Bùi
Giáng, thi sĩ kỳ dị |
Trần Đình Thu |
Một
tâm hồn mênh mang ảo điệu
Không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết sách khảo luận triết học,
Bùi Giáng còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về
thơ. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo
diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi
huyền bí nhất của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi sĩ. Chúng
tôi xin giới thiệu một bài trong số đó, đây là bài Bùi Giáng viết về
Tuệ Sỹ, trích trong tập Đi vào
cõi thơ.
Tuệ
Sỹ là một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông
về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ,
không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông
bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị
với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi
đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm
bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có
vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ
"Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi
mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên
đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du
thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn
Mới
nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả
cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn
thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa
tan
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi
ngàn
Tôi
hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp
nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá
lớn.
Ông
đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin
xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường
của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Khung trời hội cũ.
Một
hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ
dại ?".
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở
lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy
đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ
xao xuyến, một tuổi vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của
hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không
cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều "phải
nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi
chuyện nói".
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường
đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ
như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người.
Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe
hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng giống lối
vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc
hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng
họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ
phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta
tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua
Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du:
"Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm
trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế
?".
Ông
vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường
thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man
như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua
đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như
thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang
thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi
mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Đôi
mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá
long lanh ?
Thi
sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm
cho thơ.
Tha
hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt
trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai
nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một
khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi
chăng ?
"Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo
nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi
nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm
đuối ?
Tôi
nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ
ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng
cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép
riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi
mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du
thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm
kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm
thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi
kể chuyện trăng tàn ?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh
hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy
sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng
núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa
tan
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng
Mối
tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa
tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa
tan
Ta
tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một
Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thi
nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề
rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân
trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển.
Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất
cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình
sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng
Một
tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta
thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường:
Sen
tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một
tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm
từ giã mọi yêu thương ?
Giờ
ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài
thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình
trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ
một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung
Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Xem tiếp :
Gặp Bùi Giáng tháng 5/1975
|