Bùi
Giáng, thi sĩ kỳ dị |
Trần Đình Thu |
Gặp
Bùi Giáng ở Paris
Trong bài thơ Vùng (Zone) nổi tiếng, G.Apollinaire, có lẽ nhìn từ
tháp Eiffel đã thấy những cây cầu bắc qua sông Seine như một bầy cừu
"kêu be be sáng nay". Nếu thay vì bầy cừu là bầy dê, thay nàng chăn
cừu là chàng chăn dê, lại thấy thấp thoáng hình bóng một Bùi Giáng
nơi thượng nguồn con sông Thu Bồn đang chăn những đám mây trên mặt
nước sông vào buổi sáng mùa thu nào đó.
Là
người dịch rất nhiều tác phẩm trứ danh của văn học Pháp, nhưng hình
như Bùi Giáng chưa có dịp đi Paris. Vậy mà tôi đã... gặp ông ở ngay
kinh đô Ánh sáng này. Cuối năm 2003, tôi sang Paris dự Festival Thơ
quốc tế, và khi có dịp ghé quán Foyer Viet Nam ở số 80 phố Monge
quận 5 (khu Latin), người tôi gặp đầu tiên ở đây là... Bùi Giáng!
Đúng hơn, là tôi đã gặp một bức chân dung Bùi Giáng vẽ bằng bút sắt.
Nét vẽ rất có thần. Lại đôi mắt sáng quắc nhìn tận đâu đâu. Lại vẻ
mặt hồn hậu của một lão nông xứ Quảng Nam đang mơ màng như nhớ lại
câu thơ tuyệt vời của Apollinaire:
Bergere ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce martin (Ôi
tháp Eiffel nàng chăn cừu bầy cầu be be sáng nay - bản dịch của
Hoàng Hưng).
Tôi
hỏi nhà thơ Võ Văn Thận - người phụ trách Foyer VN - và được biết
bức chân dung Bùi Giáng là của họa sĩ Trần Văn Liêm-một người rất
hâm mộ Bùi tiên sinh ở Paris. Mà không chỉ họa sĩ Liêm, khi Võ Văn
Thận tặng tôi tập thơ mới của anh Bàn chân dưới đất, tôi cũng đã đọc
trong những câu thơ của người xa xứ này rất nhiều hơi hướng Bùi
Giáng. Anh Thận cũng là người hâm mộ, và có lẽ hơn cả hâm mộ, yêu
quý Bùi Giáng.
Đi
lang thang giữa những phố cổ của Paris, thỉnh thoảng tôi lại gặp
những người già chánh hiệu... Bohemiens. Họ uống rượu hoặc không
uống rượu nhưng ngồi hoặc nằm ngay vỉa hè những con phố đông người
qua lại. Trong hình dáng những người già tóc râu xõa xượi ấy, tôi
lại thấy thấp thoáng một Bùi Giáng đang cảm nhận Paris bằng tất cả
thể xác và tâm hồn mình. Chợt nhớ bản dịch tuyệt vời của Bùi tiên
sinh tác phẩm u ẩn mà run rẩy tình người của Saint-Exupery Cõi người
ta (Terre des hommes). Đúng là phải tới tay Bùi Giáng thì nguyên tác
này mới có chữ "cõi" và chữ "ta" trong bản dịch.
Giở
một quyển sổ cũ, cách đây hơn 20 năm, tôi đã chép lại một đoạn văn
xuôi trong Cõi người ta, chép để giữ cho mình như một lời biết ơn
tác giả và dịch giả: "Punta
Arenas! Tôi tựa lưng vào bờ giếng. Những đàn bà già nua tới đây lấy
nước. Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một
cử động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ.
Ngày mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một
đứa bé lạc loài, sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đây. Tôi
không biết, không biết gì hết cả. Thế giới họ, tôi không thể bước
vào, làm tôi dám nói. Những yêu thương, những ganh ghét, những niềm
vui của con người, cả một tấn tuồng rộng lớn đó diễn ra trong một
khung cảnh bé bỏng xiết bao. Từ đâu con người khơi dẫn được về cho
mình nguồn khát vọng vô biên. Từ đâu? Con người vốn bị phó mặc cho
rủi may, bị vất ra sống trên một miền đất mà phún thạch hỏa sơn còn
hâm hấp nóng, mà những trận bão cát sắp tới, mà những cơn mưa tuyết
sắp về, còn hăm dọa mãi! Nền văn minh của họ chỉ là một lớp vàng mạ
mỏng manh. Hỏa sơn sẽ xóa, sẽ bôi. Một biển mới sẽ dâng triều. Một
cơn lốc cát".
Tác
phẩm văn học nước ngoài, khi qua một dịch giả đồng điệu sẽ hiện ra
bằng Việt ngữ như vậy đó! Một bài thơ văn xuôi đích thực, đầy xúc
cảm và nhuyễn như thể nó được viết bằng tiếng... Việt.
Tôi
biết, nhiều người kêu Bùi Giáng ở một số bản dịch khác, rằng ông
dịch tùy hứng và cả... tùy tiện quá! Nhưng chúng ta thử đọc Cõi
người ta hay Hoàng tử bé của Saint-Exupery, hãy đọc Ngộ nhận hay
Carnets của Albert Camus qua bản dịch Bùi Giáng, ta sẽ cảm nhận được
hết sự tinh tế và uyên áo của nguyên tác qua một bản dịch.
Tôi
nhớ, ngày còn chiến tranh, ở chiến trường Đông Nam Bộ, tôi đã chép
từng đoạn văn A.Camus trong Sổ tay (Carnets) qua bản dịch Bùi Giáng,
và những đoạn văn tuyệt vời ấy đã an ủi tôi rất nhiều ngay trong
những hoàn cảnh thắt ngặt của chiến tranh. Sau này, đã có những dịch
giả dịch lại những tác phẩm trên của A.Camus hay Saint-Ex, nhưng
phải nói thực, họ không vượt qua được bản dịch cũ của Bùi Giáng.
Cần
phải ghi công ông ở lĩnh vực truyền bá văn học thế giới này. Một
người chỉ tự học ngoại ngữ mà có thể trở nên uyên thâm như thế, có
thể "tung tăng" như thế trong khi dịch thuật, quả là hiếm có! Người
như thế mà chưa một lần sang Paris để mặc sức chăn cừu hay chăn dê
trên sông Seine thì thật đáng tiếc! Nhớ những ngày ở Paris hay xuống
Orleans với nhà văn Đặng Tiến, ở đâu tôi cũng cảm thấy phảng phất sự
hiện diện của Bùi Giáng trong những câu chuyện trao đổi về văn học,
trong những bài thơ hay bài viết của các bạn văn người Việt ở Pháp
mà tôi được đọc. Anh Thận còn tặng tôi một đĩa DVD về ngày giỗ Bùi
Giáng ngay tại Paris, tại quán Foyer thân thiết và ấm cúng. Những
bài thơ của Bùi tiên sinh đã được trình bày trong ngày giỗ ấy. Coi
như ông đã đến Paris và đã lang thang dọc những con phố lát đá mờ ảo
khu Latin này rồi, khu Đại học nổi tiếng của Pháp và cũng là nơi
vinh danh rất nhiều nhà thơ nhà văn Pháp mà Bùi Giáng đã có lần
chuyển dịch sang Việt ngữ. Trong dòng sông văn học khá bình thản của
ta mà có được một người "quậy tưng" như Bùi Giáng kể cũng đặc biệt
và thú vị. Nhưng rồi, ngay trong những lúc "quậy" như thế, chợt ta
chìm lắng lại với những câu thơ kiểu như thế này:
"Một hồn rũ rượi trong mưa
Nhớ ôi ngọc trắng ngày chưa cát lầm".
Như
một khúc bi ca về cội nguồn trinh thục của Thơ. Như nỗi hoài nhớ về
một thiên đàng tuổi thơ đã biền biệt. Thiên đàng ấy bên một dòng
sông và những ngọn đồi lúp xúp mọc toàn sim mua...
Xem tiếp :
Thơ là hạnh phúc
|