Bùi
Giáng, thi sĩ kỳ dị |
Trần Đình Thu |
Thơ
là hạnh phúc
Trở
lại với giai đoạn Mưa nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm
tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu xuân: Ngàn xuân
rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ xuân tiếp theo:
Mùa
xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm
tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.
(Mưa nguồn,
tr.38-39)
Mùa
xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc.
Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin
ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én:
Én
đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ
hoa
(Mưa nguồn, tr.62)
Người ta thường nói: xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như
Về Cố Quận. Xuân về với
gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm
giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy:
Mùa
xuân hẹn thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ
màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở
lại
Với dòng trong em hẹn ở bên
đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa
kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay
không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân
thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non
hồng.
(Mưa nguồn, tr.61)
Thơ
là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một ngày lễ hội, tên một bài thơ
Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời
nói, dù nói để chẳng nói gì: thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia. Câu
thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì ? Bờ nước
ấy: ấy nào ? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh
phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không
cần tự thức.
Ngõ
ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng... Bùi Giáng mách ta thế, và
có lần kể:
Xưa
kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa nguồn,
tr.143)
Nhà
thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng
ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần,
ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật
thà hơn:
Có
lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối
thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ
nhau ?
Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc
sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ:
Xin
yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn Hạnh phúc ấy là
Xuân trần gian, ăm ắp
trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh
thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên
Thơ vô tận vui cho một
tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy
nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ
đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ
buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết
Đông phương, như cá vui, bướm vui trong
Nam Hoa kinh của Trang
Tử. Nhìn dưới góc độ tư tưởng hiện sinh của phương Tây, thì ngược
lại, có thể nói đến "bi kịch".
Từ
1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký:
Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu
(Mưa nguồn, tr.57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn,
có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm
trong mạch Vũ trụ ca của Huy Cận:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại
nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo
xuân, 1942)
Mặt
khác, nó báo hiệu cho chủ đề “chết từ sơ ngộ”, và Màu hoa trên ngàn
sơ khai đã là Màu hoa cuối cùng:
Lỡ
từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối
Cùng
(Chớp biển, tr.45)
Bùi
Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa
độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên
Xuân:
Rồi
tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không
hay
Chợt có lúc hai chân dừng một
lượt
Người đi đâu ? Xưa chính ở chỗ
này
(Chỗ này, Mưa nguồn,
tr.82)
Có
một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào
đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại
với nhân gian:
Mưa
nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể
nào
(…) Người viết mãi một màu xanh
cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho
xuân…
(Bài ca Quần Đảo,
tr.22-23)
Rồi
suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hàng vạn trang sách,
người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân
dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao
giờ
(Bài ca Quần Đảo,
tr.11)
Năm
mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt
mùa xuân ? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy,
khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách
Lời Cố Quận.
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
Hai
câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa
là: tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ
Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.
Đặng Tiến
|