Kẻ Bị Mất Phép Thông Công
Hà Nội
1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức
Nguyên tác:
“L’excommunié”
Nguyễn
Mạnh Tường
- 13 Tháng 5 năm 1991
Dịch gỉa: Nguyễn Quốc Vĩ - 23 Tháng 11 năm 2009
PHẦN BA:
Hành trình đi vào sa mạc
1. Lưỡi kiếm của
Damoclès
2. Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về
3. Cái đói bi thảm
4. Bi hài kịch của một cuộc trả giá
5. Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn
1. Lưỡi kiếm của
Damoclès
Ba phiên Toà: ba lần xuất hiện ở những toà án chính trị của Mặt Trận
Tổ quốc, Đại Học và đảng Xã Hội. Mấy ông bạn, giữ vai trò ông thần
Công Lý, là những người được chỉ định qua một sự lựa chọn rất
chặt chẽ. Cái khéo léo nhất ở đây là họ không chọn những người
nằm trong hàng ngũ của Đảng. Nếu không, sẽ như họ đã chọn huy động cả
dàn đội pháo binh để bắn một sinh vật nhỏ bé và không chút tự vệ, dùng
xe tăng và đại bác bắn vào đám biểu tình tay trần không súng đạn. Bên
cạnh đó sẽ làm cho thiên hạ nhận ra là những người cộng sản không đủ
trình độ để xử lý chuyện đời, họ sẽ bị mất mặt và uy danh của Đảng sẽ
bị tổn thương. Vì thế, cách hay nhất là lựa chọn những kẻ cơ hội không
thuộc đảng nào, nhưng lại có một quá khứ cần được chuộc lại và sẵn
sàng nhận những khạc nhổ khinh bỉ của giới trí thức. Chúng đang giữ
những vai trò nhỏ mọn, nhưng vì quá mong được nổi lên và được nhận
những mãnh ăn thừa của Đảng, nên đã tự ép mình vượt qua những xấu hổ
để được làm con ngựa trong gánh xiếc chạy quanh trên diễn trường dưới
hiệu lệnh từ chiếc roi của người dạy thú. Như thế là Đảng được phủi
tay và Đảng sẽ nắm những người không-phải-là-cộng-sản trong một cuộc
thanh toán giữa các người gọi “đồng chí” với nhau. Nhưng ông thánh
Công Lý được kỹ lưỡng chọn lọc đã được chuẩn bị rất kỹ vì họ là những
người phát ngôn của Đảng. Nếu họ thi hành tốt những việc được giao phó
thì Đảng sẽ khen thưởng cho tôi tớ. Nếu chúng không hoàn thành nhiệm
vụ thì chỉ có chúng nó là người phải chịu cái sức nặng của sự thất
bại.
Cái khéo léo nhất ở đây là họ không chọn những người nằm trong
hàng ngũ của Đảng ... sẽ làm cho thiên hạ nhận ra là những
người cộng sản không đủ trình độ để xử lý chuyện đời, họ sẽ bị
mất mặt và uy danh của Đảng sẽ bị tổn thương. Vì thế, cách hay
nhất là lựa chọn những kẻ cơ hội không thuộc đảng nào, nhưng
lại có một quá khứ cần được chuộc lại và sẵn sàng nhận những
khạc nhổ khinh bỉ của giới trí thức. |
|
Tôi hiểu chuyện này và vận dụng toàn sức cố gắng để bảo vệ danh dự của
mình trong cuộc đụng độ giữa chiếc lọ bằng sắt và chiếc lọ bằng sành.
Nhìn ánh mắt của những người có mặt trong hai phiên xử ở Mặt Trận Tổ
Quốc và ở Đại Học, tôi hạnh phúc hiểu rằng tôi đã thắng, trước cái
ngượng ngập lúng túng của các ông thánh Công Lý đã tự ném mình xuống
đất để tìm cách rượt cắn bắp chân tôi. Mọi người đều đứng về phía tôi.
Ngày hôm sau, khi tôi khoẻ lại, có một người bạn hàng bộ trưởng tạc
ngang viếng thăm và cho biết rằng trong giới thẩm quyền họ đã quyết
định bắt nhốt tôi. Tôi có thể làm gì hơn? Ai cũng biết chính tên quan
chức cao cấp đó là người đã từng đích thân bắt những người cộng sản
khác dù rằng đó là những người cả đời hy sinh cho Cách Mạng với một
danh sách dài đầy thành tích, những kẻ mà lòng lương thiện chân thành
đều được mọi người quý trọng. Đó là trường hợp của V. Đ.H mà tôi có
dịp gặp trong thời bí mật kháng chiến, đó là trường hợp của D.K.G là
người giữ chức vụ rất cao trong một khu Kháng Chiến. Nếu những người
cộng sản có đăng ký với danh dự không tì vết còn phải chịu những đối
xử như thế, chắc chắn là do quyền lợi chính trị hay đấu đá phe nhóm,
thì có nghĩa lý gì đối với kẻ quái gở khốn khổ như tôi, không bạn bè
trong xã hội và không được ai trong Đảng bảo vệ? Tôi không mơ đào
thoát đâu đó vì công an đã dàn
trải
tay chân, do thám và chỉ điểm khắp mọi nơi. Hơn nữa, tôi cũng
không lưu ý nhiều đến giải pháp giảm giá trị đó: làm như thế là cho
thiên hạ có cảm tưởng là tôi đang chối bỏ những quan điểm và những
điều mà tôi tin. Mấy người cộng sản sẽ nghĩ gì khi mà trước đây họ đã
quen thói ca tụng nhân cách của tôi?
Tôi đành chịu thua cho số phận, để chuẩn bị cho một chuyến đi một
chiều không ngày trờ về, tôi đã soạn một chiếc
vali đựng quần áo và đồ ấm. Tôi cũng đã cẩn thận soạn mang theo
một cuốn
Essais de
Montaigne trong bộ
Pléiade, cùng với giấy, viết, mực và viết chì. Tôi muốn trám
hết những thì giờ bị buộc phải nhàn rỗi đến vô tận bằng một số việc
làm trí óc để tự cứu mình trong cảnh tù đày dễ gây điên loạn. Biết
đâu, những tay cai ngục còn có lòng nhân đạo sẽ không lấy đi mất hành
trang cuối cùng mà tôi khẩn thiết cần chúng.
Trước đây tôi
cũng
từng đi vào những nhà tù theo những yêu cầu công việc để gặp
những người tù mà tôi là luật sư bào chữa, vì thế tôi đã biết những gì
sẽ xảy ra ở những nơi tù đày này. Những tên đầu gấu đánh đập những kẻ
mới đến và cướp đi phần lớn trong phần ăn dành cho tù nhân, nhất là
những phần lương thực dự trữ mà gia đình thỉnh thoảng gửi quà cho họ.
Số lượng rõ là đã bị cắt xén khi gói quà qua tay những kẻ giữ tù, phần
còn lại trở thành nhỏ nhoi sau khi bọn đầu gấu và đồng bọn tự chiêu
đãi thêm một phần lớn khác. Những hy sinh của gia đình chỉ để duy trì
cho cảnh phát đạt của bọn cai tù và những kẻ tàn ác đang áp bức những
kẻ khốn khổ bị nhốt trong từng xà lim. Bạo lực đã biểu thị cái hung
bạo và thống trị kẻ khác một cách vô liêm sĩ và tàn bạo. Bạo lực được
triển
khai không chút ngần ngại lúng túng, đầy đạo đức giả, và không
che đậy để lừa gạt mọi người. Nó hiện mình trần trụi và, nếu ta có thể
nói, hoàn hảo. Ngược lại, khi bạo lực cải trang sau cái
logic ngụy biện, dấu mình sau những lý luận có vẻ đúng, nói tóm
lại, là chỉ để tự bào chữa, không phải với công luận mà với chính cái
sâu thẳm của một lương tâm chưa chết hẳn, cái đó mới là điều bệnh hoạn
đáng ghê tởm và kinh hoàng.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn, ở bìa những
cánh rừng, họ thấy từng hàng người lê chân, ốm đói như những
bộ xương biết đi. Một giờ trôi qua, hàng loạt tiếng súng từ
trong rừng vọng về kéo họ choàng dậy ra khỏi giấc ngủ đang
say. Một cuộc thảm sát tập thể vừa xảy ra và đó là chuyện mà
mọi người không nên kiếm cách tìm hiểu để thoả mãn tính tò mò
của mình. Không ai thấy gì và cũng không dám tìm hiểu xem
chuyện gì đã xảy ra, nhưng từ túp lều tranh này qua túp khác,
tin tức chuyền đi từ người này sang người khác, mọi người chết
lặng sợ đến lạnh xương sống. |
|
Khơi dậy những chuyện đã qua từ khoản sâu của trí nhớ trong những năm
tháng làm việc trong Luật Sư Đoàn, tôi vẫn còn nhớ những chuyện bí mật
được nghe kể trong những chuyến đi về những vùng làng mạc thôn xóm.
Thường khi, trong những túp lều tranh vào buổi tối, những người chủ kể
cho tôi nghe những câu chuyện thương tâm buốt
nhói. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn, ở bìa
những cánh rừng, họ thấy từng hàng người lê chân, ốm đói như những bộ
xương biết đi. Một giờ trôi qua, hàng loạt tiếng súng từ trong rừng
vọng về kéo họ choàng dậy ra khỏi giấc ngủ đang say. Một cuộc thảm sát
tập thể vừa xảy ra và đó là chuyện mà mọi người không nên kiếm cách
tìm hiểu để thoả mãn tính tò mò của mình. Không ai thấy gì và cũng
không dám tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng từ túp lều tranh này
qua túp khác, tin tức chuyền đi từ người này sang người khác, mọi
người chết lặng sợ đến lạnh xương sống. Không trách nhiệm nào được qui
trách cho lãnh đạo, có khi họ cũng không được báo cáo về chuyện đã xảy
ra, nhưng sự đổ tội đã bắt đầu gán cho tại-vì-sự-quá-cuồng-nhiệt của
một số thuộc cấp muốn tranh đua lập công nên đã vượt quá xa mức mong
muốn của các ông chủ. Bất cứ thể nào, dù là những tin đồn không có cơ
sở, nhưng cũng không phải là dở khi cho rằng những chuyện như thế là
có khả năng đã xảy ra. Bất cứ chính quyền nào trên thế giới, vào bất
cứ thời điểm nào, dưới bất kỳ chế độ nào đều nuôi
dưỡng
một sự căm thù tàn bạo đối với những kẻ thù muốn tiêu diệt
mình, và từ đó dai dẳng truy kích kẻ thù dưới đủ loại hình thức có thể
tưởng tượng được. Khi mà những chuyện khủng bố, giết người không thể
mãi giấu
giếm và bao trùm trong bí mật, vì thế chúng cũng không thể
tránh khỏi bị nhân dân khám phá, chúng bèn đổ
đùn lên nạn nhân toàn những tội lỗi đầy ô nhục, và đưa một số
người ra trước những phiên toà hèn hạ và đang run bắn, để tự trấn áp
những tiếng vọng của lương tâm và cố gắng đánh lừa, nhưng không thành
công, sự sáng suốt của nhân dân.
Với những chuyến đi đày, từ quyết định của nhà cầm quyền, đều là là
những chuyến có đi mà không có về, tôi
sẵn
sàng.
2. Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về
Điểm đặc trưng dễ phân biệt của chính quyền Việt Nam là họ không bao
giờ cho người trong cuộc thanh trừng biết những biện pháp dành cho họ.
Họ có nhiều cách để thực hiện ý muốn của mình. Mặt Trận không còn mời
tôi dự những phiên họp của họ. Đại Học lấy lại chiếc xe đạp công vụ mà
họ đã cấp cho tôi để đi đến lớp giảng. Các Toà Án gửi trả lại cho tôi
những lá thư uỷ nhiệm luật sư. Tôi hiểu là tôi đã bị loại khỏi mọi
chức việc, đã trở thành một thứ cùi hủi, một người hạ đẳng, một kẻ bị
mất phép thông công! Vì thế, tôi đành phải tìm quên trong triết học để
trám đầy những giờ khắc bị buộc phải nhàn cư rỗi rãnh, để tránh phải
trùm kín đầu, đeo cái chuông lúc lắc kêu vang báo cho người trên đường
phải tránh không đụng tôi.
Tôi bắt đầu suy niệm bằng một câu khá nổi tiếng “mens
agitate molem”: Tinh thần làm chuyển động vật chất. Khi còn
trẻ, tôi nghĩ ngược lại và cho rằng thành ngữ ấy là do một anh trí
thức hoặc quá cuồng nhiệt kiêu căng tự đại cho rằng mình là trên hết
mọi sự dù rằng hắn chẳng phải như thế, hoặc là hắn đang trải qua một
cuộc khủng hoảng mất niềm tin và đang cố vượt qua một tự ti mặc cảm
đang lớn dậy trong bản thân. Tư tưởng hay trí tuệ, vì bản chất là phi
vật chất thì không thể tác động trực tiếp lên quần chúng vì quần chúng
là một dạng vật chất với một sức mạnh toàn diện và nó chỉ có thể là
đối tượng bị tác động và chịu ảnh hưởng từ một khối quần chúng khác.
Trong mọi xung đột giữa tư tưởng và vật chất, sự đối kháng của bên này
đối với bên kia sẽ được giải quyết bằng sự chiến thắng của vật chất.
Chính trong nghĩa này mà chủ nghĩa
Marxist xác tín rằng quần chúng nhờ sức mạnh vật chất của mình
là người làm nên lịch sử. Nhưng quần chúng không làm nên lịch sử nếu
chỉ biết xử dụng những phương tiện bạo lực của vật chất. Trong chuyện
tàn phá, hay ngay cả trong xây dựng, quần chúng luôn phải nhờ đến
những khả năng của trí tuệ để hướng dẫn mình cho cả hai lúc: hủy diệt
và xây dựng. Từ đó tư tưởng xen vào ảnh hưởng lên sự vận động của quần
chúng. Chỉ có lúc đó, tư tưởng mới thật sự làm chuyển động quần chúng.
Nhưng tư tưởng chỉ có thể làm
chuyển
động quần chúng khi nó tiến hành những động thái xuất phát từ những
cái nhìn sâu sắc về thực tiễn để rút tỉa, suy diễn ra cái
logic của quần chúng. Tốt hơn nữa, khi quần chúng được giáo dục
tốt, tư tưởng sẽ tiếp tục nhiệm vụ của mình mà
giữ vững hướng đi đúng. Vì thế người ta thấy có những những kẻ
gây kích đông và những chính trị viên tiến hành đấu tranh chống lại sự
thất học chính trị, gia tăng cố gắng theo dõi những sai lệch đề nhằm
đưa quần chúng trở về con đường tư tưởng chính thống thẳng tắp. Và
người ta có thể thấy một cảnh tượng vĩ đại trong đó quần chúng đang
bày tỏ niềm tin trước một thứ đạo giáo mang tên chủ nghĩa Cộng Sản,
tạo nên một khối đồng nhất sau lưng Đảng, hoàn toàn tin tưởng vào
những gì Đảng khẳng định, vào chính sách và đường lối của Đảng. Chưa
bao giờ người ta thấy tư tưởng lại đạt được một chiến thắng trên vật
chất như thế. Sự cuồng tín của quần chúng đã đạt được một mức hiểm ác,
dù trên thực tế có những vụ việc thảm khốc đã xảy ra là những chứng cớ
về mức độ trầm trọng của những sai lầm đã phạm, kinh tế bị xuống cấp,
sự nghèo khó của nhân dân đã gia tăng, phần lớn nhân dân, kể cả những
người cộng sản chân chính nhất, vẫn tiếp tục tin vào lời hứa của Đảng
là sẽ phục hồi đất nước và sẽ nhanh chóng đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội mà thế giới không còn ai tin và chính ngay những nước
cộng sản trước đây cũng đã dứt bỏ. Và đây là cái nguy bị rơi xuống
vách đá của những người đang đứng bên bờ vực. Từ đó, vấn đề nêu ra là
chuyện nhồi sọ chính trị cho quần chúng biến họ thành cận thị hay làm
cho trí thông minh của họ trở nên mù mụ, là biểu hiện của thứ con
người lành mạnh hay không lành mạnh.
Cái gì đã sản sinh ra những vụ kinh hoàng và đầy tai tiếng, những điều
quái gỡ bệnh hoạn của một tư tưởng chính trị? Đó là sự biến dạng của
con người, của một thứ thói quen trí não chỉ biết thấy một phần của
thực tiễn, thui chột trong khả năng đánh giá phán đoán, tinh thần phê
phán bị bóp chết, và những sinh hoạt tâm linh bị giới hạn với sự phê
chuẩn vô điều kiện của lãnh đạo và dưới sự kết án không thương tiếc
của những kẻ gièm pha, và hoàn toàn bất chấp công lý và nhân đạo?
Kinh nghiệm xã hội và lịch sử đã cho thấy chừng nào tư tưởng trở nên
điên loạn, dù bắt nguồn từ chính trị, chủng tộc hay tôn giáo áp đặt
trên quần chúng, thì ngay tức khắc chuyện thả lỏng cho những hành động
dã man sẽ đưa nhân loại trở về thời quá khứ nhục nhã đầy máu và chết
chóc.
Chính những người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật
của Jesus mà đã đóng đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những
kẻ đứng đầu trong Nhà Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ
không tín ngưỡng hay kẻ có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những
người này trên giàn hoả. Tự do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn
nhất của thế giới hiện đại. Nó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ
của văn minh. |
|
Cái giáo lý cơ bản mà chúng ta phải không bao giờ quên và nó phải bao
trùm lên tất cả những nhận thức về cuộc sống là mỗi người phải tự nhắc
mình là tất cả những cá nhân con người ai cũng có phần sự thật của
riêng mình, chúng ta phải biết
tôn trọng sự thực của người khác, và pháp luật, công lý, đạo đức, loài
người không bao giờ cho phép một ông hay bà được quyền áp đặt
cái
sự thật của mình lên người
khác. Chính những người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật
của Jesus mà đã đóng đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những
kẻ đứng đầu trong Nhà Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ
không tín ngưỡng hay kẻ có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những
người này trên giàn hoả. Tự do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn
nhất của thế giới hiện đại. Nó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ
của văn minh.
Khi một người nắm giữ một sự thật và tin tưởng đó là điều hay tốt, vì
nhiều động cơ khác nhau, có người muốn thông đạt nó, truyền bá nó đến
người khác. Không có gì cấm một người muốn truyền bá sự thật của mình
đến nhiều người khác.
Nhưng những gì phải bị cấm tuyệt đối là dùng sức mạnh, bạo lực, hành
động hung ác khủng bố để ngăn cấm niềm tin của những người khác. Vì
lẽ, nhà cầm quyền cộng sản đã phạm một lỗi lầm không cứu vãn được là
đã gắn nhãn tên cho những khác biệt về quan điểm bằng những tội lỗi
không thể tha thứ được để mà trừng phạt họ một cách nặng nề. Rốt cuộc,
vì lo lắng cho an nguy của mình, không ai muốn mở mồm bảo cho lãnh đạo
biết những hậu quả xấu gây ra bởi thái độ của chính lãnh đạo. Nhà
nước, thiếu vắng sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng như con
tàu đâm vào vùng san hô và chìm đi trước sự thờ ơ toàn diện.
Ngoại trừ khi, với sức mạnh của mình, nhân dân vùng lên lật đổ độc tài
và thay vào đó một chế độ dân chủ đa nguyên, thì cái lợi ích lớn nhất
là cho phép tự do ngôn luận; dù có nhiều khác biệt, bất đồng nhưng ý
kiến được tự do phát biểu trong lợi ích chung của mọi người. Giữa nhà
nước và nhân dân sẽ không còn cái-không-thể-sống-chung nào nữa. Một
đảng phải loại trừ đảng kia.
Vì thế, tôi biết là tôi đang phải chịu nhiều rủi ro. Nhưng hình phạt
trực tiếp và tức khắc dường như chậm đến: có thể cái vòng khoá để còng
tay tôi chưa được chế tạo. Chuyện phải tiêu diệt tôi đã được quyết
định nhưng việc tiến hành nó phải được tổ chức tinh vi hơn. Bất cứ như
thế nào, tôi vẫn lo trám đầy cái khoản thời gian chờ đợi bằng cách
chào biệt cái cách sống mà mai đây sẽ bị chôn biệt vào quá khứ.
Sau đó tôi đã qua những ngày và cả những đêm chong mắt nhoà đi với
những cay đắng và thường là nước mắt, lang thang trong cái thế giới
nhỏ bé mà tôi đang sống, ngày đêm đắm mình trong nỗi buồn và cái
trời-ơi-đừng-bao-giờ-xảy-ra-cho tôi. Và đây là những đồ đạc bàn ghế mà
tôi thừa hưởng của cha mẹ tổ tiên: những cái bàn bằng đá cẩm thạch,
những chiếc ghế bành bằng gỗ khối, những chiếc ghế ngồi, những chiếc
bàn ngủ, những chiếc
sofa, tất cả toàn bằng gỗ quí và chạm
trổ tinh xảo bởi bàn tay vàng của một lớp người thợ thủ công
nay không còn nữa. Thời gian đã làm những lớp gỗ lên nước bóng loáng.
Đây là bàn thờ tổ tiên sơn son thếp vàng, bát nhang đầy tro tàn và
chân nhang cắm đầy với đốm nhang đang thắp đỏ, bình hoa bằng sứ
Tàu được để những chậu hoa lan vào mùa đông và những chậu hoa
sen vào mùa hạ, hai chiếc tủ
kiếng treo trên tường với những con rồng đang uốn lượn trên
cánh cửa chứa những đồ cổ và bộ ấm trà. Tất cả những vật bất động kia
chứa bao nhiêu là hơi thở của cha mẹ tổ tiên ông bà, trải qua bao
nhiêu năm tháng dài để lên nước bóng loáng.
Tôi hay thích đứng hàng giờ trước cái tủ sách có bộ sách
Guillaume của những tác giả người Hy Lạp và La Tinh đặt phía
trên dãy sách của những tác giả người Pháp của bộ
Pléiades. Tôi không hề thấy mệt khi đứng vuốt ve những cái bìa
sách bằng da nâu của những cuốn sách mà tôi có dịp mua ở những tiệm
sách cũ ở Paris hay từ những kẻ bán sách đã qua tay bày bán dọc sông
Seine. Trên kệ sách dành cho những tác giả thời cận đại đang mang niềm
hãnh diện của những tác phẩm của
Valéry,
Claudel,
Gide,
Montherlant,
Mauriac,
Maurois,
Maurand,
Giraudoux…Trên kệ chót, tôi để cái máy thâu băng hiệu Columbia
và hàng trăm cuộn băng mà tôi mang
về từ Pháp và nghe chúng mỗi buổi tối, thay nhạc tuỳ theo tâm
trạng mình lúc ấy, một vài bản của
Mozart nếu gặp lúc đang vui, bản
Pavane In a
Dead Infant của
Ravel khi gặp lúc ưu tư sầu muộn, bản
Dance Macabre của St-Saens
nếu gặp lúc đang gặp những chuyện đời làm tôi kinh hãi, nhưng
đặc biệt là bản giao hưởng số 5 của
Beethoven đưa tôi vào những trầm tư mặc tưởng và bản
Passionata gặp lúc hừng chí và muốn sáng tạo.
Tôi giết phần lớn thì giờ trong cái “thư viện” của tôi nơi mà mùi thơm
đầy kích thích của quá khứ làm tôi vui thích và say đắm. Tôi không
phải là
người chỉ biết tán dương quá khứ, tôi cũng biết nhận diện và
quý trọng những điều tuyệt vời của hiện tại. Trong lịch sử, trong mỗi
thời kỳ, nhận loại đều qua những lúc vinh quang và lúc nô lệ khốn khổ.
Sự nô lệ đượm trùm những tội ác mà nhân loại không phải là kẻ trực
tiếp chịu trách nhiệm, nhưng nó đã làm hoen ố một vài giai đoạn hiện
hữu của nó. Những vinh quang xảy ra cùng với những tiến bộ mang
lại những điều tốt và hạnh phúc cho các dân tộc. Thời gian là yếu tố
sàng lọc của lịch sử: sự nô lệ sẽ được chôn sâu trong sự lãng quên,
ngoại trừ những tội ác kinh hoàng làm nổi loạn lương tâm, và chỉ có
những vinh quang huy hoàng kia sẽ mãi mãi chói sáng qua thời gian và
là nguồn động viên cho những tâm hồn biết suy nghĩ. Hiện tại mang
những cảm xúc lộn xộn: con người có đủ thời gian để ngạc nhiên thán
phục với những tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy con người tiến rất xa về
phía trước của tương lai, họ phải khóc vì điên giận khi đối diện với
những hành động của một vài tầng lớp chính quyền đã và đang giết những
kẻ phản lại hay chống đối họ, những tầng lớp người mà hành động đã đưa
con người về những thời kỳ man rợ xa xưa đầy xấu hổ. Cái hiện tại mà
tôi đang sống và cái tương lai đang chờ tôi, vì thế, đẩy tôi trốn chạy
về với quá khứ huy hoàng của con người, thoả mãn những khát khao hạnh
phúc qua những gì mà những con người tuyệt vời nhất đã làm ra để tránh
cho tôi những thống khổ hôm nay và ngày mai bởi những kẻ tệ hại nhất
trong những người lãnh đạo. Nhưng trong hoàn cảnh mà tôi đang chào
biệt những vật bất động nhưng chất chứa bao nhiêu tâm trí của tôi kia,
tôi cảm thấy mình bị tràn ngập bởi nỗi buồn là không biết bao giờ có
thể gặp lại chúng.
Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy tưởng của quỷ dữ mới có
thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa một thủ đô của
một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa những
kẻ thừa
mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để
quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm
chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải
chịu dù vợ con hắn là những người vô tội. |
|
Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt
tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng
tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù
nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau
quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra
trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc
hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề. Giống
người lữ hành bị bỏ rơi trong sa mạc mênh mông, không thức ăn nước
uống, không một chỗ trốn cái nắng thiêu đốt ban ngày, không một mãnh
chăn chống cái lạnh cóng người ban đêm, tôi phải lê những bước chân
cho đến khi tấm thân khô nước, cạn máu như một bộ xương biết đi kiệt
sức bởi đói, khát, dưới cái nóng thiêu đốt của mặt trời, cái lạnh tê
người về đêm, tôi sẽ té ngã trên một đồi cát nào đó và buông hơi thở
cuối cùng. Bao nhiêu đau khổ đó, tất cả đều dấu mặt sau tấm mặt nạ của
Thần Chết, đang bao quanh tôi, nhảy múa nhạo báng, đang chuyển mình
trong một điệu múa ghê rợn chung quanh và trong chính tôi, hành hạ tôi
bằng những trận cười châm biếm
mỉa mai, những cú đòn giáng xuống để cho cái mong muốn được
chuộc lại cái lỗi lầm là đã dám suy nghĩ khác với Đảng trở thành cái
đau đớn tột cùng trước khi Thần Chết đến ca khúc khải hoàn trên đống
xương trắng của tôi trong sa mạc. Chỉ có những kẻ đao phủ với những
suy tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở
giữa một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi,
giữa những kẻ thừa
mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để
quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm
chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải
chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.
Và Đảng phủi tay dễ dàng. Họ
hợp lý vấn đề một cách thâm hiểm. “Tôi có một nhân viên, nay tôi không
thích nó, tôi cho nó nghĩ việc. Có gì không đúng?” Có một câu trả lời
từ hắn: “Đây không phải đơn giản là một chuyện cho nghĩ việc, khi có
một hệ thống cửa hàng nhà nước và tem phiếu, một người bị đuổi việc
thì không thể mua gạo bất cứ ở đâu, cho hắn và cho gia đình, khi mà
hắn không có tiền và tem phiếu chỉ dành cho công nhân viên nhà nước!
Hơn nữa, các ông đã căn cứ trên điều Luật Hình Sự nào để trừng phạt
một tội bất đồng ý kiến và được Thế Giới công nhận về nhân quyền? Các
ông có biết được cái đặc biệt nghiêm trọng của cái án phạt mà các ông
tuyên phán trong nhà nước công sản của mấy ông khi các ông lẫn lộn
giữa hành chánh và luật pháp? Các ông đã kết tôi phải chết, một cái
chết chậm và lâu cho cả một gia đình chỉ vì các ông bị mất vui? Một
chuyện giả dối như thế có xứng đáng là một Nhà Nước tự cho mình là văn
minh không? Nhưng con cừu thì không thể lý luận với một con sói.
Con sói có thể hùng hồn tuyên bố là nó đã tử tế cho phép con cừu được
tự do hạnh phúc, nhưng rốt cuộc nó cũng không thể thuyết phục những
con cừu với những lý lẽ để biện minh cho tội lỗi của mình, cũng chẳng
chứng minh được gì ngoại trừ sự tàn ác và dối trá của nó. Những văn kiện linh thiêng
nhất, những lời hứa trang trọng nhất luôn ẩn chứa những ảo tưởng cũng
chỉ với mục đích gìn giữ cái dáng vẻ bề ngoài trong khi sự thực là
đang chà đạp lên thực tế. Chủ nghĩa hình thức chỉ là một trò ảo thuật,
nhưng là một trò ảo thuật tệ hại xấu xa nhất vì nó không nhằm làm vui
mọi người nhưng nhằm cắt cổ họ.
Trong suốt một thời, nhân dân đã bị kinh hoàng vì tội ác của chế độ
phong kiến, họ luôn luôn mơ ước một nền công lý, mong có kẻ công minh
phân biệt thiện ác như Bao Công để bảo vệ những người dân chân chất
chống lại những kẻ bạo quyền. Nhưng niềm mơ ước sâu thẳm nhất của
người dân chưa bao giờ thành sự thật. Những kẻ to đầu vẫn cứ tiếp tục
áp bức, khủng bố, bắt nạt người yếu kém vô tội. Khi mà Nhà Nước không
còn bảo đảm công lý, niềm tin vào chính nghĩa cũng mất đi, những người
mờ mắt vì ích kỷ tham lam, hư hỏng vì mê muội và chẳng cần “lo cho mọi
người” và chẳng cần lo cho có sự công bằng thì dân chúng quay ra cầu
xin sự can thiệp của những quyền lực siêu nhiên, tin vào chuyện nhân
quả “ác giả, ác báo”, gây gió sẽ gặp bảo, gây ác sẽ gặp chuyện ác.
Nếu theo chế độ dân chủ đại
nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại
diện và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định
để ngăn chận sự quá đà của
giới cầm quyền và những
lạm dụng của họ, trái lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực
độc tài, độc đoán sẽ khiến cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ
áp dụng nó để bảo vệ quyền lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức
quần chúng và những cơ quan luật pháp sao cho những nơi này biến thành
những người đầy tớ trung thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy
mất hết cả quyền lực của mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong
tay giới chức quyền, chỉ còn biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình. |
|
Những con người tích cực thì không muốn chờ công lý của toà án “Quả
Báo” vì nó đến quá chậm, quá lâu. Họ muốn thay một nền công lý chậm
chạp và chưa bao giờ được hiện hữu một cách vững bền bằng một chế độ
hoàn toàn gồm những nguyên tắc và tổ chức nhằm mang lại những gì mà
nhân dân khát vọng. Luật Pháp là đoá hoa tinh khiết nhất của văn minh,
toà án áp dụng luật và phổ biến Công Lý, như bản Tuyên Bố Quốc Tế Về
Nhân Quyền đã mở đầu cho kỷ nguyên Dân Chủ, là những thành quả quý báu
của nhân loại. Bất hạnh thay, bộ máy tuyệt vời đó chỉ chứng tỏ một thứ
chủ nghĩa duy tâm, một bộ óc khéo léo ranh ma vận hành một cách chu
đáo khi quyền lực đưa ra để thực hiện những ý định mong muốn. Nếu theo chế độ dân chủ đại
nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại
diện và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định
để ngăn chận sự quá đà của
giới cầm quyền và những
lạm dụng của họ, trái lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực
độc tài, độc đoán sẽ khiến cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ
áp dụng nó để bảo vệ quyền lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức
quần chúng và những cơ quan luật pháp sao cho những nơi này biến thành
những người đầy tớ trung thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy
mất hết cả quyền lực của mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong
tay giới chức quyền, chỉ còn biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình.
Trong khi chờ những ngày phúc phần, ngày mà nền công lý được vận hành
hết công xuất, sự tàn ác phải chịu trừng phạt, ngày mà quần chúng quá
kinh tởm với những bất công của giới lãnh đạo, mất kiên nhẫn và nỗi
lên làm nên Lịch Sử, nhân dân dưới chế độ cộng sản đối mặt với những
kẻ độc quyền có con tim đóng kín, câm lặng sau cửa Thiên Đường không
còn nghe đến lời cầu xin và ước vọng của con người, chẳng còn một giải
pháp nào khác hơn là thu mình trong cam chịu và tuyệt vọng.
Chính trong một tâm trạng như thế mà tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến
đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài
đăng đẳng. Chìm trong vùng cát sa mạc của tuyệt vọng làm cạn khô
dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô
đơn, với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của
mật. Không một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần
gian mà tôi đang bị quét đi trong nỗi cô đơn, nhưng tôi cố gắng tự cứu
mình, vượt qua cảnh địa ngục tối tăm, những cơn sóng dữ, để một ngày
nào đó có thể kêu lên chuyện đoạ dày của tôi.
3. Cái đói bi thảm
Lãnh đạo thật phúc đức. Họ đã tránh cho tôi phải chịu một chế độ tù
giam mà ở đó tôi có khi thành đứa hầu lo quét dọn cho các đại ca đầu
gấu, cho những tay trùm phòng giam, thành nạn nhân bị bóc lột bởi bọn
cai tù, bởi bọn du côn tham lam tàn bạo tước đoạt đi chút lương thực
dự trữ và phải chịu những hành hạ tàn khốc của chúng. Tôi cũng không
bị đưa vào những trại cải tạo nơi mà từng hàng tù nhân phải thi hành
những công việc lao động đất đai dưới sự điều khiển của những ông quản
giáo. Tôi được tha khỏi bị những ngày tháng dài, rất dài trong trong
tù, có khi đền tận ngày lìa đời, giữa những chấn song của một căn
phòng chật hẹp của công an ở một nơi nào đó mà không ai biết là ở đâu,
bao trùm bởi một màn đen bí mật và huyền bí, hay bị nhốt kín ngày đêm
không thấy ánh sáng mặt trời, không hít thở được không khí bên ngoài
dù chỉ một phút giây, hình phạt buộc phạm nhân không được chút sinh
hoạt nào trong một đêm dài vô tận ngập tràn trong tiếng inh ỏi khua
vang của
soong chảo và nồi đồng mà những cánh tay lực lưỡng của mấy tên
cai ngục thay phiên mà đập để tra tấn cho đến khi nạn nhân biến thành
kẻ khùng điên. Và, trong khi đầu óc và đôi tai bị tra tấn vì những
tiếng khua đập vào thành của kim loại như muốn xuyên thủng các màn
nhĩ, thì bao tử của người tù phải chịu những cơn đau thắt vì bị viêm
do những thức ăn hư thối cho tù nhân ăn. Những kẻ bợ đỡ cộng sản kêu
gào là những người cộng sản đã phải chịu tra tấn trong những “chuồng
cọp” ở nhà tù Côn Đảo và ra
sức lên tiếng tố cáo những việc làm vô nhân đạo của thực dân.
Người ta có thể tự hỏi thế thì ở mức độ hùng biện và nhiệt thành nào
họ sẽ lên tiếng khi họ biết những gì đang xảy ra trong chế đô cải tạo
để bành trướng chủ nghĩa công sản hiện nay?
Phúc đức thay cho những lãnh đạo nào đã tha cho tôi khỏi phải chịu
những khổ đau như thế. Những kẻ đã trừng phạt tôi, cho dù là do chính
ý muốn của họ, hay vô tình không hay biết vẫn là những kẻ muôn phần
hiền lành so với những con người kia, những con người còn hơn quỷ dữ.
Nhân dân sẽ phán xét.
Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.
Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên
chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại,
mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp.
Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự
trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm. Trước
tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người
tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và
tối. Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày
chúng tôi chỉ có một bát cháo đề ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông
thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.
Họ tự hỏi tại làm sao mà các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon
thả?
Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ
cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết
đói. Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống,
nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng
vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên
cho chúng tôi khó khăn kiếm sống? Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ
qua con đường buôn lậu mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải
bán là cái máy may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang
ra chợ bán. Nếu bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê mua rau cải lên
bán ở nhưng nơi đông người qua lại. Nhưng tất cả những dự tính dễ
thương nhỏ nhoi đó
đều không thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì
không thể làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.
Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số,
trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong
Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở
trường Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ
Pháp. Nhưng sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân
giáo viên ở một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có
một chỗ ở Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy.
Hai thí sinh được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái
tôi được hội đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận,
vì cha của cô ta là một đảng viên. Trong khi chờ kiếm việc, con gái
tôi phải đạp xe đi về mỗi bận 20 cây số để đi học nghề làm gốm trong
một hợp tác xã ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng đến lúc học xong, thay vì được
hưởng một tí tiền bồi dưỡng người ta lại
buộc nó phải trả tiền học phí. Nó muốn đóng góp được một chút
gì cho ngân sách gia đình nhưng vô vọng vì không thể làm được gì.
Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một
đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi
báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản
không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của
những ông thầy tận tụy. Phải làm gì đây? Tôi không thể ra đạp
cyclo nhưng một số đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì
chuyện “thiên hạ nói gì” mà chỉ vì tôi đã không còn ở tuổi để làm
chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công
còm cõi của một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức
với cái thân thể đã tiều tụy lắm rồi. Khi không có nghề gì là đáng
khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên vệ đường như những sĩ quan cao
cấp già của bộ đội về hưu đang làm. Những kiến thức về văn chương và
ngôn ngữ trờ nên vô dụng trước những chiếc xe đạp hư cần sữa chữa như
một quan hoạn đứng trước người đàn bà không mãnh vải che thân.
Trong thời gian đầu khó khăn, người bõ già vào làm việc ở nhà tôi từ
những năm kháng chiến, hơn mười năm về trước, thông hiểu tình trạng
tài chánh kiệt quệ không cứu vãn của tôi, xin phép nghĩ việc về quê.
Chúng tôi đã xem bà như một thành viên của gia đình, và chưa bao giờ
nghĩ đến việc cho bà ra đi, đã quyết tâm chia sẽ ngọt bùi sướng khổ
với bà. Nhưng chính bà lại khéo léo đề nghị chia tay, chúng tôi không
còn cách nào hơn là đồng ý. Cuộc chia tay thật cảm động, không bên nào
kềm được dòng nước mắt.
Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu
nó điên cuồng. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho
nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong
chuồng,
ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của
loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi
buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc
khi nó nấc những hơi thở cuối cùng. Trong số gia súc chúng tôi chỉ còn
con gà mái mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên. Chúng tôi không thể giết
thịt vì nó đã đáp lời kêu cứu của chúng tôi và ngày nào cũng đẻ cho
một trứng. Không như trứng vịt, có thể luộc dầm nước mắm để chấm rau
cải luộc, trứng gà chỉ dành cho một người, thay phiên nhau mỗi ngày
một người ăn. Đó là thức ăn dinh dưỡng duy nhất mà chúng tôi còn có.
Tới lúc chúng tôi không còn gì để nuôi con gà, bắp cũng không, lúa
cũng không, mỗi ngày vào lúc hoàng hôn khi mà chợ đã vắng người mua
bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mãnh rau vụn, tránh không để kẻ
qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó.
Sống dưới một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con
gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tụy
ốm tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền
não, chỉ dám dấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên
giường ngủ. Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa
hơn một lần, phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ
mình yêu thương phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng.
Tôi nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm
ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn
mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dồi trá không thể kéo dài và thuyết phục
được ai, nhưng trước cái chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành
phải chia chén cơm để khỏi phí.
Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương
phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi
nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy
thèm ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với
một người bạn mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dồi trá không thể
kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái chối từ cứng
đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi phí.
Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. |
|
Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không
còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như cơn nước tràn đê bao
trùm lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm
tưởng như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn
của ý thức bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình
đứng dậy làm một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm
xuống trên chỗ nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn
biến mất. Cùng lúc đó, cái bao tử co thắt từng chặp làm cho tôi vô
cùng đau đớn. Cơn đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu
đựng vừa nghĩ ngơi trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô
thức, bất tỉnh không còn biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi
cũng thoát được cơn đói đau thắt với cái lưng đau và một tâm hồn đầy
vết thâm tím. Tôi vừa xong bài học nhập môn về sự đói.
Trong hoàn cảnh như thế, cuộc đời tiếp tục trôi như một vòng quay tự
động, cứ quay và quay đều trên một dây chuyền sản xuất, quay vô tận,
trong khoảng không. Một vòng quay thay vì như thông thường là
một sự kết nối cân đối, một sự ăn khớp nhuần nhuyễn của ba trục
máy để hướng đến một mục tiêu đầy sinh động: chuyển động nhờ chân tay,
suy nghĩ của bộ óc và rung động của con tim để cảm xúc và yêu thương.
Giờ đây thì không còn bất cứ thứ mục tiêu gì, mọi thứ đều biến mất:
ngọn lửa hy vọng, giận dỗi, hận thù, cay đắng cũng chết đi, những suy
nghĩ cuồng nộ như trong cơn giông bảo, như điệu vũ điên cuồng ghê gớm
rồi yếu dần, kéo lê, bung ra rồi biến mất như những bóng ma tan biến
trước ánh sáng ban ngày. Thân phận con người bị vỡ nát trôi lạc loài
vô định, như một chiếc bè trên biển cả mênh mông, phó mặc cho sóng
cao, bảo tố. Nó không còn là người sống, chỉ để cuộc sống trôi đi, cứ
để cái u mê nó bao trùm từ đầu đến chân, như cây độc cần, chẳng cần
một cú
hích làm giật mình, mà cũng chẳng cần nó phản ứng cục cựa. Một
sự chán ngắt mênh mông, mệt
mỏi và yếu sức tràn ngập đến tận từng tế bào của cơ thể, tận
từng sợi dây của linh hồn, báo hiệu cho một cái chết đang tới gần trên
những bước đi không nghe tiếng.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|