Kẻ Bị Mất Phép Thông Công
Hà Nội
1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức
Nguyên tác:
“L’excommunié”
Nguyễn
Mạnh Tường
- 13 Tháng 5 năm 1991
Dịch gỉa: Nguyễn Quốc Vĩ - 23 Tháng 11 năm 2009
PHẦN BA:
Hành trình đi vào sa mạc
1. Lưỡi kiếm của
Damoclès
2. Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về
3. Cái đói bi thảm
4. Bi hài kịch của một cuộc trả giá
5. Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn
4. Bi hài kịch của một cuộc trả giá
Nếu cái bi kịch đói chỉ có một kịch sĩ duy nhất và chỉ là màn độc
thoại đang ngang qua những câm nén đầy bi thương, thì những cuộc mặc
cả mà tôi kèn cựa để bán những tài sản riêng có thể bán được đã xảy ra
như một màn bi hài kịch mà nụ cười đang sánh vai cùng nước mắt. Người
bán, kẻ đang cố nuốt dòng nước mắt, khóc thầm cho nỗi khổ đau và niềm
tủi nhục mà cái đói là nguyên do chính, lại phải nở nụ cười cho cái
dối trá và điệu bộ của người mua đang cố cò kè cắt xén bớt số tiền
phải trả để mua một món hàng thật sự quí và có giá trị với cái giá
thấp tột cùng.
Những gì chúng tôi bán trước tiên là những bộ trang phục mà vợ chồng
tôi hay mặc lúc còn thời vàng son để dự những buổi chiêu đãi hay lễ
lộc được mời, trước khi Cách Mạng về làm đảo lộn mọi trật tự của xã
hội, kéo người dân ra khỏi những truyền thống và thói quen đã có từ
hàng ngàn năm mà cái thần thánh của các lãnh đạo và cái phong cách
sống trong sáng của họ phải là mẫu mực mới cho xã hội! Tất cả nữ trang
bằng vàng chúng tôi đã bán hết trong thời Bí Mật Kháng Chiến để giúp
gia đình cầm cự qua ngày và trụ lại trong hàng ngũ Kháng Chiến. Nhưng
sau khi về lại Hà Nội, cha mẹ tôi và bạn bè đã cho chúng tôi vô số
quần áo đắt tiền: áo lụa, sa tanh, gấm thêu, vải nhung từ Trung Quốc,
những bộ quần áo mà vợ tôi từ nay không còn dịp để mặc. Về phần tôi,
tôi đã mang về, sau những chuyến công tác ở Bắc Kinh, Vienna, Lục Xâm
Bảo những bộ âu phục may đo bởi những người thợ may bậc thầy chuyên
cung cấp quần áo cho nhân viên các sứ quán.
Nay thì nhiều tập quán thói quen đã thay đổi. Tất cả phụ nữ phải phô
trương diễn hành với những bộ đồng phục mà các cán bộ nữ quyết định:
quần đen, áo trắng. Tất cả các ông đều mặc đồng phục kiểu Staline hay
Mao, sau đó là kiểu dáng do quí ông lãnh đạo cộng sản và các cán bộ
quyết định: áo cổ đứng, quần rộng. Áo dài, quần trắng của phụ nữ, áo
sơ mi và cà vạt của đàn ông thì bị cái khắc khổ của những người cộng
sản kết án là những tàn tích của tư sản. Người ta có thể cười hay khóc
vì đó. Người ta có thể cười khi thấy cả dân chúng trong những bộ đồng
phục rõ ràng là đơn giản và rẻ tiền, nhưng vô danh, giết đi tính cá
biệt của con người, giết đi nhân cách riêng của họ, và giết đi những
tính cách riêng của mỗi người là những cái cho phép người ta có thể
hiểu, gây thân thiện và ngay cả để giao tiếp, chia sẻ thông cảm với
họ. Một người nước ngoài, hay ngay cả người bản xứ cũng không thể dễ
dàng phân biệt thiên hạ, giữa người này người kia. Có người cười cho
rằng đó là điều giả dối, nhưng người ta vẫn thấy đó là điều vĩ đại. Cả
dân tộc đã trở thành nô lệ cho ý muốn của lãnh đạo, nô lệ tới mức vâng
lời cả những ý tưởng bất chợt và kỳ quặc của họ, trở thành một khối
đồng nhất với một kích cỡ quá lớn. Đó là một điều vĩ đại không thể
chối bỏ nhưng nó cũng là một nguy hiểm cho an ninh của các dân tộc và
cho Hoà Bình Thế Giới. Một Hitler ở Đức, một Mussolini ở Ý, chỉ có
quân đội và thanh niên là mang đồng phục, thế mà cái tội ác của chủ
nghĩa phát-xit đến nay vẫn còn làm nhân loại kinh hoàng, lợm giọng.
Làm sao có thể lường trước được những tai hoạ kinh hoàng gây bởi cả
một dân tộc đang dậm những bước chân lính trận dưới lệnh của những ông
chủ mà quyền hành là quá lớn, không giới hạn, không kềm chế, nảy sinh
những ý tưởng hoang đường điên rồ có thể gây ra những thảm hoạ ở tầm
thế giới.
Người ta cười, khóc. Nhưng, tệ hơn nữa, người ta đang cảm thấy thật
đáng tiếc cho một dân tộc đang bị kết án phải mang một thân phận tôi
tớ về tư tưởng, một sự tự sát về tâm hồn và con tim.
Vì thế, tôi hiểu rằng không thể có gì nhiều trong việc đi bán những
quần áo đắt tiền ở một thủ đô mà chuyện ăn mặc khắc khổ đã được cộng
sản quản lý chặt chẽ. Không có một cửa hàng bán đồ cũ nào ở Hà Nội.
Đồng phục nam, nữ đều dùng những loại vải rẻ tiền, làm trong nước,
không được bền, khi người ta muốn bỏ thì chỉ có việc vứt vào thùng rác
như những miếng giẻ rách.
Tôi đến những tổ hợp may mặc. Họ lịch sự từ chối: “Chúng tôi biết
những quần áo của ông thuộc loại đắt tiền. Nhưng chúng tôi biết bán
cho ai bây giờ trong khi không còn ai mặc những thứ ấy? Tất cả những
gì chúng tôi có thể làm được là cắt nhỏ nó ra để may quần áo cho trẻ
con. Nhưng đấy cũng lại là một điều đáng tiếc nữa. Những cán bộ bình
thường thì đâu có tiền, mà dẫu có tiền họ cũng không dám mua cho con
vì sợ bị các đồng chí khác phê bình, khám phá ra những kẻ này còn mang
những mầm mống của chủ nghĩa tư bản! Con cái những ông lớn thì ăn mặc
như những hoàng tử, công chúa với những bộ quần áo do những cán bộ
trong ngành ngoại giao hay ngoại thương mang về biếu sau những chuyến
đi công tác ra nước ngoài để cầu mong những đặc ân và che chở.
Nhiều ngày tôi đã đi quanh những con đường, lê theo mình gói quần áo,
từ phố Huế qua phố Hàng Lụa, từ phố Hàng Đường quanh qua phố Hàng Gai.
Không ai muốn những đồ cũ của tôi. Cuối cùng khi tôi qua phố Hàng
Buồm, một người đàn bà tốt bụng khi nhìn thấy dáng bộ thiểu não của
tôi bèn hỏi thăm cớ sự. Chính bà ấy đã cứu tôi khi cho tôi địa chỉ một
nhóm kịch may ra họ có thể mua đồ của tôi để các nam nữ kịch viên có
mà diễn trên sân khấu. Tôi nghe theo lời khuyên và xoay xở lần chót để
thanh toán gói đồ.
Chuyện xảy ra làm cho tôi mang nhiều suy nghĩ. Không biết là có phải
áo cà sa làm nên ông sư không, nhưng những bộ quần áo tôi mặc trong
thời mà tôi còn chút tự do thật sự là một phần trong cách ăn ở của
tôi, không thể lộn ngược bề để may thành bộ áo riêng cho những người
hầu trong nhà. Và khi tôi không có phương tiện và khả năng để đóng một
vai diễn phụ hay một tài tử chính, chẳng thà để những bộ quần áo này
cho những diễn viên nhà nghề mà cuộc sống là hai mặt: một ở ban ngày
ngoài xã hội và một về đêm trên sân khấu, giữa cái thực và cái tưởng
tượng. Chính đó là cái logic của sự đời.
Tôi cũng được biết từ người phụ trách quần áo cho Nhà Hát, cũng là
người đã mua quần áo của tôi, kể cho tôi nghe rằng một hiện tại một cô
gái có địa vị đang chuẩn bị lễ cưới và muốn kiếm một bộ đồ đẹp nhưng
không thể thực hiện vì thiếu tiền. Cô gái ấy bèn đến Nhà Hát hỏi thuê
một bộ đồ để có dáng một nàng công chúa huyền thoại hay con của một
Đại Đế nào đó. Người con gái nào cũng chỉ một lần trong đời làm đám
cưới. Cô ấy có thể được tha thứ vì đã làm một chuyện giả dối ngây thơ,
cũng chỉ để tránh né trong một vài giờ cái thực tế hiện ra như một bài
văn nhạt phèo và chán ngắt, để trốn chạy vào những vần thơ mơ mộng, để
xoá tan đi cái ham muốn không được thoả mãn và cho phép con người tự
lừa dối lấy mình. Tất cả xã hội trên thế giới đều có đầy nhan nhãn
những bà Emma Bovary (người dịch: nói về câu chuyện về cuộc đời vô vị
buồn chán của một bà tên Emma, vợ của một ông bác sĩ tầm thường sống ở
một vùng quê buồn bã...) với con tim chứa đầy những cơn thèm khát
không được thoả mãn, họ mỏi mòn chống chọi những khổ đau mà chờ đợi ảo
ảnh của một “nơi nào đó” có niềm vui và tự do lấp lánh. Ở Việt Nam,
mỗi người đều phải sống hai mặt trong kiếp sống người máy. Bề ngoài,
họ chơi trò xưng tụng giáo điều để tránh không bị tập thể trừng phạt,
khẳng định cái tính láu cá ranh mãnh của một kịch sĩ. Bên trong họ cố
dồn ép những đòi hỏi của hy vọng vào bóng tối và im lặng, đẩy những
thèm khát không được thoả mãn, những khát vọng cháy bỏng vào những
vùng đất trời huyền bí mà không một thần linh chính trị nào có thể
khám phá được.
Trong một đất nước bị sống trong khắc khổ và nghèo nàn, tất cả những
ham muốn dù chính đáng dường như đều bị đông lạnh, cho nên số quần áo
cũ, dù rất đắt tiền, được mang ra bán đổ bán tháo với giá rẽ mạt cũng
không nuôi gia đình tôi được lâu. Ăn uống tiết kiệm đến mức cao nhất
giúp chúng tôi khỏi chết đói nhưng với điều kiện là chúng tôi phải
chịu đựng cảnh mắt mờ, chân bước muốn không nỗi và những cơn co giật
đau quặn của cái bao tử phải bóp cái trống không. Những bữa ăn mà rau
muống là món chính đã làm da chúng tôi trở nên thâm tái. Bà con tưởng
chúng tôi mắc bệnh sốt rét. Chẳng thà để họ nghĩ như thế để tránh cái
xấu hổ vì bị đói.
Sau quần áo cũ, đến phiên chăn màn, chén kiểu và những dao nĩa bằng
bạc. Tôi gói dễ dàng 24 cái khăn ăn cùng với hai khăn trải bàn mầu mè
thêu rồng, lân. Hai gói mỗi gói gồm 12 bộ đồ dùng theo cách ăn Á Đông
có tô chén, đũa ngà và bộ kia cho bữa ăn kiểu Tây gồm dao, nĩa và
muỗng bằng bạc chạm
trổ, mâm và ly pha lê hiệu Bohemia, chúng tôi để kín cả mặt
bàn. Những tia nắng còn sót lại của buổi chiều quét lên một góc của
những món đồ sứ và bạc làm chúng trở nên rực rỡ lộng lẫy. Bộ chén đĩa,
những đồ dùng bằng bạc tỏa nét lung linh trắng như tuyết bên cạnh
những chiếc ly thủy tinh lấp lánh như những đốm lửa. Chúng tôi bị
chóa mắt trong một lúc. Dường như đối với tôi, giữa cuộc hành
trình trong sa mạc, một cảnh tượng đẹp đẽ như thế đã gợi lại trong tôi
kỷ niệm những ngày huy hoàng trong quá khứ. Tôi chao đảo những bước đi
đầy buồn tủi và cay đắng, chẳng còn mấy chốc tôi sẽ ngã quị xuống đất
dưới cú
sốc của cái khổ sai hiện tại so với cái huy hoàng của năm xưa.
Một trang sử đời tôi đã sang trang, tôi buông mình bật khóc cho nửa
đời người còn lại, con người của tôi năm xưa và con người của tôi hôm
nay đã thật sự chết rồi.
Tôi hiểu rằng tôi không nên gõ cửa nhà các ông lớn: họ thường tổ chức
yến tiệc trong nhà để chiêu đãi những nhân vật chính trị, kinh tế, văn
hoá đến viếng thăm Hà Nội từ các nước cộng sản. Hơn nữa, mặc dù trong
túi lúc nào cũng đầy ngập vàng, nhưng các ông lớn không để mình sơ
suất làm lộ ra cái giàu sang vì nó sẽ là đề tài cho những tin đồn làm
cho họ bị mất uy tín dưới mắt của Đảng. Tôi không thể mang những đồ
sành sứ, chỉ cuốn bộ khăn ăn và khăn trải bàn vào một gói và để nó vào
cái giỏ sau cái xe đạp. Tôi biết mình phải đi đâu. Tôi bước vào
sảnh của một khách sạn lớn nhất Hà Nội dành riêng cho những
khách viếng người nước ngoài giàu sang qua đấy. Tôi mở gói đồ và giới
thiệu nó cho người trách nhiệm của khách sạn và mời ông ta đến nhà để
xem những đồ sứ và bạc. Hắn kênh kiệu và làm duyên như một con mụ lố
bịch trước một kẻ bảnh bao như muốn cầu cạnh một ân huệ nào đó. Hắn
thú nhận “Đây là những món hàng rất đẹp. Tôi không chối cãi điều đó.
Nhưng ông muốn tôi làm gì với chúng? Khách đến từ các nước anh em cũng
nghèo kiết xác. Họ chưa bao giờ gọi gì thêm, luôn luôn bám vào tờ thực
đơn thường ngày, không bao giờ uống rượu mạnh và khi phải cho tiền
phục vụ thì họ tỏ ra rất dè xẻn. Thật ra, nói họ là dân keo kiệt thì
cũng không công bằng lắm, vì tôi nghe nói ở các nước anh em, cũng như
Việt Nam mình, lương bổng công nhân viên bị tiết giảm đến mức tối
thiểu, hay có khi còn ít hơn thế!”.
Tôi thấy ông đã lớn tuổi chắc ông đã qua một thời kỳ khá dễ thở.
Người đối thoại với tôi, sau khi đảo mắt nhìn quanh để biết chắc là
không có ai đang nghe lén, rồi trả lời cho tôi “Mấy cán bộ công sản
dạy chúng tôi rằng dân chúng trước đây phải lê cuộc sống đầy đau khổ
vì phải chịu áp bức bởi phong kiến và thực dân. Tôi không biết ở những
nơi khác thì như thế nào, chứ ở nơi tôi ở, thiên hạ không hề vui sướng
hạnh phúc như họ nói. Dĩ nhiên là thời ấy vẫn có người giàu kẻ nghèo
nhưng ai nấy đều có cái mà ăn và nếu quần áo có phải vá, họ cũng có áo
quần để mặc! Thực dân Pháp cũng không ra mặt một cách dễ dàng trông
thấy. Họ nằm ở đâu trên giai cấp cao, và nếu có đàn áp và bóc lột, thì
họ làm qua một giai cấp trung gian nào đó”.
- Thông qua trung gian một cái gọi là nền hành chánh bản xứ mà đứng
đầu là tầng lớp quan lại.
- Nhưng, thực tế phải công tâm mà nói, những ông quan lại nói trên là
những người tốt nghiệp từ Trường Luật Hà Nội, họ biết rõ những chuyện
gì sẽ xảy ra cho mình nếu bị lọt vào tay những anh cộng sản đỏ. Dĩ
nhiên, họ ngồi trên những chiếc ô tô và sống cuộc đời xa hoa giàu có.
Nhưng họ tham nhũng một cách vừa phải, và nếu tôi có thể nói thêm là
họ còn có nhân đạo. Luật Hình Sự mà họ biết rõ là một hàng rào an toàn
buộc họ giữ mình không đi ra ngoài chấn song của pháp luật. Bên cạnh
đó, tờ báo châm biếm Phong Hoá, những bài viết của nhóm Tự Lực Văn
Đoàn bằng cách liên tục chế nhạo các quan lại đã dựng nên một rào cản
xã hội ngăn chận những bóc lột vô chừng mực của họ. Kết quả là ngay ở
những làng quê, nhà riêng dù bằng tranh vẫn còn tồn tại, và nông dân
vẫn chưa bao giờ biểu tình phản đối hay yêu sách. Ít ra là theo như
tôi biết.
- Nhưng ở phố thì tình hình ra sao?
- Dân thành phố thì sống tốt hơn nhờ những việc trong chính quyền,
trong những xí nghiệp thương mại hay công nghiệp lớn, hay trong những
ngành buôn bán nhỏ. Đường xá sạch sẽ, lòng đường cũng như lề đường.
Tất cả những vi phạm về vệ sinh công cộng đều bị phạt tiền. Không còn
trộm cướp, ngoại trừ một vài bọn móc túi hoạt động ở các chợ, nhưng ở
phố yên tĩnh và an ninh là rất tốt. Tôi không phải là một giáo sư để
phân tích nghị luận, tôi chỉ nói theo những gì tôi thấy mà tôi cũng
không tìm hiểu nguyên do hay đưa ra những lời bình luận. Vì còn nợ mái
tóc bạc của mình nên tôi phải tôn trọng sự thật, giữ danh dự và nhân
cách của tôi.
- Ông có nghĩ đến việc rút lui về nghĩ ngơi cho khoẻ không?
- Tôi đã nghĩ đến chuyện đó và đã nạp đơn xin về nhưng lãnh đạo buộc
tôi phải ở lại để huấn luyện cho bọn trẻ mới vào làm. Tôi đã làm bếp
trưởng đã hai chục năm nay. Vào những ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, thiên
hạ nhảy đầm và tôi phục vụ rượu săm banh cho họ. Trong những bữa ăn
lớn, mấy món nhậu kiểu Na Uy và món thịt dăm bông trộn vỏ bánh mì rất
được ưa chuộng bởi một số khách không keo kiệt tí nào về phần tiền
phục vụ. Tôi như con cá vẫy vùng trong nước.
- Và bây giờ thì sao?
- Thời thế đã thay đổi. Tất cả tiếp viên là những công an hay là những
người quen của họ. Họ theo dõi khách hàng, lục lọi hành lý, nghe ngóng
xem họ nói gì để đi báo cáo cho những “nơi trách nhiệm”. Tôi cũng nằm
trong hệ thống giám sát của họ. Thật chán hết sức. Cạnh đó, nếu họ chỉ
làm công việc của họ thì tôi cũng nhắm mắt để cho họ làm những chuyện
bên lề đó. Nhưng ở đây họ lại phá hoại bao nhiêu là thứ: nhà cầu, vòi
nước, máy hút bụi, máy giặc, chén đĩa sành sứ. Nhưng khốn nạn thay,
chuyện như thế đó, tôi chẳng làm gì được.
- Vui chuyện với ông làm tôi quên mất mục đích tôi đến đây: liệu ông
có thể mua cho tôi mấy bộ bát đĩa và khăn ăn này không?
- Chắc chắn chúng tôi sẽ cần chúng cho những buổi tiệc lớn và những
buổi hội hè. Tôi chỉ là kẻ vô tích sự thôi. Có lẽ ông nên nói chuyện
với ông uỷ viên chính trị. Chính ông ta là người quyết định mọi
chuyện.
Người đàn ông già đời trong nghề đã hết sức trong công việc để làm
người có ích, nhưng lại không có chút tiếng nói nào trên các vấn đề.
Đó là cách mà mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới công sản.
***
Cái Tết đầu tiên xảy ra trong phiền não và nước mắt. Chúng tôi phải
nhịn bốn bữa ăn để có thể dành ra tiền để trang hoàng bàn thờ của tổ
tiên với một nải chuối xanh, bó nhang, vài nắm hoa và một cái bánh
chưng. Chúng tôi thật hạnh phúc dù đang trong cảnh thiếu thốn vẫn có
những món truyền thống trên bàn thờ của gia đình dù không phải là
những món có giá trị cao như chúng tôi muốn, nhưng cũng xem là khá đầy
đủ. Trong khi chờ nén nhang cháy hết, nỗi thống khổ làm chúng tôi thật
đau lòng, cố nén dòng nước mắt chực trào dâng trên khoé mắt. Ngày mai
rồi ngày kia, chúng tôi sẽ làm sao đây khi chúng tôi không còn gì để
bán? Dĩ nhiên là chúng tôi có thể kéo rê thêm nhiều ngày nhiều tháng,
nhưng chừng nào chúng tôi mới ra khỏi con đường hầm? Câu hỏi cứ theo
chúng tôi ngày đêm làm chúng tôi mất ngủ.
Bây giờ là đến lúc những cuốn sách và những băng nhạc bước vào đường
của bóng tối và cõi chết. Tôi làm một danh sách khoảng ngàn cuốn sách
và cả trăm cuốn băng mà tôi mua sắm qua bao nhiêu năm, và lấy đó làm
niềm vui thú. Tôi ngây thơ tin rằng cái gia tài văn hoá quí giá và duy
nhất ở Việt Nam kia sẽ được chào đón nồng nhiệt và giúp tôi có chút gì
để ăn trong nhiều năm sắp đến. Nhưng than ôi, không phải thế.
Tôi tìm đến Cục Lưu Trữ và Thư Viện Trung Ương và đề nghị với họ một
bản sao của tất cả các tác phẩm của tôi, bắt đầu là những luận án Tiến
Sĩ của tôi và toàn bộ những tác phẩm mà tôi đã phát hành tiếp theo sau
đó.
Tôi chờ đợi được người ta long trọng đón tiếp. Người giám đốc Thư Viện
Trung Ương xưa kia là một công chức ngành quản thủ thư viện của thực
dân và đã học được nghề qua công việc, như người ta thường nói. Ông ta
không phải qua trường Pháp-Điển Văn Khố chuyên về quản thủ Văn Khố (Ecole
des Charles). Người tốt nghiệp xuất thân từ trường Văn Khố là
ông Ngô Đinh Nhu, nhưng vì công việc ở đó không thích hợp với mình,
ông Nhu quay ra làm chính trị nhưng lại trúng loại chính trị tệ hại
nhất vì bị cả nhân dân và cộng sản kết án. Với bản án kép xếp như một
án tử hình. Sớm hay muộn, ông ta cũng sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng
của số mệnh.
Như thế, ông giám đốc Thư Viện Trung Ương của tôi ngày xưa đã làm một
chọn lựa đúng. Ông ta được gia nhập Đảng và khi trở về Hà Nội, bỗng
nhiên được đề bạt lên chức Giám Đốc của cái Sở mà xưa kia ông ta là
một nhân viên. Cái chi tiết nhỏ này giúp chúng ta hiểu cái giọng lưỡi
của ông ta khi ông ta chính thức từ chối mua bộ sách riêng của tôi:
- Đồng chí, tôi vẫn tiếp tục gọi ông với hai tiếng “đồng chí” vì chúng
tôi, những người cộng sản, vẫn hy vọng là ông sẽ ra khỏi những sai lầm
bắt nguồn từ nền văn hoá Tây Phương mà ông hãnh diện đang khoe khoang,
nhưng chúng tôi thì ghê tởm. Ông không tự cho mình là kẻ chống cộng,
ông huênh hoang cho mình là người thực tiễn bởi vì ông dựa trên thực
tế để đúc kết thành những phê phán, và ông tự cho mình là công lý khi
vạch trần những thành công bên cạnh những thất bại. Ông cho rằng khi
ông tuân thủ cái
logic mà chúng tôi coi như đã lỗi thời, tệ hại, là ông vẫn còn
trung thành vào cái thiên hướng của người trí thức là không muốn phản
bội. Một nước tư bản như Pháp, kiêu hãnh với chủ nghĩa tự do của họ,
chấp nhận thái độ đó. Nhưng về phía chúng tôi, chúng tôi kết án nó.
Chúng tôi kết án thái độ đó, nhân danh chủ nghĩa cộng sản mà chúng tôi
tin đó là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật, và kẻ đã dạy cho chúng tôi
rằng người dân khôn ngoan là phải biết tôn trọng và tuân hành
nhà chức trách. Nhà chức trách thấy xa và thấy rõ hơn chúng ta. Họ là
hiện thân của sự tốt đẹp, và nếu các ông không đứng về phía họ thì
phải biết rằng cái xấu đang chờ đợi các ông với những thói hư và kinh
hoàng của nó. Giữa chúng ta, cho tôi hỏi ông: có phải Đảng đã dành cho
ông biết bao nhiêu là ưu đãi hay không? Mười ủy ban chấp hành trong
các tổ chức quần chúng, còn có trí thức nào đạt kỷ lục như thế? Và
người ta đã đòi hỏi ông những gì? Chỉ cần ông nhắm mắt làm ngơ trên
một số sai lầm mà tất cả ai trong chúng ta cũng đều biết. Chúng tôi
muốn che khuất nó đi, chỉ làm toả hương những chiến thắng mà những
tràn vỗ tay phải kích động và cao hơn lúc thất bại rất nhiều. Chúng
tôi chỉ yêu cầu ông hoàn toàn im lặng trước về phần hư hại của thực
tiễn, không cần ông phải dối trá với lương tâm của mình bằng cách phát
minh ra những thắng lợi tưởng tượng. Một thái độ sống như thế sẽ rất
có lợi cho Đảng và cho chính cả ông. Tại sao ông không làm như một số
trí thức khác? Họ chỉ thề trung thành với Đảng là đã nhận được bao
nhiêu là lợi lộc cho bản thân họ và cho gia đình? Ngược lại, cứ
khư khư bám vào cái văn hoá Tây kia, cứ giữ cái nhận thức khách
quan và tự tin kia về công lý, về thực tiễn, ông đã phạm tội phá hoại
mà ngày nay ông phải gánh chịu những hậu quả tai hại.
- Đồng chí, tôi rất cám ơn ông đã giúp những ý kiến tốt. Nếu ông là
một mỹ nhân ngư, tôi đã phải nhờ các thủy thủ cột tôi vào cột buồm như
Uylysses, người đang mê mẫn tiếng hát của người cá nhưng vẫn cố
thoát ra khỏi hai cánh tay đẹp đẽ của nàng. Ông làm cho tôi nghĩ đến
chuyện con rắn trên vườn Địa Đàng đã rót những tiếng nói độc hại vào
tai Eva để làm cho nàng vào bẩy. May mắn thay, tôi không phải là đàn
bà, và ngày nào đó bên cạnh trái táo sẽ còn có nhiều thứ trái cây ngon
lành khác để cho người ta chọn. Dầu thế nào, tôi cũng phải công nhận
là cái tinh quái xảo trá mà ông đang thừa hưởng nó thật là hùng hồn
thuyết phục. Cho phép tôi được trả lời cho lý lẽ của ông. Cái văn hoá
Pháp mà ông đang kết án, nó đã thấm nhập và đang chảy trong dòng máu
con người tôi. Nó đã tạo ra con người tôi như bây giờ, luôn luôn đi
tìm công lý, quan tâm một cách đam mê đến khách quan và thực tế nhưng
rất tin vào con người, yêu mến con người và chấp nhận tranh đấu cho
con người tránh khỏi sự tàn ác và tùy tiện của những kẻ độc tài độc
đoán. Ông khuyên tôi phải tuân phục nhà cầm quyền, được thôi, nhất là
khi tôi chỉ muốn không gì khác hơn là trật tự và yên bình. Nhưng
chuyện tuân phục nhà chức trách và tuân phục uy quyền cũng không có
nghĩa là không được mở mắt nhìn những sai quấy và lỗi lầm của họ. Nếu
tôi giữ yên lặng thì dĩ nhiên chuyện đó sẽ được dàn xếp giữa chính
quyền và nhân dân, nhưng nó sẽ tự làm cho mình mất uy tín và lòng tin
của quần chúng. Vì vậy, đây là vấn đề là phải biết thái độ nào là
thích hợp nhất trong những trường hợp như thế: hoặc không nói gì hết
để ngồi hưởng những ban phát của nhà cầm quyền, đứng ra đồng ý với họ
và như thế sẽ tránh bị họ đánh, hoặc đứng ra làm một hành động đúng
đắn để tôn trọng ý muốn của nhân dân, mở mắt cho những ai đang cầm
quyền và chấm dứt những nỗi bất hạnh đang làm hao mòn niềm tin của họ
đối với lãnh đạo. Như thế với một hòn đá ta ném trúng hai con chim:
làm cho nhân dân và Nhà Nước hoà thuận với nhau, cả hai cùng nhịp bước
hướng về một tương lai huy hoàng và hạnh phúc của toàn thể nhân
dân. Tôi tuân phục nhà cầm quyền nhưng tôi mở to hai mắt, minh mẫn đầu
óc và
sẵn sàng cây bút. Tôi nghĩ đây là thái độ đúng đắn nhất của một
người trí thức có lòng tự trọng, có tình yêu dân tộc, biết lo lắng cho
hạnh phúc của nhân dân trong khi vẫn mong muốn không chuyện gì hại cho
Đảng. Nếu ông nghĩ rằng những điều tôi nói là đúng thì đó cũng là nhờ
tôi hưởng một nền văn hoá của Pháp và vùng Địa Trung Hải.
- Tôi đành phải nói với mình rằng quan điểm của ông và của tôi là
không thể đi chung với nhau. Tôi rất tiếc, tôi không thể mua những bộ
sách của ông, dù tôi biết đó là những cuốn sách rất có giá trị. Hiện
nay, tôi không có ngân khoản đề mua những thứ đó. Hơn nữa tôi cũng
không thấy điều gì ích lợi từ những cuốn sách về những nền văn hoá đã
có từ ngàn năm hay từ nhiều thế kỷ nay mà tư tưởng đã có từ những thời
kỳ nô lệ, phong kiến của phương Tây và của chủ nghĩa Tư bản, chúng
không thể được dùng để đào tạo những người cộng sản Việt Nam.
Trên đường về, tôi như bị hụt
hẫng vì cái khía cạnh đần độn của một lối lý luận phát sinh từ
một thứ chủ nghĩa cuồng tín chính trị, nó làm tim tôi tan nát. Tôi tự
trách mình đã quên lời dạy của Phúc Âm, đừng bao giờ mang những viên
ngọc trai mà cho heo mang,
margaritas ante porcos (ne
jetez pas les perles aux pourceaux),
mất cả buổi sáng tôi mới gượng quên đi chuyện bực mình vừa xảy ra.
Cái sự thực tàn nhẫn làm tôi khóc thét lên vì giận điên người là không
thể chờ đợi chi nhiều từ những người trí thức được nhận vào Đảng. Mặc
dù là thế, nhưng cũng có một vài trí thức, quá mệt
mỏi sau bao năm sống tự dối mình, tự nén mình vào những lúc nổi
dậy của lương tâm, đã để cái chất trí thức của mình nổ ra thành những
biểu lộ diễn tả sự coi khinh Đảng và những hà khắc của nó. Lợi dụng
những chuyến công tác ra nước ngoài họ đã dứt áo ra đi và không bao
giờ quay lại. Và khi qua được với Thế Giới Tự Do họ không còn gìn giữ
hay giới hạn những lời công kích kịch liệt. Nếu họ còn ở lại trong
nước họ sẽ bị kết án tù chung thân và chỉ được
khênh ra ra khỏi nơi giam cầm trong tư thế nằm với đôi chân ra
trước. Nhưng phần lớn các trí thức lầm lẫn gia nhập vào hàng ngũ của
Đảng chỉ còn biết từ bỏ nhân cách của mình, biến thành những tên nịnh
bợ mà lòng tận tâm chỉ làm thiên hạ cười và khinh bỉ.
Bài học đau đớn mà tôi đã học từ người đối thoại trên là từ nay tôi
phải tránh nói chuyện về văn hoá với những ông bà trí thức đã thành
người cộng sản. Nhưng, tôi cũng phải làm gì để có cái ăn trong những
ngày tháng sắp đến, tôi cũng phải kiếm cho ra người mua dù phải bán
với giá rẽ cho bộ sưu tầm băng cát sét và những bộ sách của tôi. May
mắn là vẫn còn những kẻ yêu nhạc, dù là những người nằm trong Đảng,
vẫn còn thú nghe nhạc và có một đầu óc phóng khoáng, biết đánh giá cao
những tác phẩm của những nhà soạn nhạc lớn của Âu Châu. Sau một vài
liên lạc, tôi may mắn thanh toán được cái máy nghe băng và các băng
nhạc cổ điển. Nhưng khó khăn vẫn còn với những cuốn sách về văn hoá
nước ngoài. Đương nhiên, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp không còn được
dùng ở Việt Nam, không thể bán được bộ sách
Budé. Mặc dù
tiếng Pháp đã bị mất chỗ cho tiếng Nga, tiếng Anh bắt đầu trở lại, vẫn
có một số thầy giáo có nhu cầu đọc tiếng Pháp nên tôi đã bán được một
số ít. Cuốn
Odyssée dịch bởi V.
Berard, cuốn
Enéide dịch bởi A.
Bellessort thì được người mua, nhưng những tác giả Pháp thời
Trung Cổ, thế kỷ 16, 17, 18 và ngay một số vào đầu thế kỷ 19 thì không
ai muốn. Với những tác giả thời cận đại, tôi bán được một số tiểu
thuyết của
Maurois và
Mauriac, những cuốn sách khó như của
Valery,
Gide và
Claudel thì chỉ gặp sự lạnh lùng khách hàng. Nhưng cái đói thì
không thể làm lơ được, tôi phải mỗi ngày lượn quanh các con phố để tìm
gặp những tay bán sách cũ chuyên bán hay cho những người chơi sách tài
tử thuê vài cuốn sách của các tác giả lớn.
Cuối cùng tôi cũng phải hiểu ra là mình không nên đắm mình trong cái
ảo tưởng về số phận của những cuốn sách không bán được của tôi. Tôi
đành phải cân ký bán cho những người thu mua giấy vụn về bán lại cho
nhà máy làm bột giấy. Những cuốn sách được mang lên trên cái cân hiệu
Roberval. Tôi được trả tiền theo số cân đo được. Tim tôi đập
loạn lên mỗi khi tôi phải chất những cuốn sách vào cái giỏ sau của
chiếc xe đạp để đem đi bán giấy vụn. Không, nó không phải là giấy, nó
là những thịt da của tôi đang bị xé ra từng mảnh. Khi những người mua
ném chúng vào góc nhà, tôi phải quay mặt đi nơi khác cố dấu giọt nước
mắt đang trào ra! Không có người cha nào còn dám nhìn con mình đang bị
ném vào lửa bởi bọn đao phủ! Cái tra tấn đó cứ tái hiện mỗi lần đi bán
sách làm giấy vụn, tôi như bị một mũi tên bắn xuyên qua tim mình.
Nhiều lần, tôi phải nhờ vợ hay con tôi làm chuyện đó vì tránh cho tôi
phải chịu nỗi đau mỗi lần. Một lần trên đường về nhà, cái đau lòng khi
phải nhìn thấy bao giá trị quí giá tan biến trong gió thoảng, nhất là
trong thùng giấy vụn, những giá trị mà tôi đã dày công sức và thời
gian để có, những giá trị đã xây nên con người và đã đi vào máu tôi,
cái đói thiếu những chất cần thiết trong cơ thể làm chân tôi trở nên
mềm như bún và run lên. Không biết vì cái đau kia hay cái đói triền
miên hay cả hai, đã làm ý chí và sức lực tôi bay biến. Cách nhà khoảng
một trăm thước, tôi đã té xe đạp và không thể đứng dậy. Tôi phải gượng
dậy ngồi bên lề đường, dương mắt nhìn sự vật quay tròn, tôi ráng lấy
lại hơi thở, sau khoảng hơn mười phút mới đứng dậy nỗi và cố dắt chiếc
xe về nhà.
Trong lúc tôi phải lượn quanh để bán những cuốn sách thì vợ tôi cũng
muốn giúp tôi bằng cách mang những đồ lót và các phụ tùng trang điểm,
những chai nước hoa hiệu Chanel,
Patou còn được giữ nguyên trong hộp và còn gói trong giấy hoa
màu vàng kim tuyến thắt nơ nhung rao bán cho các bà trong giới chức
quyền. Không may cho vợ tôi, bà gặp toàn là những bà vừa mới rời làng
ấp, nhiều bà với bộ răng nhuộm đen thời xưa. Mấy bà tròn xoe mắt lần
đầu thấy những món hàng mà họ chưa bao giờ thấy hoặc nghe nói đến
trước đây. Mấy quan, mấy xếp cưới mấy bà trong thời bí mật kháng chiến
vì hai lý do: thứ nhất, để đi đúng đường lối chính trị với lý luận
rằng quần chúng vô sản ở thành thị và nông thôn đều bị áp bức và bóc
lột bởi phong kiến và thực dân, thứ hai là do những phong tục đơn giản
còn lại trong nếp sống chưa bị vẫn đục, chưa bị lây
nhiễm bởi những thói hư tật xấu của chủ nghĩa Tư Bản. Bên cạnh
đó, những phụ nữ nhà quê kia với niềm tin và sự kiên trì đã thay thế
cho việc trau dồi sắc đẹp, đã sống cô đơn một mình trong nhiều năm dài
chờ đợi những người chồng đã từ lâu đi làm chiến tranh cách mạng và
chỉ trở về khi cần để đánh lạc hướng hay cắt đuôi những tên gián điệp
hay để được nghĩ ngơi một thời gian ngắn trước khi lên đường tiếp tục
cuộc chiến dành thắng lợi cho giai cấp vô sản.
Bây giờ, Cách Mạng thắng lợi, được đặt vào những vị trí cao nhất của
quyền lực, họ mang một nữa kia lên Hà Nội để hưởng những vinh hoa của
chủ nghĩa cộng sản, những vinh hoa mà không có cách nào để phân biệt
với thứ vinh hoa tư bản chủ nghĩa. Cũng những toà biệt thự đó, với
những con chó dữ tợn và đám người hầu thận trọng, cũng những chiếc ô
tô bóng lộn, cũng một nếp sống gia đình theo lối đó. Cái khác biệt duy
nhất so với những quý tộc tư sản là, những thứ xa xỉ đó giờ đây hoàn
toàn do Nhà Nước chi trả, phải cắn răng chi tiêu một số lớn ngân sách
lẽ ra phải để dành cho những chuyện cần, thiết yếu. Một điều khác biệt
nữa là vợ các ông lớn không nắm giữ chức vụ nào và không xuất hiện
chung với chồng trong những dịp lễ chính thức hay những buổi chiêu đãi
tiếp tân. Loại
logic đó thật là khó hiểu khi mà người ta cứ mãi nêu cao cái
nguyên tắc nam nữ bình đẳng, ít ra là trong xã hội. Cũng có thể là các
vị hiểu rằng cái nữa kia của mình chưa quen với cái hào nhoáng của
giai cấp thượng lưu, không biết cười hay ăn nói sao cho đúng, không
biết dùng dao nĩa làm quí ông bị mất mặt. Quí ông chỉ còn biết để vợ ở
nhà ngồi chơi trên ghế như những di vật linh thiêng để trên bàn thờ
sơn son thiếp vàng.
Vợ tôi trở về mệt
mỏi sau những lần tiếp xúc với các bà trong giới mệnh phụ cộng
sản. Bà phải cố gắng và kiên nhẫn rất nhiều để giải thích cái vui thú
thanh tao mà người phụ nữ ở một tầng lớp cao của xã hội khi dung những
thứ hảo hạng, đến thẳng từ Paris, thủ đô của hoa lệ và ánh sáng. Vợ
tôi
xoay xở để đạt được mục đích và đã mang về một số tiền đủ để
sống vài tháng.
Nhưng với các bà mệnh phụ khác, bà nào cũng là hiện thân của Eva bị
mấy món xa hoa hấp dẫn, thật khiếp đảm. Tiền xài cho những món kia
được bí mật lấy từ công quỷ. Nếu họ lấy cắp không ngần ngại công quỷ
thì họ cũng
xoay xở để làm sao không gây tai tiếng và làm hư chuyện thăng
quan tiến chức của chồng. Cũng dễ, vì họ không bao giờ chường mặt ra
trước công chúng, và chỉ phô trương đến chín tầng mây những quần áo
lụa là, những mùi dầu thơm đầy khoái lạc với chồng trong cảnh riêng tư
chồng vợ.
Phần tôi, tôi cố mở những lớp dạy tiếng Pháp. Không thiếu sinh viên,
họ đều hiểu rằng biết biết thêm một ngoại ngữ, bên cạnh tiếng Nga dạy
ở các trường Trung và Đại Học, là một phương tiện tốt để kiếm việc sau
này. Một vài người muốn học tiếng Anh. Nhiều người cần học tiếng Pháp
đến gõ cửa nhà tôi. Những kẻ hăng hái nhất là những anh chị có tham
vọng được đi làm ở Madagascar hay
Algérie vì ở đó người ta trả lương như một ông hoàng. Mặc dù
Nhà Nước đã lấy đi từ 70 đến 90 phần trăm tiền thù lương và tiền
thưởng, để trả nợ cho mình, với phần còn lại họ vẫn còn dư để sống.
Nhưng để được phép đi đến những xứ giàu sang đó, họ chẳng những phải
cẩn thận bôi trơn bàn tay của các quan chức ở bộ Ngoại Giao và bộ Lao
Động, họ còn phải qua một cuộc xét nghiệm về tiếng Pháp tại sứ quán
Algérie hay Madagascar.
Một chân trời sáng sủa được mở ra trước niềm hy vọng của tôi. Nhưng
ngay trong buổi học đầu tiên được mở tại nhà tôi, một đám công an đã
đột ngột xuất hiện. Xếp của chúng là một gã béo lùn, đôi chân ngắn
củn, trán thấp, cặp mắt soi mói, hai lỗ mũi phập phồng như một
con chó đang đánh hơi một khúc xương ngon lành. Cả bọn chiếm cả phòng
khách và tên xếp, dù không được mời vẫn ngồi đến ngồi chễm chệ trên
chiếc ghế bành. Trước bộ mặt kinh ngạc của tôi, hắn
gằn lên từng tiếng một như để nhấn mạnh cái nghiệm trọng của
vấn đề:
- Ông có biết tại sao chúng tôi vào nhà ông không?
Tôi đã học từ nhiều năm nay là không ngạc nhiên
trước bất cứ chuyện gì: điều ngớ
ngẩn nhất, điều bệnh hoạn nhất, điều đê tiện nhất đều có thể
xảy ra ở một nơi mà lòng tin và Luật Pháp không có, nơi mà những giá
trị, dù cao quí đến thế nào, đều có thể bị vứt vào đống rác, ngoại trừ
đó là những thứ của chủ nghĩa Cộng Sản và của những tôi tớ bệnh hoạn
của nó, với sự tôn sùng cá nhân được hàng ngày thực hiện và tệ sùng
bái áp đặt. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không biết. Hắn ngồi thoải mái trong
chiếc ghế bành, đôi chân ngắn gác chéo một cách trịnh trọng, xoa xoa
hai tay và dương cặp mắt long lên nhìn tôi giận dữ.
- Ông giả vờ làm người khờ không biết. Ông biết rõ ông là một tên trí
thức thối tha, mình chứa đầy những tư tưởng phản động. Ông dám
ngẩng đầu đòi hỏi dân chủ! Ông còn muốn gì hơn cái mà ta đang
có? Ông không thấy trước những công sở của chúng ta, trên những giấy
tờ chính thức đều có nêu rõ khẩu hiệu của Nhà Nước: Tự Do - Độc Lập -
Hạnh Phúc? Tự do, hạnh phúc là cho ai, nếu không phải là cho nhân dân?
Đảng đã mang lại cho chúng ta cái vinh quang của một thắng lợi cách
mạng, một chiến thắng không thể tượng tượng trên chủ nghĩa Tư Bản. Nếu
chúng ta không tin vào Đảng, vào lãnh tụ ngàn lần kính yêu của chúng
ta thì thử hỏi ta phải tin vào ai?
- Cám ơn ông đã nhắc cho tôi bài học mà tôi đã thuộc nằm lòng. Có phải
ông đang đến viếng để cho tôi cái vinh dự được lập lại những điều đó
thêm một lần nữa chăng?
Hắn không trả lời ngay. Với cử chỉ của một ông giám mục, hắn đưa ngón
tay út lên
ngoắt. Một
trong những tay hầu cận vội chạy đến lấy ra từ trong túi sách một cái
phích nhỏ đựng đầy nước chè, đổ vào một cái tách nhỏ rồi đưa cho ông
chủ kèm theo một ống tre nhỏ, món mà ở nhà quê không nhà nào là không
có. Tôi quan sát cảnh tượng đang xảy ra. Nó xảy ra đúng y như những gì
đã xảy ra thuở trước, khi các quan lại di hành đâu đó, mọi thứ là đây:
một đám tùy tùng, một cái phích đựng trà, một ống tre nhỏ để hút nước,
và đặc biệt là cái
ngoắt ra lệnh bằng ngón tay út mà tôi tớ đã hiểu chuyện gì. Hãy
hy vọng là những tác phong cổ xưa này sẽ chứa những tinh thần mới của
cách mạng.
Quan cách mạng
nhắp một
ngụm trà và ngay tức khắc, người hầu đưa cho ông ta cái điếu
cầy đã nhét đầy thuốc. Với cái bật lửa, người hầu đốt một thanh
gỗ nhỏ, ông chủ đưa chiếc điếu vào mồm, hít lên một hơi dài rồi phun
ra những vòng khói màu xanh. Sau đó, với cặp mắt khoái trá, nửa nhắm
nửa mở, cổ dựa vào đầu lưng ghế, với giọng nói chậm chạp và trang
trọng, hắn buông những lời ra khỏi đôi môi dầy thịt:
- Ông chả hiểu gì cả. Ông đã phạm một cái lỗi tày đình. Nhưng Đảng vẫn
cao thượng, cảm thấy tội nghiệp cho tính hấp tấp và cả tin của ông.
Đảng không bỏ tù ông, Đảng chỉ lấy lại những vinh dự đã dành cho ông.
Để tỏ ra biết ơn sự rộng lượng và tốt lành của Đảng, lẽ ra ông đã phải
tự giam mình nơi cô đơn tĩnh mịch để sám hối cho cái tội lỗi ghê gớm
của mình. Ngược lại, ông còn mở lớp dạy tiếng Pháp, quan hệ với những
thanh niên mà ông có thể đầu độc và làm họ xa rời Đảng. Vì lý do đó,
tất cả lớp dạy tư nhân đều bị cấm.
Với bộ dạng bệ vệ uy nghiêm, với bước đi của quan lớn, hắn bước ra
khỏi nhà, theo sau là bầy chó sói. Cái độ lượng của Đảng vừa chối từ
một cái phao cứu hộ cho kẻ đang bị chết đuối. Phúc đức thay cho thứ
nhân đạo không muốn làm kéo dài mạng sống của một sinh vật khốn khổ,
nhưng rất xứng đáng, đang lê lết trong sự đoạ đầy của cơn thủy triều
cộng sản, hoàn toàn bất lực cho mình và bất lực cả cho những người
đang quản lý nó.
***
Chuyện trả giá để bán những bàn ghế thì rất khó khăn và kéo dài. Đồ
đạc gồm toàn những thứ đáng giá: những chiếc ghế bành, chiếc trường
kỷ, tủ chưng những món lạ và đồ kỷ niệm, bàn giấy, tủ sách, thảm lót
hiệu Hàng Kênh, những bức tranh sơn mài của
Coromandel, tất cả đều làm theo kiểu xưa và toàn bằng gỗ
gụ, những bình hoa lớn bằng sứ của Trung Quốc đạt trên những
cái đế ba chân, những bình đựng bông bằng pha lê, những bức tranh của
các hoạ sĩ danh tiếng đóng trong những cái khung mạ vàng…
Lê Phố là hoạ sĩ đã vẽ kiểu mấy cái tủ đựng bát đĩa, những cái
ghế bành gỗ và những món đồ gỗ khác từ những kiểu dáng xưa, nhưng tất
cả đều do nhà điêu khắc nổi tiếng Ngô Trâm chạm
trổ. Trong thời tôi còn huy hoàng, những món này là cả một gia
tài, nhưng lúc còn làm luật sư, tôi chỉ có việc mở vòi là tiền chảy
vào như nước. Đời thật ngắn và chịu bao nỗi thăng trầm. Nếu một người
có thể tự cho mình
các thứ mà vẫn nằm trong khuông khổ của xã hội, thích hợp với
những ý thích của mình thì tại sao không họ lại không được vui hưởng
một cách thanh tao và thuần khiết những cái đẹp và đường nét? Khi
tương lai tôi vẫn chưa bị phủ mờ bởi những hiểm nguy nhất định, tôi đã
rất bằng lòng với cuộc sống mà không hề cảm thấy có nhu cầu tự đặt cho
mình câu hỏi liên quan đến chuyện mình thích gì hay đam mê gì. Nhưng
khi biết không sớm thì muộn tôi phải chia tay vĩnh viễn những vật dụng
đã cho tôi những niềm vui không tả và không bao giờ quên được, tôi đã
dành hết niềm vui để mở ra những đối thoại với từng đứa trong bọn
chúng để gợi nhớ cho tôi những kỷ niệm dính liền với chỗ đó, và cũng
là biểu lộ con người đạo đức và tâm linh của tôi. Tôi cố tìm thấy tôi,
nhận ra tôi qua những đồ vật mà tôi đã treo móc vào chúng những thớ
thịt và mẫu vụn của cuộc đời và quá khứ của tôi.
Tại sao ngày xưa tôi không mua sắm những món làm theo phong cách
phương Tây tiện dụng hơn mà những đường nét sắc sảo gọn gàng, cái đơn
giản về mầu sắc và cách bố trí hài hoà rất hợp với cái tính Đề Các Tơ
của tôi (Người dịch khảo cứu thêm:
René Descartes; 1596 - 1650), nhà triết học, nhà toán học, nhà
vật lí học người Pháp.
Descartes là nhà nhị nguyên luận. Trong học thuyết về nguồn gốc
của vũ trụ, trong vật lí học,
Descartes là nhà duy vật, coi "vật chất là thực thể duy nhất,
là cơ sở duy nhất của tồn tại và của nhận thức" (Mac).
Descartes đưa ra giả thuyết về sự phát triển tự nhiên của sự
sống trên Trái Đất; theo quan niệm của
Descartes, vũ trụ là một cỗ máy khổng lồ, con người và cơ thể
động vật là những cỗ máy phức tạp, tất cả vận động theo các định luật
cơ học.), hợp với cái tình yêu của tôi dành cho sự
logic và sự sáng tỏ?
Tại sao giờ đây tôi phải chịu một ngọn lửa bất ngờ sôi sục kéo dài
cháy đốt tâm can cho những dấu vết của quá khứ đầy dân tộc và truyền
thống kia?
Bất chợt,
tôi lại nhớ vào năm 1936, khi tôi trở về Việt Nam luôn, tôi học
tiếng Trung, tham gia phác hoạ Văn Phạm Việt Nam với nhóm Trần trọng
Kim và Bùi Kỷ, và hợp tác làm cuốn tự điển với Khai Trí Tiến Đức. Cái
gì đã khiến tôi luôn giữ thái độ sinh hoạt đó? Tôi, một người là chưa
bao giờ ngưng tán dương đề cao những tác dụng lợi ích của nền văn hoá
Pháp, một nền văn hoá đã tôi luyện thành một người như tôi ngày hôm
nay? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế này: “Tôi trở về với
truyền thống và dân tộc, không phải với cái giá của một cuộc đấu tranh
cam khó và với những cố gắng bền bỉ, nhưng bằng cách để mình trôi theo
một con đường dốc không thể thiếu một cách dễ dàng và tự nhiên. Những
kẻ dù có trang bị một kiến thức khoa học rộng lớn, những người chống
văn hoá Pháp mà tôi đã tiếp đón ở trường, và hay những kẻ chống văn
hoá Việt, văn hoá mà tôi thấm nhuần suốt cuộc sống, tất cả bọn họ đều
không có những cái nhìn lành mạnh và đúng đắn về văn hoá là gì. Một
nền văn hoá xứng đáng với tên gọi của nó không bao giờ có chuyện tự
phân biệt mình qua sự duy nhất, không bao giờ kiếm cách biến mình
thành độc tôn, không bao giờ tự mình đóng khung trong tường kín. Ngược
lại, văn hoá là khoảng không gian ngự trị ở tầng cao vi vu muôn ngàn
ngọn gió, nơi đến của tất cả những tâm hồn tốt lành không có bất cứ
thứ phân biệt đối xử nào, như là một con suối trong dành cho mọi sự
khát. Mỗi người có một nền văn hoá riêng, nhưng tất cả cùng hoá chung
trong nền Văn Hoá lớn của nhân loại, mục đích duy nhất và sau cùng là
nhằm tạo nên một con người toàn diện, tinh hoa, với những đức hạnh
không thể thay hình đổi dạng được, có những giá trị riêng của con
người, đưa họ lên tầng cao nhất của nhân tính. Khi tất cả những nền
văn hoá của từng quốc gia quyện chung thành Văn Hoá của nhân loại, như
những
dòng sông cùng đổ vào biển cả, thì làm sao lại có chuyện có thể
hình dung ra những đối kháng, mâu
thuẫn hay xung đột giữa các văn hoá riêng và nền Văn Hoá lớn?
Cái gì có thể phân chia rạch ròi giữa
animus và
animas? (Lời người dịch:
Animus: nam tính của người phụ nữ,
anima: nữ tính của người đàn ông) Cái gì không thể hoà được
giữa cái văn hoá Pháp đã tạo nên tri thức của tôi và cái văn hoá Việt
đã nặn khuôn linh hồn tôi?
Để lòng mình trầm lắng, yên tĩnh lại,
tôi cảm xúc
mủi lòng nhìn từng món đồ trong nhà. Mỗi món là một phần của
những ngày qua và một phần của linh hồn tôi, tất cả chúng là một nửa
của con người và sự sống của tôi. Nay mai, chúng sẽ rời tôi, từng đứa
một, đi về một nơi vô định, rồi sẽ đến ngày mà trí nhớ của tôi chỉ đủ
sức nhớ lại những hình ảnh mờ ảo, chợt
ẩn
hiện như một cảnh vật lúc hoàng hôn thoáng vụt qua cánh cửa sổ
của con
tầu hoả đang chạy nhanh. Chưa bao giờ tôi lại thấm thía bởi câu
thơ nhức nhối “Đi là chết trong lòng một ít…”
Người khách đầu tiên là một cán bộ cộng sản trong bộ đồ
kaki xanh, với áo cổ cao và mang đôi dép cao su làm bằng lốp xe
bỏ, một vẻ bề ngoài cho biết ngay ông ta thuộc gốc chính trị nào. Ông
ta không có cái vẻ của một kẻ lang thang, mặc dù cặp mắt đang nhớn
nháo ngạc nhiên, hết nhìn món này nhìn qua món khác như đang tự hỏi
làm thế nào mà có tay trí thức có thể mua sắm và sống với những món đồ
như thế. Tôi có thể đoán được những ý nghĩ đang xảy ra trong đầu của
ông ta. Hắn chắc đã tự bảo đây là một tay phản động có tầm cỡ mới có
thể sống xa hoa như thế: quả thực, hắn chỉ nghĩ rằng trong bất cứ xã
hội cộng sản nào, như ở Việt Nam, giới trí thức đã bị đưa vào cuộc
sống nghèo khổ, bị nguyền rủa dồn dập dưới sự khinh thường của lãnh
đạo, nếu một tay trí thức nào đi ra ngoài qui luật đó, hắn ta
chắc chắn là một tên phản động làm giàu bất chính.
Nhìn cặp mắt chằm chặp soi mói và cử chỉ của hắn ta, tôi nghĩ,
nếu hắn không manh động với tôi thì hắn cũng không dành cho tôi những
kính trọng phải có. Đương nhiên, hắn đang thi hành lệnh của chủ nhân.
Nhưng để làm gỉ? Chính hắn
đặt câu hỏi đầu tiên “Vì sao ông muốn bán đồ đạc?”
- Như ông phải biết, tất cả trí thức ở Hà Nội đều làm chuyện đó. Tôi
đã phạm lỗi lầm, dường như thế, và đã bị loại khỏi đoàn Luật Sư và
công việc giảng dạy. Không còn nguồn lợi tức nào, và để nuôi gia đình
tôi đành phải bán những đồ đạc mà tôi có từ nhiều năm nay. Đó là những
món chót còn lại của tôi.
- Ông bảo hai chữ “dường như”. Như vậy ông vẫn chưa nhận lỗi và vẫn
còn hận Đảng. Có người sẽ thất vọng thấy ông vẫn không quay lại với
con đường của lý lẽ.
- Ông bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết là ông có hiểu là mọi phán
đoán đều dính dấp đến tính chủ quan của người đưa ra lý luận đó. Dưới
tác động của cái chủ quan, ai có thể cho rằng mình là đúng đây? Trong
một nền dân chủ đích thực, xứng đáng với tên gọi của nó, luật là do đa
số quyết định. Trong một số nơi khác, luật là do những kẻ nắm quyền.
Một phán quyết bằng bạo lực và dựa vào bạo lực thì không thể có một
giá trị chung cuộc của sự thực. Nó sẽ bị lịch sử hủy bỏ, và chuyện đó
xảy ra ngay trong lúc những kẻ làm án kia còn sống, thời gian và hoàn
cảnh trong quá trình tiến hoá, sẽ lôi họ ra khỏi những giấc mơ trì độn
và họ sẽ phải tự đấm ngực sám hối. Nhưng tôi nghĩ là ông đến đây hôm
nay không phải để nói những chuyện đó, mà tôi cũng chẳng có hứng thú
để nói đến. Vậy xin ông cho biết lý do của cuộc viếng thăm.
- Tôi được lệnh đến xem ông đã ra làm sao và giá cả những món ông muốn
bán.
- Thật vậy, Đảng có tai mắt khắp nơi, không để cái gì vuột khỏi tầm
mắt. Nhưng tôi nghĩ là những báo cáo của công an cũng đã cung cấp đầy
đủ tin tức về con người khiêm tốn của tôi. Không, vẫn chưa đăng cáo
phó tôi chết, cũng chưa phải lúc, nhưng cũng sắp thôi. Nhưng dù sao
tôi cũng cám ơn sự rộng lượng và lòng cao thượng của Đảng đã chưa đưa
tôi lên máy chém hay ra đứng trước trụ xử bắn. Đó có thể là điều tốt
đã dành cho tôi. Cám ơn Đảng đã quan tâm muốn biết tin về tôi. Những
món đồ đem ra bán là những cái gì cuối cùng mà chúng tôi có, và đó
cũng là tấm ván cứu hộ cuối cùng cho gia đình chúng tôi. Tôi hy vọng
là chúng có thể bảo đảm cho chúng tôi sống còn khoảng hơn chục năm
nữa.
- Hơn chục năm? Cái giá mà ông đòi là gì vậy?
- Trước khi trả lời câu hỏi của ông, cho phép tôi được hỏi ông, có
phải là lãnh đạo thực sự muốn mua lại đồ đạc của tôi và để dùng vào
chuyện gì vậy?
- Ồ…
Cái này thì tôi không có một ý kiến gì chính xác về nơi đến của
những món đồ của ông. Nhưng tôi nghĩ là hiện nay các quan hệ ngoại
giao đang lớn mạnh, chắc cũng dễ kiếm chỗ để những món ấy trong các
phòng tiếp tân hay đại sảnh.
Tôi vừa kiếm ra câu thần chú cho điều bí ẩn. Thực tế là, chuyện mua đồ
chỉ là một cái cớ cho cuộc thăm viếng bất ngờ của một tay
cớm để vào nhà một kẻ đang bị một án chết đang treo. Tôi nghĩ
rằng giới quyền cao chức trọng đã xem tôi như một kẻ không thể cứu
được nữa và như dân gian thường nói, là tại sao phải nuôi ong tay áo?
Người ta không muốn giết tôi vì không muốn khuấy lên những xúc động
của giới trí thức và những khối nhân dân khác. Nhưng người ta cũng
mong tôi chết đi để tránh cho Đảng phải chịu những phiền phức do ngòi
viết và tiếng nói của tôi. Vì thế, biết được thâm ý của Đảng, tôi dễ
dàng tìm ra câu trả lời để nói cho kẻ thay mặt họ:
- Tôi muốn yêu cầu ông khi về lại, nhân danh tôi mà cám ơn các quan
chức đã gửi ông đến gặp tôi. Tôi sẽ rất cảm kích nếu ông nói dùm với
họ là tôi sẽ biết ơn họ đến chết về những việc mà họ đã làm cho tôi.
Dù đang nắm sinh mạng tôi trong tay, họ vẫn không kết án chết vì cái
“tội ác” của tôi, nhưng họ, vì công lý và nhân đạo, đã chọn kết án tôi
cả đời. Một đời dỡ sống dỡ chết, hấp hối và cuối cùng cũng hết đời.
Nếu bây giờ các ông ấy thấy đồ đạc tôi chấp nhận được, họ có thể lấy
chúng đi, như họ đã lấy ba căn nhà thừa kế mà tôi đã hiến cho nhân
dân. Nếu họ không muốn có gương mặt của kẻ cướp, họ cho tôi bao nhiêu
cũng được. Như vậy là tôi cống hiến tất cả những gì tôi có như là một
người cộng sản chân chính.
Tôi đã không lầm. Tôi không còn gặp lại anh chàng vô tích sự đó, và
sau đó cũng không có người nào như bọn đó đến nhà. Chỉ với ý nghĩ là
Đảng cho người đến mua rẽ đồ đạc của một người mà họ kết án sống trong
sự đói cũng đủ làm tôi không thể nén mình để bật ra những tràn cười ha
hả…
Người ta có thể phiền trách những
lỗ lầm của Đảng, nhưng với cái thâm hiểm như thế. Không là
không!
Một thời gian sau đó,
gõ cửa nhà tôi là một người ăn mặc trang trọng,
com lê cà vạt, những thứ vào thời đó chỉ có những anh Việt Kiều
mới có. Tại sao? Thời ấy chỉ có những người nước ngoài và những người
trong ngành ngoại giao có việc qua Hà Nội mới không phải mặc những
đồng phục cộng sản. Nhưng khi nhà ngoại giao xong công tác ở nước
ngoài về, trở lại vai trò công chức của bộ Ngoại Giao, họ phải cải đạo
về lại với cái tôn giáo của cổ áo cao và đôi dép râu, như thế chỉ có
Việt kiều là đóng bộ, cà vạt.
Người khách Việt Nam của tôi tự giới thiệu là một doanh gia đang có ý
định mở một khách sạn cao cấp tại Hà Nội dành cho du khách quốc tế.
Chỉ cần nhìn là có thể biết ngay ông khách từ nước nào đến và thuộc
giới người nào. Ông ta có một khổ người cao lớn so với người Việt
trong nước với một làn da sáng của những người sống ở các nước ôn đới
mà nắng không làm đen da, khuôn mặt nhẵn nhụi, vầng trán rộng, cao
dưới một mái tóc chải chuốt cẩn thận thoáng một mùi nước hoa kín đáo
thơm phức. Sau cái gọng kính vàng, đôi mắt ông ta nhìn kẻ đối thoại
như muốn tìm sâu những ý nghĩ của họ. Với giọng nói chững chạc rõ từng
chữ từng âm như để tránh những lỡ lầm của đầu lưỡi có thể làm lộ ra
những ý định đằng sau của mình nhưng cũng đủ để cho thấy sự nghiêm
chỉnh trong lời nói và sự trình bày. Nhưng nụ cười ông ta thì rất thân
thiện, mời đón dễ gây thiện cảm và dường như có thể tạo nên một cuộc
trao đổi chân thành và thông cảm. Ông ta tự giới thiệu:
- Tôi đã ra khỏi nước từ ba mươi năm trước và đã lập nghiệp ở Mỹ, mở
một công ty nhập khẩu và vận tải biển với một đội thương thuyền nhỏ. Ở
nhà tôi chưa bao giờ bỏ qua bất cứ chương trình truyền hình phát thanh
nào bằng tiếng Việt hay tiếng Anh về Việt Nam. Tôi có nhiều liên lạc
với
người Việt ở các nước như Pháp, Canada, Anh Quốc, Úc, Đức và dĩ
nhiên là cả ở Mỹ. Tôi không phải là cộng sản, nhưng tôi cố tìm hiểu
cái ý thức hệ đó, nhưng sẽ không bao giờ ngần ngại giúp sức nếu những
việc làm của họ chừng nào họ còn làm vì yêu nước chứ không phải vì chủ
nghĩa. Chúng tôi, những người Việt sống ở nước ngoài không bao giờ
ngần ngại nói thẳng: cho dù là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
hay bất cứ thứ chủ nghĩa nào mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân, kiếm
cách làm cho dân tộc bớt nghèo, bớt khổ thi chúng tôi
sẵn sàng đóng góp, đặc biệt là những giúp đỡ nhân đạo như
trường hợp nạn đói hay lụt lội chẳng hạn. Chúng tôi dạy con nói tiếng
Việt, giáo dục chúng những phong tục tập quán của quê nhà và chúng tôi
cảm thấy hạnh phúc được thấy thế hệ sau rất xứng đáng với sự chờ đợi
của chúng tôi, thấy chúng vinh dự mang tên Việt và có tổ quốc Việt
Nam.
- Chúng tôi được thông tin về những gì quí ông bà mang lại cho dân tộc
và đất nước. Đặc biệt là ở những vùng thường bị thiên tai, dân ở đó
không ngần ngại nói rõ là gạo cứu đói không phải đến từ Chính Phủ mà
đến từ những tấm lòng yêu nước thương dân của nhân dân trong nước và
hơn nữa từ những người ở nước ngoài.
- Chúng tôi hạnh phúc vì chuyện ấy. Cái truyền thống đùm bọc, giúp đỡ
lẫn nhau của những người cùng chung một mẹ, không phải mới có đây mà
có tận thời bà Âu Cơ. Chúng tôi có một điều thấy tiếc về vấn đề này,
nếu chúng tôi có thể nói được, đó là sự hiểu lầm giữa Nhà Nước và
chúng tôi. Trong mấy chục năm, họ chỉ chúng tôi bằng đủ thứ tên gọi,
đổ đống lên chúng tôi đủ thứ nhục mạ ti tiện, cho chúng tôi là những
kẻ phản quốc. Khi chính trị che mờ lý lẽ, chúng tôi chấp nhận chuyện
đó. Nhưng từ đó mà quay lưng với cả khối đáng kể người Việt ở nước
ngoài với rất nhiều người thành đạt, đầy khả năng về khoa học, kỹ
thuật, là những quản trị viên trong mọi ngành kinh tế, đặc biệt là
những người có khả năng tài chánh lớn có thể góp phần xây dựng tổ
quốc. Đó là một điều bệnh hoạn, một điều khùng điên không thể tha thứ
được. Nếu những người muốn giúp Việt Nam đang phàn nàn về chuyện đó
thì những kẻ chống lại vỗ tay hoan nghênh là Việt Nam đang tự mình cắt
bỏ những đóng góp giúp đỡ của những đứa con của mình, như vậy sẽ làm
cộng sản tan rã nhanh hơn.
Thật đúng lúc để nhớ lại một câu nói dân gian là
Jupiter làm mù mắt những kẻ mà nó muốn bị thua. Nhưng hiện nay
chính phủ đang chăm chút Việt Kiều, đề cao lòng yêu nước của họ!
- Nhiều người trong chúng tôi đã phì cười về chuyện đó. Tiền làm thay
đổi bộ mặt của thói đời và tấm lòng con người. Có lẽ
người ta nên cám ơn mãnh lực của đồng đô la làm nên phép lạ đã
làm biến hình, tẩy trắng khuôn mặt đen quỷ dữ của Sa Tăng biến chúng
thành thiên thần của Thiên Đàng. Nhưng tôi thấy có một sự kiện mà tôi
cho rằng có ý nghĩa. Có một số người trong chúng tôi đã dấn thân vào
một cuộc đấu tranh bền bỉ cho nhân quyền ở Việt Nam. Lời nguyền rủa mà
những người cộng sản đã tung ra ào ạt chẳng chứng minh gì khác ngoài
cái hận thù tàn bạo mà họ có đối với nhân quyền: họ đứng về phía phi
nghĩa và một thiểu số độc tài. Họ ngoan cố không chịu thấy sự thực là
chuyện bảo vệ nhân quyền không có gì là phản quốc hay phản nhân dân
cả. Kẻ nào trộn lẩn hai thứ đó vào nhau sẽ nhân loại đào thải. Họ là
những kẻ đáng thương tội nghiệp hơn là đáng sợ. Sớm hay muộn, giờ
trừng trị cũng sẽ đến.
Nhưng những gì làm tôi kinh hoàng là tính trẻ con mà những người cộng
sản bị. Với tất cả những quyến rũ của chủ nghĩa Tư Bản, người ta lại
kéo kinh tế thị trường, luật cung cầu, lý thuyết về giá cả, kinh tế tự
do gộp chung lại và gọi đó là kinh tế năm thành phần, lợi nhuận,
etc… rồi người ta dán lên đó cái nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa và
thế là trò chơi đã sẵn sàng: người ta đã có thể dương cao cái cựa và
ném ra
tiếng gáy cúc cu của chủ nghĩa xã hội…
Người ta đã khởi sự dân chủ từ lâu nay, nhưng vì chê bai chủ
nghĩa tư bản nên người ta lại phải trang điểm thêm cho dân chủ một
tĩnh từ “xã hội chủ nghĩa”. Và giờ đây thì sự loạn ngôn đầy náo nhiệt:
khẩu hiệu được tung ra, kêu gào đó là Đổi Mới, nhưng chẳng có gì thay
đổi: tham nhũng, hối lộ càng ngày càng toả rộng vùng bị nhiễm, không
có một ông trùm nào bị đưa ra Toà hay bị những bản án nhục nhã và tệ
hại hơn nữa là người ta đã sắp xếp cho kẻ phạm những tội quy mô đào
thoát ra nước ngoài, hay nhắm mắt làm ngơ cho họ di dân đến nước khác
để tránh những cuộc điều tra hình sự, trước dự thẩm hay trước Toà, để
không làm liên
lụy tới những vị chúa tể và khỏi gây ra những
phẫn nộ có thể hiểu được của công luận. Trong khi chờ đợi,
những kẻ hút máu của nhân dân đã cất giấu an toàn những tài sản trộm
cắp được, và sau một thời gian bị lưu giữ hoàn toàn hình thức dưới một
thứ tù giam mà chúng có thể sống một cuộc sống xa hoa, họ có thể được
giảm án, tha tội và được trả lại tự do để trở về sống yên bình, được
tôn kính để tận hưởng thành quả của tội ác trước đây. Việc kiếm ra
giải thích cho hiện tượng này là rất dễ dàng: cộng sản không cho rằng
những tội hình sự mà các đồng chí của họ phạm là phải bị đem ra bêu
thây và bị trừng phạt nghiêm khắc. Thật vậy, nếu thanh danh Đảng bị
giảm và bị ô nhục thì niềm tin của nhân dân vào Đảng cũng mất đi, điều
đó chẳng phải là vì do kẻ thù mà là do chính kẻ nằm trong ruột Đảng.
Từ khi tôi vào Việt Nam, nhiều người bạn của tôi cho biết những tin
tức đó, dù là những tin có thể làm lương tâm nổi loạn, đều là điều có
thật. Những kẻ bị các lãnh đạo hận thù và bị kết án với những cái chết
đầy bí ẩn là những kẻ thù chính trị đã đi sai “đường lối” của Đảng và
nhất là những kẻ muốn bứng họ ra khỏi những chức vụ lãnh đạo cao nhất.
Thật vậy, đó là những cuộc đấu đá dơ bẩn để dành quyền lực được che
đậy dưới cái áo khoác đỏ của chính trị. Nhưng cái gì kinh hoàng và
không thể tưởng tượng được là ở trong cũng như ngoài Đảng, có những
trí thức nổi tiếng đạo đức mà ai cũng kính phục lại tham gia vào cuộc
chơi, chấp nhận lời biện minh của Đảng, đưa cao quả đấm lên trời, bước
đi trong hàng ngũ của Đảng, vừa gào to những khẩu hiệu giả dối. Ở đây
phải công nhận là nền giáo dục cộng sản là thành công, họ thuyết phục
được những người, dường như đầu óc vẫn còn minh mẫn nhưng lại không
tin vào những gì mắt thấy, tai nghe mà ngược lại còn tôn xưng những
tôn chỉ của Đảng, để tăng thêm niềm tin vào những gì Đảng quyết định
và ra lệnh như là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật và là nhà tiên tri Phúc
Âm
Marxist-Leninist.
Loại cuồng tín biến sự đa dạng thành rô
bôt, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết cử động khi có
lệnh đến từ bên ngoài thật sự làm những cái đầu biết suy nghĩ lo ngại.
- Tôi thấy chỉ có một phương thuốc duy nhất là cái văn hoá trí thức
làm phát triển lý tính, gìn giữ tinh thần phê phán, rèn luyện năng lực
phán đoán, rao giảng sự thật và khách quan, cỗ võ cho sự trong sáng và
chính xác trong việc quan sát và thấu hiểu các hiện tượng, tính
logic trong lý luận và nhất là biết hoài nghi đố với những anh
Don
Quichotte vừa cưỡi ngựa vừa tung ra những lời khoe khoang khoác
lác chẳng những không thuyết phục được ai mà còn tỏ ra ngây thơ, dốt
và ngu xuẩn! Chính nhờ nền văn hoá của Pháp được hưởng ích lợi mỗi
ngày đã giúp tôi giữ được, chăm sóc và phát triển con người của tôi
giữa cuộc sống bị
xói mòn bởi chủ nghĩa hình thức và thân phận nô lệ.
- Cái ý thức phê phán và chủ nghĩa hoài nghi thì ít phát triển ở những
nước nói tiếng Anh, như nơi tôi đang sinh sống, nhưng đầu óc thực tế
và chủ nghĩa thực dụng lại giúp chúng tôi tự giữ mình không tuột trên
con giốc của sai lầm bởi những định kiến và chủ nghĩa theo thời mà đập
mình vào khối đá của quyền lợi mà tan vỡ. Cũng vậy, những gì tôi thấy
ở Việt Nam làm tôi thật sự kinh hoàng. Trong những lần đi thăm nhiều
nơi trong nước, đặc biệt là ở những vùng phía Bắc, tôi vẫn không thể
hiểu được sự chịu đựng của giai cấp nông dân phải sống cảnh nghèo hèn
đau khổ mà chưa bao giờ thấy họ vùng lên phản kháng, cũng không thấy
họ kiếm cách tìm hiểu nguyên do hay thuốc trị. Khi tôi rời nước ra đi
ba mươi năm trước, người ta lúc ấy rất hiếu động, năng động và luôn
dám chế diễu những kẻ đang cầm quyền chứng tỏ là cái đầu của dân chúng
vẫn tốt và vẫn biết cái gì là hợp tình hợp lý. Cái năng động càng làm
cho dân chúng thêm tức giận khi phải đối mặt với cái nghèo, cái bất
công. Ngọn lửa năm xưa đẩy quần chúng nổi dậy làm Cách Mạng Tháng Tám
đã tàn lụi nơi nào rồi? Tại sao giờ đây họ trở nên như chết rồi không
còn sinh khí, bất động trong sự thờ ơ? Tại sao họ lại chịu đựng ngồi
khóc một cách thụ động hay có thể đang khóc vì tuyệt vọng như thế? Họ
không còn tin mình còn sức gì trong trí óc và hai cánh tay nữa sao?
Họ, những người đã viết nên những trang sử rực rỡ.
Tôi không thể thấy cái gì ngao ngán hơn là cảnh tượng sáu mươi triệu
người đang trôi dật
dờ không chút nghị lực như những xác người trên biển cả. Họ đã
bị lừa bịp, phỉnh gạt, phản bội và điều không thể hiểu được là người
ta chỉ biết kêu than đói khổ trong khi tài nguyên thiên nhiên thì đầy
dẫy và đang chờ khai thác. Những quan hệ làm ăn khiến tôi phải đi qua
các
nước như Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai Á. Ba
mươi năm trước không có nước nào trong nhóm đó dám nói rằng dân tộc họ
là hơn dân tộc Việt Nam? Có phải chăng họ cũng bắt đầu từ nghèo khó,
có cùng những điều kiện kinh tế, xã hội, tinh thần, cũng phải trải qua
những mâu
thuẫn, những xung đột tương tự? Và, thế nhưng, ngày nay thì họ
được hưởng mức sống cao hơn, hưởng thụ những tiện nghi tối thiểu về
nhà ở, nhiều tự do hơn trong cuộc sống và nhiều nụ cười lạc quan hơn
trên khuôn mặt. Tại sao cái sung túc tối thiểu làm cho cuộc sống trở
nên hiện
hữu và có ý nghĩa, dân mình, một dân tộc chưa bao giờ nhường
bước cho bất cứ nước láng giềng nào trên bất cứ khía cạnh nào, vẫn
chưa có? Điều quan trọng cho mỗi người trong chúng ta ở Việt Nam là
cần phải đặt câu hỏi và kiếm ra giải pháp, dẫu sao cũng nằm trong tầm
tay mà thôi.
- Tôi thật phục ông đã có những nhận xét xác đáng và những lý luận có
chất lượng của ông. Tôi thấy rõ là ông đã lấy cảm hứng từ một tình yêu
chân thành và nóng bỏng cho dân tộc mà ông là một thành viên. Nhưng
tôi thì không chia sẻ với ông cái lạc quan mà ông ước tính rằng giải
pháp là nằm trong tầm tay. Theo quan điểm riêng của tôi, vấn đề chính
yếu là việc giáo dục các tầng lớp quần chúng. Giáo dục phải dạy về
những giá trị mà lòng trung thực và sự biết tôn trọng. Con người sẽ
trở nên loại người gì mà Trường học muốn tạo như thế đó. Thứ giáo dục
theo kiểu
Spartan (can đảm, anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ý thức kỷ luật
cao, chiến đấu giỏi) chỉ để dành cho việc đào tạo ra những
người lính, đẩy tuổi trẻ vào những cối xay người đen tối, và những bài
tập quân sự. Nhưng giáo dục chỉ có thể vận hành có hiệu xuất và cống
hiến những kết quả tích cực nếu có toàn xã hội cùng góp sức với nó.
Những giá trị bồi đắp cho tuổi trẻ chỉ có ý nghĩa và hiệu quả nếu toàn
nước, bất kỳ nơi đâu, nhân dân đều tán dương và vinh danh chúng. Trong
thời phong kiến, người dân được dạy và buộc phải tuân thủ những điều
răn của
Tàu và tuân phục cả những người thầy đã tuyên dạy chúng. Một kẻ
nông dân thất học, nếu có nhặt được một mẫu giấy có chữ viết những
điều răn trên đó thì hắn ta cũng ném vào lửa. Trong bậc thang xã hội,
người thầy được đặt trên cao hơn cả người cha. Nếu chuyện là vậy là vì
cha là đấng sinh thành và thầy có công dạy dỗ nên người. Nên người, đó
là cái mục đích duy nhất và tối hậu của giáo dục. Vì vậy, muốn được
xứng đáng mang danh “nên người” là con người phải được tô điểm bằng
những đạo đức, chỉ riêng chúng, đã nâng cao và tán dương nhân tính của
con người. Trường học dạy nguyên tắc, đạo đức ứng dụng nó trong gia
đình và ngoài xã hôi. Chế độ quân chủ ngày xưa bổ nhiệm những nhà nho,
nhát là những người thi đỗ những kỳ thi Hương, ba năm tổ chức một lần,
vào những chức vụ cao nhất của triều đình. Tên những người đỗ Tiến Sĩ
được khắc trên bia đá, các làng không ngừng hãnh diện đã có con em đỗ
đạt ra làm quan, trong số đó có những người đã làm điều tốt lành cho
đồng bào nên lúc chết đã được dân làng tôn lên thành Thành Hoàng của
làng và xây đình thờ phượng. Văn chương, bằng chữ viết hay truyền
khẩu, đều đưa ra những tấm gương phải theo của những ông quan thanh
liêm và trung chính với Vua và nhân dân, và đả kích không chút thương
xót những ông quan leo được lên những nấc thang cao của vinh quang duy
nhất nhờ những thủ đoạn nô lệ và hạ cấp. Trong một xã hội như thế, sự
vô đạo đức là khó xen vào để kiếm chỗ. Quần chúng nhân dân không cần
phải lên tiếng đòi hỏi trừng phạt những kẻ lạm dụng chức quyền hay ăn
hối lộ. Cơn thủy triều đen của sự vô đạo đức không thể ngập trùm cả xã
hội, cả nước được.
Cái khác biệt cơ bản và sâu sắc giữa xã hội ngày xưa và xã hội ngày
nay là mục tiêu của giáo dục đã thay đổi. Ngày xưa người ta tôn vinh
con người và đạo đức. Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản và cái chính trị
quốc tế chủ nghĩa của nó thì được ca tụng bằng trời. Khi cái giá trị
chính trị nó đánh bật cái giá trị trí thức và đạo đức, đó là cả một
cuộc cách mạng, những thành viên của Đảng không nghi ngờ điều đó. Họ
không ngừng kêu gào hai tiếng “Đổi Mới” nhưng khẩu hiệu không thể thay
cho hành động; sự xuống cấp của con người và đạo đức đã tiếp bước đi
theo hay đi cùng với sự sụp đổ của kinh tế, làm nặng thêm cái nghèo và
cái khổ đau của nhân dân.
- Tôi đã thấy ngay điều đó khi tôi vừa ra khỏi máy bay ở phi trường
Tân Sơn Nhất. Nhiều nhà trí thức phải đi đạp xích lô, trong khi những
nhà chính trị lại chễm chệ ô tô. Trong khi những trí thức phải đi rửa
xe máy, sữa xe đạp cạnh lề đường hay bán rau ở các cửa chợ thì các
quan lãnh đạo đang thoải mái trong các biệt thự sang trọng với cái
thân thể ngày càng đẫy đà qua những lần yến tiệc chiêu đãi sự hiện
diện của họ. Trong khi người trí thức phải quần quật nghèo khổ thì các
quan quyền cùng với vợ con vẫn chưa thoả mãn cuộc sống nhung lụa vẫn
tiếp tục vơ vét vàng và đô la đem gửi ngân hàng
Thụy Sĩ. Trong khi đó các kho bạc của Nhà Nước không còn tiền
mặt, nhân viên bị sa thải, những người còn ở lại thì được phép ra
ngoài buôn bán, kể cả ngay trên mặt bằng của cơ quan và được phép nhận
những số tiền thù lao lớn nếu
xoay xở mang hợp đồng về cho cơ quan chủ quản của họ. Cánh cửa
được mở rộng cho thứ chợ đen nhà nước, gian lận thuế, ăn cắp những số
tiền đáng kể của nhà nước thông qua những vụ nâng giá bất hợp pháp để
được hưởng những khoản tiền hoa hồng. Không có một đất nước nào mà ở
đó nhà nước trực tiếp khuyến khích sự phạm tội như thế!
- Cái vấn đề cốt yếu, cơ bản và cấp bách nhất là phải thay đổi con
người, cái cỗ máy chính cho mọi hoạt động của xã hội, phải đề nghị cho
Giáo Dục tự giao phó cho mình cái mục tiêu cao nhất: con người có văn
hoá và đạo đức. Dĩ nhiên chuyện làm nên con người có văn hoá và đạo
đức cũng phải thích ứng với đà tiến bộ hiện đại của khoa học kỹ thuật:
nó không thể dừng lại sơ cứng với những giá trị Khổng giáo. Thật là
nực cười là trong thời đại nguyên tử, điện tử và chinh phục không gian
mà con người lại không quan tâm đến thành quả của khoa học. Nhưng khoa
học chỉ dạy con người một cách sâu rộng về thế giới của vật chất. Nếu
nó trang bị cho con người một thiết bị trí thức hàng đầu, một phương
pháp suy nghĩ hợp lý, trên cơ sở kép của sự quy nạp và loại suy, nó
chẳng giúp được gì trong việc khảo sát thế giới của đạo đức, việc tìm
hiểu những chuyển động của linh hồn, trong chuyện giải trình những lý
do của con tim hay tìm cách giải thích về sự hình thành, phát triển và
hủy diệt. Tới đây là lúc Văn Chương vào cuộc và chứng minh khả năng
của nó. Văn hoá của một con người hiện đại được xây dựng và
triển khai trên cả hai khung trời khoa học và văn học. Từ đó,
đạo đức của con người hiện đại sẽ thích nghi với những đòi hỏi của xã
hội mới. Con người không còn đâm chém giết nhau, người ta không còn
đòi người chiến sĩ phải là người can đảm, hy sinh và độ lượng dũng
cảm, trên chiến trường người ta không còn thách đố với Thần Chết để
bảo vệ cho đấng Thần Linh của mình hay cho người tình yêu dấu! Không,
con người hiện đại tự chứng minh mình qua cái nhìn trong sáng và công
bằng, bởi khả năng tiên liệu về những gì sắp xảy ra ngày mai, bởi khả
năng phán đoán chính xác về đối thủ và thời cơ, bởi sự bền gan chấp
nhận những thất bại trong ngắn hạn để đạt đến những thắng lợi lớn
trong tương lai. Họ có được những đức tính này qua những kinh nghiệm
của cuộc sống, qua những đấu tranh và cũng nhờ ở văn học. Nhưng những
đạo đức có tính quyết định nhiều nhất là tính trung thực, lòng lương
thiện, công bằng, trọng danh dự và có lòng tự trọng, nhân đạo và rộng
lượng.
- Tôi đồng ý với ông hoàn toàn. Nhưng con người có văn hoá và đạo đức
là một lý tưởng lâu dài và khó khăn mới có được. Cái khó khăn chính là
sự chống đối mãnh liệt của Nhà Nước không muốn thay thế con người lý
tưởng của họ. Mặc dù, chỉ cần một tí thông minh và cởi mở là đủ để
hiểu rằng con người lý tưởng cộng sản quốc tế vô sản là đã chấm dứt và
sẽ được đưa vào bảo tàng viện những người bằng sáp của
Grevin về Lịch Sử các Hiệp Sĩ Thời Trung Cổ. Nếu họ còn bám víu
vào nó, không phải vì cái tự ái của các đấng sinh thành mà là do cái
lợi ích đầy ích kỷ đang bị nguy hiểm của Đảng đang muốn được sống còn.
Để đạt cái mục đích này, họ tung ra những khẩu hiệu “Đổi Mới”. Nhưng
trong nước, bất kỳ nơi nào tôi đến, chỉ nghe nhân dân bàn tán về
chuyện tham nhũng của giới cán bộ công nhân viên, mà hầu hết những kẻ
này là người của Đảng. Đơn thuần là những quan chức nào đó được nắm
những chức vụ cao và chịu những nhiệm vụ lớn thì dễ dàng thu vén đầy
túi. Nhân dân đòi hỏi phải trừng phạt chúng, Đảng từng tuyên bố chống
tham nhũng, nhưng cho đến nay, chỉ có vài tép
riu du côn là bị trừng trị, nhưng đó chỉ là những kẻ phạm tội
có tính riêng rẽ và cá biệt chẳng có gì liên hệ để làm hại cho các ông
trùm. Thật là một điều sai lầm khi tránh không trừng phạt hay tránh né
quá lâu trong việc trừng phạt các người phạm tội có tầm cỡ. Trừng phạt
hay không trừng
phạt Đảng đều mất uy tín. Trong việc cơ cấu lại nền kinh tế,
Đảng càng tự làm mình mất uy tín hơn nữa nếu cứ dừng ở những giải pháp
nữa chừng, trì hoãn thực hiện, và những gì làm người ta kinh hoàng khi
thấy Nhà Nước luôn gắn thêm cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào những gì
thật ra là luôn luôn thuộc về chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu đó là những
gì thuộc chủ nghĩa xã hội, tại sao phải chờ nền kinh tế bị sụp đổ mới
đưa chúng ra áp dụng? Nếu nó không phải là phát minh của chủ nghĩa xã
hội, việc tiếm đoạt tài sản của người khác là một việc làm bất lương,
nhất là sau khi đã kéo chủ nghĩa tư bản vào bùn đen trong nhiều thập
niên? Thật vậy, việc đánh lận con đen có thể giải thích được: bị dồn
vào thế thất bại không thể tránh khỏi, cộng thêm cái lo sợ bị mất mặt,
họ đã chọn trở thành trò cười cho thiên hạ. Đó là một sự sai lầm. Ở
đây, hay bất cứ ở đâu, sự chân thành thẳng thắn là bắt buộc. Chẳng
thắng được gì nếu cứ lừa bịp người chơi với những hột xúc sắc đã được
gian lận. Chẳng những chứng tỏ mình là vô tích sự mà còn làm cho danh
dự của mình bị nhơ bẩn. Có gì phải xấu hổ khi nhận mình sai lầm nếu
bài học rút tỉa sẽ mang lại những điều kiện thuận lợi cho một thành
công trong lần thử sức mới?
- Tôi có thể hỏi ý định của ông là như thế nào không?
- Tôi trở về đây để nhìn lại đất nước, nhưng tôi có nhiều bạn bè đang
chờ ý kiến của tôi trước khi có thể vào đầu tư ở Việt nam. Những gì
tôi có dịp nhìn thấy không khuyến khích tôi tiến hành được chuyện gì.
Tôi phải nói với ông là thị trường Việt Nam là hấp dẫn: tài nguyên đầy
dẫy và chưa được khai thác, nhân công dồi dào, nhưng viễn thông và
đường xá thì rất tệ, nhân viên hải quan thì quá tỉ mĩ soi mói, cảnh
sát công an thì gây phiền hà. Luật Pháp, mặc dù gần đây đã có nhiều
thay đổi, nhưng vẫn chưa đầy đủ và nhất là chính phủ dù đã cố ngụy
trang một cách vô ích, dưới lớp dầy của phấn son, cái màu đỏ vẫn còn
đậm nét trên da mặt. Họ vẫn cố chấp trong việc độc quyền chính trị,
phớt lờ dân chủ, không chấp nhận nhân quyền, xem thường và đối xử tệ
bạc với trí thức. Có ông nhà báo người Pháp, người đã viết bài ca tụng
dân tộc Việt Nam thời chiến thắng Điện Biên Phủ, vừa rồi có quay lại
Việt Nam đã viết: giờ đây sự ngu dốt và bất tài đã được dối trá và ích
kỷ xông vào nhập cuộc. Kết luận: phải chờ thôi.
- Chờ đợi! Ông chờ và chúng tôi cũng vậy. Tất cả, chúng ta đều chờ
những ngày tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
- Sự chờ đợi có thể là lâu, nhưng ít nhất chúng ta cảm thấy điều đó sẽ
xảy ra. Ở đây, trong tôi cứ xen kẻ hai tâm trạng: chờ đợi và thất
vọng. Tôi hy vọng khi nghĩ tới tiềm năng phong phú về thiên nhiên và
con người của Việt Nam. Nhưng tôi lại thất vọng khi vẫn là chứng nhân
cho cái nghèo kinh hoàng mà nhân dân phải gánh chịu vẫn còn tồn tại,
nhất là ở những vùng nông thôn. Dĩ nhiên, bây giờ có nhiều nhà ngói
hơn xưa, nhưng than ôi không phải ai cũng được thoải mái, ngay nhiều
nơi ở miền Trung dân vẫn còn kham khổ vì thiếu thốn và bị đói. Không
thể chấp nhận được! Tôi hy vọng rằng khi Nhà Nước và nhân dân cùng kêu
vang “Đổi Mới” và nhất là khi khi Đảng tham khảo ý kiến của nhân dân
để xem nên cải cách thế nào. Nhưng tôi thật thất vọng chỉ thấy những
quan điểm chính thức thì được hoan nghênh trong khi nhũng quan điểm
không chính thống khác thì bị đẩy lên giàn bêu thây trong khi chờ đợi
những trừng phạt nghiêm khắc sẽ đến. Tôi đã hy vọng vào những cuộc
tham khảo ý kiến trong nội bộ Đảng nhưng tôi đâm ra thất vọng khi thấy
trên Ti Vi những đảng viên với một sự nhất trí, hơn cả sự tự nhiên,
tung hô niềm tin vào Đảng cũng như Đảng dâng trọn niềm tin vào chủ
nghĩa
Marxist-Leninist.
Tôi tự hỏi, giữa hai niềm tin đó, còn niềm tin nào dành cho dân tộc và
việc cải thiện cuộc sống của họ? Và nhất là tôi cảm thấy như mình bị
hụt
hẫng sai lệch khi nghe lãnh đạo Đảng bênh vực cho kinh tế thị
trường là nền kinh tế chỉ có ý nghĩa trong chủ nghĩa tự do. Tôi đã hy
vọng khi nghe Đảng công bố rằng dân chủ đã ngự trị, nhân quyền được
tôn trọng, và tôi đã thất vọng khi biết được là có hàng ngàn trí thức
đã hô hào cho dân chủ và đã nói ra một cách tự do những ý kiến của
mình giờ đây đang ngồi suy nghĩ sau cánh cửa nhà tù để hiểu xem họ hay
lãnh đạo ai là kẻ đúng lý. Tôi đã hy vọng khi thấy các nước Đông Âu đã
quét sạch cộng sản và bọn lãnh đạo nó, thì tôi lại càng thất vọng khi
thấy dường như Việt Nam vẫn còn là thành trì chót của chủ nghĩa Cộng
Sản và vẫn còn đang nhắm mắt bịt tai đối với những gì đang xảy ra trên
thế giới. Tôi đã hy vọng khi nhìn thấy nhiều sinh viên Việt Nam đã
thắng nhiều giải trong các cuộc tranh tài thế giới. Nhưng tôi lại càng
thất vọng khi thấy nhiều trí thức bị đẩy ra rìa xã hội, bị vào thế
phải cực khổ làm những công việc chân tay thấp kém để khỏi phải bị
chết đói trong khi những cán bộ có chức có quyền lại ung dung thoải
mái trên các chiếc ô tô đắt tiền và gửi con cái đi “du học” nước ngoài
và một ngày nào đó sẽ quay về Việt nam để thay chỗ, thay quyền cho họ
trong những chức vụ cao. Tôi chỉ kể ra một số sự kiện đã làm tôi kinh
ngạc và dám thách bất cứ ai có thể chứng minh điều ngược lại. Có
thể làm gì để chữa tình trạng thê thảm này không?
- Những việc mà ông vừa nêu ra không phải là do ông tưởng tượng đâu.
Chúng tôi ở trong nước đã đau khổ nhiều vì những điều đó nhưng không
bao giờ dám ám chỉ đến vì chỉ cần la lên chuyện thần thoại
Midas có lỗ tai lừa là đã bị gán ghép thành tội phạm. Chỉ có
những kẻ cơ hội chủ nghĩa đang thèm khát danh vọng và lợi lộc là sẵn
sàng sang sảng ở bất cứ góc đường nào để vinh danh mụ Messalina ngoại
tình kia là người đàn bà trung trinh nhất thế gian. Giới lãnh đạo luôn
luôn hô hào như người ta thường nói là chớ bao giờ vạch áo cho người
xem lưng. Mặc dù thế tôi vẫn không đi đến chỗ cực đoan là đòi phải
loại bỏ tất cả những người cộng sản. Một cái đầu biết suy nghĩ rất
kinh sợ cho những điều “mới mẻ” có thể gây ra những xáo trộn nặng nề
cho xã hội, gây tác hại trên quyền lợi của người và của. Tôi cũng sẽ
làm như người đàn bà hàng ngày chăm lo cầu nguyện cho ông vua ác
Syracuse đang trị vì được nhiều sức khoẻ sống lâu vì bà ta sợ rằng
người kế vì có khi lại còn tàn độc hơn hắn ta. Vì thế, tôi đặt tin
tưởng vào Đảng và là Đảng đã được tái sinh. Mặt khác, tôi cho là bất
cứ bàn tay nào có thể mang lại hạnh phúc và ấm no cho dân tộc, bất cứ
ai mà mối bận tâm lớn nhất là không chỉ riêng cho họ mà cho cả nhân
dân, cái đó mới là quan trọng. Cá nhân tôi, tôi rất kinh sợ chính trị,
và nhất là khi tất cả những con người chính trị đều dấu mặt sau những
chiếc mặt nạ đầy ích kỷ và dối trá, thối rữa trong tội ác và kiêu căng
tự đại. Làm sao có thể khác hơn khi họ chỉ là con người, để mà nói
rằng, trong tự bản thân mỗi người luôn có sự xung đột giữa cái xấu và
tốt, mà cái tốt lại hiếm khi thắng? Tôi cứ cho tất cả chúng một cái
túi là xong.
- Ông có thể dành một ngoại lệ cho những người cộng sản mà lâu nay vẫn
được hàng triệu người trên thế giới tán dương?
- Cộng sản đã giết nữa cuộc đời của tôi, đã buộc cả gia đình chúng tôi
phải chịu kéo dài những đầy đoạ vì cái đói bằng cách cắt đứt mọi cách
kiếm sống của tôi trong nghề dạy học và làm luật sư. Nhưng những kẻ
đáng thương kia đang bị một thứ bệnh ấu trĩ, chỉ biết nói như con vẹt:
họ đoạ đầy trí thức để theo gương bọn
Stalinist và
Maoist. Tôi tha thứ cho họ về những chuyện đó: chẳng qua họ
cũng chẳng biết họ đang làm gì. Nhưng tôi không bỏ qua chuyện họ đã
cấm đoán tôi có cái hạnh phúc trong nhiều chục năm có dịp đào tạo
nhiều thế hệ thanh niên như tôi đã làm vào thời trước khi họ lên nắm
chính quyền, nghĩa là cả một lớp trẻ rất khá về ngôn ngữ và văn chương
Pháp, một lớp người được trang bị một nền đạo lý lớn của Pháp và một
nền văn hoá có chất lượng cho phép họ cùng nhau tham gia lèo lái con
thuyền chung vượt qua những vùng đá ngầm của cuộc sống. Tôi đã không
có dịp truyền đến cho họ ngọn lửa nhiệt tình soi sáng tinh thần và
những bước đi của tôi trong cộng đồng con người.
- Cái khôn ngoan và cái vốn văn hoá đó đã gợi ông có thái độ nào đối
diện với chính trị và đặc biệt là đối với những người cộng sản?
-
Tôi mở tuyển tập
Montaigne. Đó là cuốn sách gối đầu giường, là nguồn tiếp sức
cho tôi. Có rất nhiều bài học rất tốt mà những người cộng sản, nếu họ
có chút văn hoá, có thể học hỏi từ những tác phẩm đó. Đọc qua tập
“những tấm gương sáng của cổ nhân" trong tuyển tập
Montaigne họ sẽ nhận thấy là không nên giữ trong đầu những gì
chỉ vì do cấp trên bảo ban và những gì không có gì chứng minh, là bất
cứ ai theo chân người khác thì không theo cái gì cả. Nói rõ hơn là
không bao giờ quỳ
lụy bất cứ ai, kể cả Mác hay Lê Nin, kể cả
Staline hay Mao. Họ không nên tự giam, xây tường nhốt mình vào
một thế giới kín bưng mà phải mở rộng giao thiệp với người, cọ sát và
mài
dũa trí óc của mình với trí óc của người khác, xâm nhập vào thế
giới rộng lớn này, phải nhìn ở đâu để nhận ra những con đường vòng tốt
nhất và những điều cóp nhặt có thể học hỏi từ người khác; mỗi người
phải biết nhào trộn biến chúng thành thứ của riêng xem đó như là lý
luận của mình. Cái thu hoạch theo cách học đó làm kiến thức mình ngày
càng lớn và rộng thêm. Ở đây, nói tóm lại, đó là những gì người cộng
sản cần phải học để tự xây dựng bản thân trước khi lãnh đạo người
khác.
Và
ngày nay, đối diện với những người cộng sản, người ta phải sống với
thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình? Hãy
nghe lời của các bậc thầy. Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm,
bày biện nó và vui với nó. Cái khẩu hiệu “tự làm chủ lấy bản thân” là
một điều chỉ có thể thực hiện ở chỗ khuất mắt sau nhà. Phải tách cái
góc nhà đó ra khỏi cộng đồng vợ chồng, kể cả con cái, kể cả người
dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy mình, chúng ta
có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để từ đó tự đánh giá và
điều chỉnh bản thân của mình. Cái chắc chắn nhất là hãy đặt niềm tin
vào chính mình và dựa trên những gì tất yếu cho mình. Nếu như chúng ta
sống trong những thời kỳ khó khăn, và chứng kiến cảnh đáng lưu ý về
cái chết chính tri của chính chúng ta, thì hãy biết rằng trong hoàn
cảnh đầy xáo trộn mà chúng ta sống ba mươi năm qua, mọi người đều có
thể chỉ nội một giờ là số phận có thể sụp đổ hoàn toàn. Từ đó, thái độ
có tư cách nhất, ngay cả lúc chúng ta buộc phải nhận một chức vụ trong
chính quyền, là phải chẳng những không được phủ nhận những phẩm chất
đáng khen của phe đối thủ mà cả những phẩm chất đáng chê của những kẻ
mà mình theo. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta phải đề cao cảnh giác,
phải có một cái nhìn rõ ràng, và tránh thái độ phe nhóm hay có thành
kiến gây ảnh hưởng trên thế đứng của mình trong xã hội và đặc biệt là
trong cộng đồng chính trị. Cái khôn ngoan sắc xảo nhất là nghe theo
tác giả: “tôi không biết dấn thân một cách thật sâu và thật toàn diện
như thế: khi tôi muốn cống hiến cho một đảng thì không phải vì một
nghĩa vụ mang tính bạo lực mà tôi để cho lý trí tôi trở nên đồi bại”.
Chính vì không muốn lý trí của mình trở nên đồi bại mà không ít một số
trí thức đã từ chối lời mời gia nhập Đảng.
- Tốt!
Tôi hoàn toàn hiểu ông. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, suy nghĩ của
ông là thế nào? Làm sao có thể thoát khỏi con đường bế tắc mà ta bị
giữ trong đó, và bị giữ trái với ý muốn của mình?
-
Phái cực
hữu thì muốn truy sát phe cộng sản cho đến tận sào huyệt bí mật
nhất. Cánh cực tả thì muốn chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bất
chấp mọi trở ngại, ngay cả việc phải thực hiện một vài thay đổi hay
nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng giải pháp cần phải có nhiều sắc thái hơn. Cái
khuôn vàng thước ngọc nào buộc ta phải luôn nhớ và đang chi phối cái
trận chiến điên cuồng giữa các đối thủ đang hiển hiện? Nếu con người
là điểm phát xuất và cũng là điểm đến cuối cùng của giáo dục và văn
hoá thì nhân dân cũng phải là điểm xuất phát và điểm đến cuối cùng của
mọi lực lượng chính trị. Chúng ta hãy thực tế. Chúng ta coi thường bất
cứ thứ ý thức hệ nào chỉ toàn đưa ra những loạn ngôn để làm duyên cớ.
Nhân dân đòi hỏi gì? Ít và thật ra là nhiều. Ít là vì họ chỉ mong chờ
một cuộc sống vật chất vừa phải: một chỗ ở tươm tất, những bửa ăn
thích hợp, quần áo sạch sẽ. Trong đời sống tri thức và nghệ
thuật, họ chỉ yêu cầu được học hành đào tạo và có văn hoá, được giải
trí lành mạnh. Trong đời sống chính trị họ mong muốn được tham gia ý
kiến về những vần đề quan trọng liên hệ đến hiện tại và tương lai của
họ, và được tự do phát biểu những ý kiến và suy nghĩ chân thành của
họ. Trong đời sống xã hội, họ chỉ mong được giáo dục và có cuộc sống
đạo đức, có những phong tục tập quán trong sáng đẹp đẽ, những cư xử
chuẩn mực của từng cá nhân và nhất là của những kẻ đang nắm quyền. Họ
coi tất cả những xung đột về ý thức hệ hay về những thứ tương tự chỉ
là vấn đề văn phạm trong ngôn ngữ mà thôi, như
Montaigne đã viết. Họ cũng chẳng cần biết những chính sách đưa
ra là tư bản hay cộng sản. Cái chính yếu là làm sao mang lại ấm no cho
dân tộc: tất cả những thứ khác đều là những chuyện ba hoa chích
choè và vô nghĩa.
Hiện
nay, đảng cộng sản đang nắm quyền trên đất nước. Họ đã qua những lúc
vinh quang và những lúc khổ nhục. Không thể chối cải là nhân dân không
có một thứ quyền gì trên những bí mật và sinh hoạt của Đảng: đó là một
thế giới riêng rẽ, nằm bên trên thế gian này. Cái độc quyền chính trị
mà họ đã bảo vệ bằng mọi giá đã rèn
dũa thành một sự kết hợp
chặt chẽ và đã củng cố khối người của họ nhưng nó cũng đã đưa
đến việc phạm những tội ác kinh hoàng không thể nào chuộc lỗi được,
những tội ác mà chính họ cũng đã công nhận là sự tàn phá là vô cùng
nghiêm trọng. Bây giờ, họ muốn tự khảm xa cừ lên mình, họ đã tổ chức
hoàn hảo một guồng máy bạo lực. Muốn bứng họ đi là có đổ máu. Họ tuyên
bố là họ rất mong muốn đổi mới bằng những thay đổi cơ bản và cốt yếu.
Hãy cho họ một thời gian ân huệ, một án treo. Nếu, nhờ vào những cố
gắng nhiệt thành, những hy sinh với giá cao, tự mình đổi mới, thực tâm
và chân thành áp dụng cái nguyên tắc mà họ từ lâu nay tuyên cáo: đó là
“vì dân và do dân”, thì tại sao chúng ta không dành cho họ một cơ hội
chót? Nếu chúng ta loại cấm họ như là một đảng chính trị, thì chúng ta
sẽ lại chơi trò chính trị, đang chứng tỏ lại với họ cái cuồng tín mà
chúng ta đã từng lên án họ. Cái đặc ân này sẽ làm họ suy nghĩ lại, họ
sẽ cố gắng trở nên xứng đáng hơn với lòng tin của nhân dân bằng cách
thoả mãn quyền lợi của nhân dân và biết tôn trọng ước nguyện của nhân
dân.
Chúng
tôi đã không ngã giá trên các món đồ. Thật quá sự mong đợi của tôi,
người khách đã trả cho tôi cái giá gấp đôi mà tôi đã có ý đề nghị.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|