm vui chiến thắng. Đặc biệt là trong khía cạnh đạo
đức, Đảng cầm quyền vẫn còn giữ được mình trong sáng, được nhân dân
vinh danh, kính trọng và tin tưởng. Nó cưng chiều bao trùm với cặp mắt
đầy thoả mãn hai đảng Xã Hội và Dân Chủ, hai đứa con được sinh ra từ
cái tội lỗi dễ thương của chủ nghĩa hình thức, để chúng làm hết khả
năng hầu chứng tỏ đạo làm con trung hiếu với người cha sinh thành ra
chúng. Đảng đã sinh ra, nuôi dưỡng chúng với những giọt máu đỏ tốt
nhất của mình, cho chúng những căn nhà đẹp nhất, cho người phục vụ
chúng, và đặc biệt nhất là giúp chúng sống cuộc đời vương giả bằng
cách chu toàn mọi tiền bạc để chúng sinh hoạt. Tất cả chỉ để duy nhất
yêu cầu chúng thay Đảng đóng tuồng, gây ít nhiều tiếng vang cho Đảng.
Nhưng trò đùa đó không đánh lừa được một ai, ngay cả trong hay ngoài
nước. Tính đa đảng tiêu biểu cho một nền dân chủ không có ở đây chỉ có
bức tranh biếm hoạ được sinh ra bởi những ý nghĩ kỳ quặc của chủ nghĩa
hình thức tưởng rằng đã đánh lừa thiên hạ mà thật ra là tự mình đánh
lừa mình mà thôi. Trò chơi kéo dài trong nhiều năm, đã làm cho lãnh
đạo tách mình riêng thoả mãn sống đời phúc đức. Những món tiền kếch xù
được tung ra xài cho những chuyện đó và tới lúc công quỹ quốc gia sẽ
phải lên tiếng kêu cầu cứu sau khi đã thắt lưng buộc bụng cho tới đồng
xu hào cuối cùng! Duy trì hai người bà con đáng thương kia tốn rất
nhiều mà chả được tích sự gì, nên đã có quyết định là đá chúng đi, và
chúng đã biến mất không kèn không trống, như những kẻ ăn mày xấu hổ
lĩnh đi với những cái bát xin ăn từ nay sẽ trống hoắc.
Người dân rồi cũng biết trong bầu không khí ngập tràn yên tĩnh và tôn
kính, nơi mà bọn ký sinh ăn bám xã hội đang đòi hỏi những kẻ lợi dụng
nó phải biết thần phục và ngoan ngoãn, đã xảy ra chuyện điên rồ của
một anh trí thức “xã hội chủ nghĩa” mà hậu quả là như một quả bom của
bọn khủng bố. Vụ tai tiếng quá lớn để có thể giấu giếm hay chẹt giấu
nó dưới thùng gạo. Đưa kẻ tội đồ ra xử trước thẩm quyền của Mặt Trận
và của Đại Học là nơi mà nó sinh hoạt cũng chưa đủ; nó phải được giao
cho đảng Xã Hội mà nó là một đảng viên xử tội, bất kể nó muốn hay
không muốn. Rõ ràng là đang có một yêu cầu cấp bách và cần thiết là
tất cả những tổ chức mà nó là thành viên, phải tẩy chay và thẳng thừng
loại bỏ nó như một người xấu một cách không thương tiếc, để giáo dục
nó cũng như giáo dục những người khác.
Vì thế, trận đấu tố lần thứ ba này được tổ chức tại trụ sở trung ương
của đảng Xã Hội. Khác với hai lần trước, không có đám đông tham gia:
trong yên cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn đang xuống, tôi phải
một mình đối diện với các quan toà, với người thẩm phán gốc quan lại
mà tôi vừa tả trong phần trước đây, một thẩm phán thuộc Toà Án và một
luật sư, cả ba đều thuộc về cho chi bộ Luật Gia mà tôi cũng là một
thành viên. Ba người như ba bóng ma trong một cái địa ngục yên lặng cô
quạnh đang chờ đợi với một sự kín đáo không ngờ. Tôi thật sự ngạc
nhiên và tự hỏi mình vì sao thế. Có phải tại vì thương hại mà người ta
muốn cho tôi bớt nhục nhã? Thật sự tôi không thấy là chủ nghĩa cộng
sản lại có những đức tính đó, dù là tự nhiên hay được dạy, mà trái lại
họ trốn biệt sau lưng sự lạnh lùng dửng dưng, không chút rộng lượng
khoan dung đối với những lỗi lầm chính trị đã gây ra những thiệt hại,
dù là nhỏ nhoi, cho quyền lợi của họ.
Cuối cùng rồi tôi cũng hiểu ra vì sao có sự thay đổi về tấn tuồng như
thế, nó đi với vấn đề dàn dựng và với các kịch sĩ trên sân khấu. Tôi
được biết rằng hai lần đầu tố ở Mật Trận và ở Đại Học đã gây hậu quả
trái ngược với những gì họ chờ đợi. Tôi đã thoát hai lần đó, không
những không bị sỉ nhục và phải đấm ngực thú tội mà còn được tiếng thơm
của một kẻ chiến thắng đã biết giữ vững vị trí của mình, băng mình qua
cuồng phong bảo tố để bảo vệ quan điểm của mình đối mặt với những tấn
công nhắm vào nó. Người ta đã chờ đợi kẻ phạm tội thành khẩn hối lỗi
và nhận thức tội lỗi của mình để hắn có thể giữ lại được chỗ của mình
trong Nhà Nước. Nhưng tôi đếch cần để ý đến những lời hiểu ngầm đầy
hăm doạ, đến chiếc đao đang treo lơ lững trên đầu, tôi là một trí
thức, với đủ cách lý luận và khôn khéo, đã thọc ngón tay vào vết
thương và đã mở mắt cho những kẻ hèn nhát quá sợ chủ nhân trả thù
trừng phạt, run sợ trước tù đày và sợ mất quyền lợi của mình và người,
tự đâm lủng con ngươi, xuyên lủng màn nhĩ để không phải nghe, không
phải thấy bất cứ gì về sự thật. Vì thế họ cảm thấy cần phải tránh
không cho quần chúng tham dự và nghe được những lời tự bào chữa mà
dường như đã trở thành những lời buộc tội.
Tôi cũng được biết rằng, nếu đã có vài chục trí thức không được mời,
có ba luật gia cùng từ chức: Đinh-Lộ, Vũ-Như-Giai và Nguyễn-Hữu-Đắc,
và nếu lần này họ không làm công khai vì họ không muốn làm giới trí
thức lưu ý, là vì cuộc tranh cãi giữa những quan toà và bị cáo đã mở
ra cuộc tranh luận về thái độ của người trí thức sống trong thế giới
cộng sản và đối mặt với chủ nghĩa cộng sản. Những người đến xem không
được vào để biết những điều mà họ chưa bao giờ để ý đến từ trước đến
nay.
9. Thái
độ của người trí thức trong thế giới cộng sản
Viên thẩm phán chủ trì phiên toà là người mà người đọc biết khá rõ là
ai, mở màn đợt tấn công. Với cái nhiệt tâm của một kẻ
“không-thuộc-đảng-nào” đang mong muốn được chuộc lại cái quá khứ tai
hại của mình, với ánh mắt toé lửa, thoả mãn được có dịp tấn công một
trí thức mà vị thế xã hội của người đó đã làm cho ông ta ganh tị. Ông
ta chuyển giọng giận dữ điên tiết:
- Đồng chí, ông đã đạt những thành công chưa từng có trên con đường
Đại Học, đã được lòng tin của lãnh đạo của chúng tôi và ông đã được
đưa vào trung ương của mười tổ chức quần chúng, ông còn tham vọng gì
nữa chứ? Học sinh và sinh viên không hề quên những bài giảng của ông
cũng như họ không hề quên hành động mà ông đã từ chức ngay tức khắc
khi tay thanh tra thực dân đến gây khó cho ông, và sau đó quay lại
hành nghề luật sư mà ông đã tuyên thệ vào năm 1932 ở Pháp, nhanh chóng
đạt được sự tin cậy của thân chủ, và từ đó dành được một vị trí nổi
bật trong xã hội. Chúng tôi cũng biết rằng trước khi gia nhập bí mật
kháng chiến, ông đã hiến tặng toàn bộ ba căn nhà thừa kế của gia đình,
và suốt mười năm trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân trong vai
trò vừa là giáo sư vừa là luật sư ông đã cống hiến rất nhiều cho Đất
Nước. Đáng lẽ ra ông nên tiếp tục hưởng niềm hạnh phúc của một cuộc
sống rất đầy đủ về mọi mặt, không cần xen vào những chuyện đấu tranh
chính trị mà ông đã tự đưa ông vào thế đối nghịch để giáng những cú
đánh vào Đảng là người đã luôn nuông chiều và đưa ông lên những vị thế
làm nhiều người khác ganh tị. Đó là một sự phủi ơn, chỗ này thì tôi
không thể lầm! Có bao giờ ông suy nghĩ về một thái độ đúng đắn mà ông
phải có đối với những người công sản chúng tôi đang bị kẻ thù tấn công
trên mọi mặt trận? Ông phải biết rằng thái độ mà ông đang có là đã làm
hại cho ông và hơn thế nữa đã làm hại cho một Đảng đã làm nên những
chiến thắng vĩ đại đáng được nhân dân vinh danh, kính trọng và ca
ngợi.
Đó là lời buộc tội mà tôi là đối tượng và được đưa ra dưới hình thức
những câu hỏi. Cho phép tôi được tóm tắt và cô đọng những đề tài buộc
tội chính để có thể dễ dàng đưa ra những nét chính. Mặt khác, cũng xin
cho phép tôi được tóm tắt và trình bày những nét chính về những trả
lới của tôi để mọi người có thể dễ dàng nắm các ý.
- Thưa đồng chí, tôi tin rằng ông không sẽ phiền lòng khi tôi cho
rằng ông đã có một nhiệt tâm rất thành thực, ít ra tôi cũng mong là
như thế, xây dựng Đảng. Thật ra những vinh dự mà Đảng đã hoang phí ban
cho tôi cũng chẳng đáng chi so với những gì mà Đảng đã dành cho những
ai hết lòng hết dạ với Đảng. Tôi đã bị loại ra khỏi ủy ban trung ương
của hơn chục tổ chức quần chúng mà chắc ông cũng như tôi đều biết, đó
là những chức vụ hoàn toàn có tính lễ nghi, không hiệu năng mà cũng
chẳng có thực quyền, đó chỉ là những chức vụ mà tôi là chỉ kẻ dư thừa,
trong tinh thần của Mặt Trận Tổ Quốc để làm kẻ đi rao giảng cổ vũ cho
sự đoàn kết và hoà hợp, ủng hộ Đảng một cách không sai chạy và toàn
diện. Về phần đồng chí, thì ngược lại, đồng chí có một cuộc đời nghề
nghiệp rất ấn tượng. Nếu, mới ngày hôm qua đây thôi, đồng chí còn đang
mò mẫm trong vũng lầy thối rữa của phong kiến, thì ngày hôm nay đồng
chí đang ngồi trên cái ngai Chủ Tịch của Toà Kháng Án trong khi đang
chờ ghế khác ở Toà Án Tối Cao. Đảng đã tha thứ cho cái quá khứ của
đồng chí, đã coi đồng chí là người xứng đáng. Đồng chí đã thành đạt
tốt nghiệp trường Luật, làm việc siêng năng và không ngơi nghĩ để trả
lời về tất cả những vấn đề mà đồng chí được hỏi ý kiến. Đồng chí là
người tiêu biểu cho tinh thần một công bộc hoàn hảo nhất, luôn bên
mình với chiếc cặp da đầy giấy tờ và với thói quen luôn ghi chép mọi
góc cạnh của mọi lãnh vực. Hơn thế nữa, tốt hơn thế nữa, đồng chí đã
chứng tỏ là cái vững chải sáng suốt và sắc sảo khôn ngoan đã giúp đồng
chí thành công trong tất cả các nhiệm vụ và nghề nghiệp mà đồng chí đã
trải qua, và nhờ thế đã thoả mãn được tham vọng của mình. Ngày hôm
qua, đồng chí là một mệnh quan của Triều Đình, ngay hôm nay đồng chí
chủ tọa Toà Án Hà Nội, lấy những quyết định, và dĩ nhiên với sự phê
chuẩn và dưới sự giám sát của Đảng, trên số phận và ngay cả mạng sống
của những người bị giao cho đồng chí xét xử. Dù ở bất cứ Toà Án nào mà
ông đang triển khai khả năng, ở Huế hay ở Hà Nội, ông luôn luôn chứng
tỏ mình là người của Toà Án, đã cống hiến cho cả hai định chế hoàn
toàn đối nghịch với nhau, một bên là quân chủ và phong kiến, một bên
là cộng sản và cách mạng, với cùng một nhiệt tình, một sự hết lòng và
cùng một sự ngoan ngoãn dễ bảo! Đồng chí cho rằng cuộc sống của tôi là
được lấp đầy hạnh phúc. Làm sao nó có thể sánh bằng với cuộc đời của
đồng chí? Tôi thì như người bị tàn tật không khả năng đùa với nước và
lửa. Một người cộng sản dù có đỏ thắm đến đâu vẫn không thể nói gì
thêm về những lời lẽ ngôn từ của ông dầu rằng ông vẫn chưa được vào
Đảng.
Cho phép tôi được khen tặng ông về sự sắc sảo và con người dễ thay đổi
của ông. Ông luôn luôn đứng đúng chỗ, đúng nơi bất kể những thăng trầm
của Lịch Sử, và ông luôn luôn là người thắng cuộc. Người “đồng chí” mà
ông đang xử án là người đã mất tất cả: những của cải có được với sức
lực mồ hôi mà hắn đã cống hiến cho chính nghĩa của Tổ Quốc và Nhân
Dân, mất cả vị trí trong Luật Sư Đoàn, ngày mai đây sẽ bị trục xuất ra
khỏi Đại Học là nơi hắn đang giảng dạy cho tới nay để kiếm sống.
- Đồng chí, ông đã đi ra ngoài chủ đề. Tôi đã đặt cho ông một câu hỏi
rõ ràng và tôi đang mong ông trả lời câu hỏi đó. Tôi chắc rằng ông
biết rõ những điều tai hại mà ông đã gây cho chính nghĩa của chúng
tôi, của nhà nước Cộng Sản. Ông sẽ cãi với tôi rằng quần áo dơ là phải
mang đi giặc. Vâng, chuyện phải là như thế, nhưng phải ở trong gia
đình. Nhưng mà ông đã phơi tuột chuyện ấy ra trước thanh thiên bạch
nhật! Chủ tịch ngàn lần và ngàn lần kính mến và yêu quí của chúng ta
đã thường nói là chỉ có những người chết và những đứa bé nằm trong nôi
mới không phạm sai lầm. Chuyện mà Đảng phạm sai lầm cũng là chuyện
bình thường! Nhưng đó không phải là chuyện phải đem ra trước công
luận, dù ở trong nước hay quốc tế, nhất là hành động đó lại phát xuất
từ một trí thức nỗi tiếng như ông.
- Chuyện giặc đồ dơ phải nên làm trong gia đình, chuyện ấy không
sai. Nhưng nếu Đảng mà có làm sai là điều chấp nhận được, và những sai
lầm ấy phải được sữa chữa, thì thử hỏi có cách nào báo cho Đảng biết
những sai lầm để những sai lầm đó được sửa chữa? Có một cơ quan nào để
nhân dân có thể đến đưa những khiếu kiện mà họ hy vọng là sẽ lên đến
cấp thẩm quyền có trách nhiệm không? Cái thùng chờ người ta vứt rác
giấy tờ vào thì không thể tiết ra được những lời tung hô thơm tho mà
lãnh đạo thích ngửi. Hơn thế nữa, nhân dân có quyền hành xử và quyền
được phát biểu những gì họ không đồng ý với Đảng. Tôi cũng muốn nhắc
với ông rằng, trong những lần họp của Đảng Xã Hội, ngay khi chỉ vừa
nghe có người tỏ ý bất đồng quan điểm là ban chủ toạ lập tức loại ngay
người bạn ngây thơ đang tưởng rằng mình đang chia sẻ những suy nghĩ
cho mọi người. Đảng cầm quyền đã cài đặt một ít người của họ trong
Trung Ương cũng như trong các Ủy Ban Điều Hành địa phương của đảng Xã
Hội để theo dõi và ngăn chận mọi tiếng nói chói tai. Những “lãnh đạo”
của đảng Xã Hội, mà trong đó có ông, đều biết những hậu quả gì cho
mình nếu để một sự chống đối dù là nhẹ nhất hiện diện trong hàng ngũ.
- Nhưng, quả thực đây là một sự khôn ngoan, khi mà trí thức không biết
hay không thể biết đi thế nào cho đúng hướng, họ hay có những bước đi
loạng choạng, vì thế cần phải có những người giám hộ để giúp họ giữ
vững lập trường và có một đầu óc lành mạnh. Tại sao phải bận tâm về
những chi tiết tầm thường thấp kém đó khi mà một người đã toàn sức cho
một mục tiêu nhằm tạo nên một hình ảnh vĩ đại của một dân tộc đồng
lòng đứng sau lưng một đảng đang hãnh diện có được niềm tin trọn vẹn
của quần chúng trong nước và được sự hỗ trợ quốc tế của các nước anh
em, và các nước tiến bộ trên thế giới?
- Thú thật là tôi rất nhạy cảm với cái hình ảnh đẹp đẽ mà trong đó
những dân tộc anh em cùng theo sát gót chân của hai ông anh cả Liên Sô
và Trung Quốc, cùng kêu gào về sự dẫy chết của chủ nghĩa Tư Bản và
tung hô niềm tin vào chủ nghĩa Xã Hội. Nhưng tôi rất ngần ngại khi
phải trả một cái giá quá sức cao, quá đáng và không thể hình dung nỗi
để đạt cái chiến thắng của chủ thuyết Marxisme-léninisme và đạt cái
gọi là đoàn kết của nước cộng sản, đạt cái hạnh phúc cho các dân tộc,
buộc họ phải chấp nhận những giá trị mà tới nay chưa bao giờ ai biết
là gì, bất chấp đạo lý của những giá trị mà họ đang có từ lâu đời,
cướp mất khỏi tay họ những thứ quyền tự nhiên nhất, đúng đắn và có ích
nhất từ hàng ngàn năm nay, đưa họ vào khốn cùng và nghèo đói ở hôm nay
và làm họ nghi ngờ cả tương lai. Tôi tôn trọng những ý kiến nhưng tôi
càng tôn trọng con người mà chỉ có số phận của họ là làm tôi lo lắng.
Tôi muốn nhấn mạnh ở một điểm. Quan điểm của tôi là có nhiều sắc thái.
Những ý kiến, tôi tôn trọng chúng, nhưng tôi luôn giữ thái độ cảnh
giác và sáng suốt, tôi dành quyền được xem xét chúng, xuyên suốt
nghiên cứu chúng đến từng chi tiết nhỏ nhất, phê bình và suy nghĩ, và
cố gắng tách những hạt mầm ra khỏi rơm rạ. Tôi chẳng đẩy tôi thành kẻ
thù của bất cứ ai về bất cứ chuyện gì, tôi chỉ muốn phấn đấu phân biệt
cái gì là tốt nhất giữa những cái xấu nhất. Khi mà tất cả những cá
nhân và những chủng tộc ai cũng có những phẩm chất và những sai lầm,
thì tất cả những chủ thuyết cũng có những điều tốt và những điều xấu.
Một chiết trung xứng đáng sẽ tránh cho chúng ta một thái độ thờ ơ, một
sự bất công trong đánh giá, một thái độ cực đoan trong hành động. Tôi
đánh giá cao chủ nghĩa Marxisme-léninisme vì những điều mới lạ dồi dào
của nó, về cách tiếp cận trí não mới và độc đáo, về quan điểm biện
chứng đối với thực tế của cuộc sống, nhưng tôi không thể lấy màn che
mắt mình trước những sai lầm to lớn, tàn ác và đầy tội ác được gây ra
bởi những kẻ đang áp dụng nó, và những kẻ vô văn hoá, ích kỷ, đầy định
kiến và mê muội một cách đáng xấu hổ đang gây ra đầy dẫy những bất
công và vô nhân đạo. Tôi xét đoán dựa trên những sự kiện, và xem xét
chúng trên cơ sở nhân và quả. Tôi tự mình tránh xa những logic cong
vẹo và có tính hình thức mà lãnh đạo hay dùng để bào chữa cho những
quyết định của mình, trong khi cái chuẩn duy nhất để đánh giá một
chính sách hay những đường lối chính trị là tự hỏi mình xem nhờ đó mà
dân tộc thực tế ngày nay đã được cải thiện những gì? Chúng tôi không
phê phán chủ nghĩa cộng sản hay những người cộng sản mà chỉ chỉ trích
một số lãnh đạo cộng sản đang bị thui chột với những cách thức lý luận
phức tạp và đang hành xử một thứ chủ nghĩa duy ý chí bệnh hoạn, quay
lưng lại với hiện thực, đưa ra những lời hứa đẹp đẽ để lừa phỉnh quần
chúng, sẵn sàng tuốt gươm nhẫn tâm tàn sát những kẻ bất hạnh dám nghi
ngờ tính bách chiến bách thắng của họ.
- Có thể thấy rõ là ông đã bị méo mó bởi những gì ông đã học được từ
văn hoá phương Tây. Ông đã biến thành người bi quan, đâm ra nghi ngờ
mọi chuyện, ông không còn thấy được những gì vĩ đại của con người và
sự vật, ông đã tự mình biến mất trong chi tiết và không còn khả năng
thấy những gì là tổng thể, đại cuộc và đặc biệt là cái gì cũng bị ông
chỉ trích. Người ta tự hỏi có phải chăng chính nền văn hoá Tây Phương
đã ngăn chận bước đi để chận con đường dẫn ông về với Dân Tộc và Tổ
Quốc?
- Năm 1932, khi tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên, và đặc biệt là
lần vào năm 1940, khi tôi phổ biến những bài viết của tôi bằng Pháp
ngữ, ngay trong thời thực dân Pháp, tôi cũng đã bị những lời sĩ nhục
tương tự. Tôi không chối là tôi chưa bao giờ đi học ở một trường tiếng
Việt nào, tôi đã học trường Paul Bert và sau đó là trường Albert
Sarraut đã cho phép tôi lấy xong bằng tú tài vào năm 16 tuổi và lấy
hai bằng Tiến Sĩ Quốc Gia về Luật và Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương
vào năm 22 tuổi. Văn hoá Pháp và phương Tây đã đào tạo tôi như ngày
nay. Tôi đã hấp thụ những phẩm chất và những yếu kém của tinh thần văn
hoá Pháp: yêu mến sự rõ ràng, chính xác và logic, nhưng cũng yêu tính
phê phán trong phương pháp tiếp cận con người hay một vấn đề. Tôi luôn
đề cao thực tế, sự thực, sự công bằng và tôi rất ghét sự dối trá, kinh
hãi đối với sự cuồng tín, tôi muốn đã phá những vĩ đại giả hiệu, những
kiêu căng dị hợm. Tôi rất ghét chính trị vì nó làm hư hỏng con người,
biến họ thành những người nói láo, bất công và tàn bạo, chất chứa
những gì đủ để làm điên loạn lương tâm. Tôi tránh xa quyền lực để
không bị vướng vào hai thái độ sống hèn hạ như nhau: hoặc sống xa hoa
với cái lưng luồn cúi và nụ cười nịnh bợ, hoặc phải chấp nhận chuyện
điên rồ quái dị, theo ý của họ, chia sẻ những thành kiến và luôn đứng
chung với họ trong mọi lễ lộc, biến cố. Tôi tránh đi lại với mấy ông
lớn và càng tránh xa những kẻ này. Tôi giữ mình được tự do, độc lập
trong tư tưởng và hành động, tôi hoàn toàn ý thức về những tội ác của
các lãnh đạo tư bản, những đồng thời tôi cũng thấy được những tàn bạo
của lãnh đạo cộng sản. Tôi như bị kẹt, ép giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa cộng sản, tôi tìm quên trong tình yêu dân tộc và những truyền
thống mà tôi đã biết rất rõ mọi điều vinh nhục. Sống trong một thế
giới cộng sản như ngày nay, thái độ sống của tôi là một trí thức trước
sau như một, không thể phản bội lại tư cách của một người có học.
Cái gi đã khiến tôi phải chọn một thái độ sống như thế? Là cái được đề
nghị rằng nhân dân phải được quyền quyết định cho số phận của mình, là
mọi chuyện phải được quyết định BỞI dân và CHO dân. Chọn cái tên nào
để đặt cho một chính quyền như thế không quan trọng. Từ “dân chủ” là
tên gọi hay nhất nhưng nó cũng chỉ diễn đạt được một khía cạnh: chính
quyền BỞI dân. Công thức cái tên gọi phải thể hiện đầy đủ việc chính
quyền CHO dân. Một nền dân chủ thật sự chẳng cần đến cái tên gọi gán
ghép cho nó. Chẳng có gì là vấn đề nếu nó được gọi là “tư sản” hay “xã
hội chủ nghĩa”, câu hỏi hiển nhiên nhất là dân có được hạnh phúc và
được quyền làm chủ vận mệnh của mình hay không? Dân có thực hiện được
mơ ước của mình trên mọi lãnh vực sinh hoạt, cá nhân hay tập thể, thể
chất, trí thức, đạo đức và tinh thần hay không?
- Ông không biết những gì đang chờ đợi ông. Nhà Nước cộng sản của
chúng tôi chỉ chấp nhận duy nhất một thái độ sống của người trí thức.
Họ phải nằm trong đường lối chính trị của cộng sản, biểu lộ lòng tin
nơi Đảng, trung thành với Đảng, sống và suy nghĩ dưới sự chỉ đạo và
theo cách mà lãnh đạo Đảng đã xếp đặt. Những ai đi chệch xa con đường
này, trở thành kẻ xa lạ dị giáo, sẽ bị trừng phạt như những kẻ phản
bội phản động. Đây là cơ hội chót để ông tự ăn năn hối cải về sự táo
tợn và trơ trẽn của mình. Ráng mà biết lấy nhé.
- Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của mình. Nếu xã hội, nói
cách khác là nhân dân, có thể đạt đến một trình độ văn hoá cao, ở mức
lương tâm trong sáng, biết suy nghĩ chín chắn, thì những người can đảm
có tư duy khác với con đường chung cũng không ai sẽ bị trừng phạt,
nhưng ngược lại sẽ được khuyến khích, vì mọi tiến bộ của đất nước là
tùy thuộc vào đó. Nhưng lịch sử của loài người đã chứng minh là không
có một dân tộc nào có thể tự mình kiếm ra con đường để ra khỏi khu
rừng của ngu dốt, của thành kiến và hèn nhát để đi đến một vùng trời
đầy nắng và ánh sáng. Ở thành phố Athènes, Socrates đã uống thuốc độc
để làm gương suy nghĩ cho trí thức trên thế giới phải những người giữ
vai trò tiên phong, trinh sát dẫn đường trong cuộc hành trình đầy khó
khăn và cực nhọc để đưa những dân tộc đi tìm chút niềm vui và
hạnh phúc.
Hơn nữa, dân tộc ta đã chịu sự du nhập của một chủ nghĩa hoàn toàn
ngoại lai. Không hề dính dáng đến cội nguồn của dân tộc. Những nhà yêu
nước vĩ đại mà mọi người đang yêu mến và kính phục đã ủng hộ chủ nghĩa
đó, bảo trợ nó, đế nghị nó, rồi áp đặt nó trên đầu dân chúng, đồng
thời đưa ra lới hứa chắc là nó sẽ là chiếc chìa khoá để mở cửa thiên
đường hạ giới. Dân tộc tin vào lời hứa của lãnh đạo và đang chờ giờ
lời hứa thành hiện thực. Chính là nhờ vào sự đồng lòng của dân tộc mà
chúng ta đã dành lại tự do và độc lập. Những bàn tay lao động và những
bộ óc trí thức đã chung sức góp phần quan trọng cho Đảng đang cầm
quyền.
Nhưng rủi thay, cuộc hành trình đã xảy ra không suông sẽ. Những lãnh
đạo, luôn hãnh diện với những thành quả quân sự vinh quang đã đạt được
mà họ cho rằng chủ nghĩa Marxisme-léninisme là căn cơ chính, niềm tin
đó được họ mang đi áp dụng vào mọi lãnh vực, không cần biết đến khoa
học và thực tế, mặc dù những người cộng sản luôn tuyến bố tôn trọng
chúng. Sự nghèo khổ của nhân dân đã trở nên kinh hoàng mặc dù lãnh đạo
vẫn cứ khoe khoang điều ngược lại.
Đối mặt với hoàn cảnh thảm thương như thế thử hỏi người trí thức phải
chọn thái độ nào? Có những kẻ tự che mắt bịt tai hoà chung với ban hợp
ca gồm những kẻ cơ hội chủ nghĩa và bợ đỡ cùng cao tiếng “Chủ nghĩa
cộng sản chiến thắng. Đảng Cộng Sản vinh quang!” Những kẻ này thu góp
những vinh quang và đặc quyền và vui sướng hưởng lợi cho đến đời con,
đời cháu. Công chúng quá biết họ và không dành cho họ một chút kính
trọng nào. Những ai biết suy nghĩ và có lòng yêu thương dân tộc và tổ
quốc thì không thể kéo dài sự im lặng và thờ ơ với nỗi đắng cay của
một niềm hy vọng đã mất và một giấc mơ bị giễu cợt. Họ lớn tiếng tố
cáo những nguyên do của những sai lầm và đề nghị những biện pháp để
sữa sai. Họ lại bị đánh gục, bỏ tù suốt đời với cái tội là phản đảng,
phản cách mạng và kẻ thù của dân tộc! Họ chỉ còn một niềm an ủi duy
nhất là nhân dân hiểu, thương xót họ dù rằng không ai có thể làm được
gì để giúp họ. Họ chỉ còn biết chờ một sự công bằng của lịch sử.
Không có một bản án nào được đưa ra.
Cộng sản luôn luôn thích bí mật. Mọi quyết định đều lấy và đem áp dụng
trong vòng yên tĩnh đến chết người. Không có gì được hé ra cho công
chúng biết: sự bí mật được giữ gìn kín đáo để tránh gây những xúc động
không cần thiết hay những xáo trộn đáng tiếc. Cộng sản luôn tiên liệu
mọi chuyện và tuỳ đó mà xử lý.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|