Bùi
Giáng, thi sĩ kỳ dị |
Trần Đình Thu |
Bài
thơ lạ lùng của anh chăn bò
Bùi
Giáng sinh ngày 17/12/1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh,
huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh của Bùi Giáng là ông Bùi
Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ
chánh qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền.
Bùi
Giáng là con thứ 2 của ông Bùi Thuyên với bà Huỳnh Thị Kiền nhưng là
con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi
theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng. Và Bùi Giáng cũng tỏ ra thích
thú với tên gọi này. Thỉnh thoảng ông cũng tự xưng cái tên thứ đó
trong những câu thơ của mình. Sau này trong một bài thơ khá hài
hước, Bùi Giáng viết:
"- Ủa,
phải anh Sáu Giáng đó không?
- Và cô có phải cô Bông năm nào?
- Anh
còn nhớ rõ, ôi chao
Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh
Anh điên mà
dzui dzẻ thập thành
Còn chúng tôi tỉnh mà đành buồn thiu".
Mặc
dù là người gặp may mắn trên đường học vấn nhưng Bùi Giáng luôn luôn
phá ngang. Bùi Giáng từng viết rằng ông không có ý định học để lấy
bằng cấp. Ông Bùi Văn Vịnh, một người em ruột cùng cha cùng mẹ khác
của Bùi Giáng cho biết, sau khi học xong bậc tiểu học ở Trường Bảo
An tại huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, Bùi Giáng được gia đình cho ra
Huế tiếp tục học ở Trường Trung học Thuận Hóa. Năm 1945, khi đang
học lớp Đệ Tứ thì thời thế thay đổi. Đại chiến thế giới thứ hai nổ
ra, Nhật hất cẳng Pháp, rồi Cách mạng Tháng Tám thành công. Nhưng
sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành Chung. Rồi Bùi Giáng lên đường đi
theo kháng chiến. Năm 1950, khi có kỳ thi tú tài đặc biệt do Liên
khu V tổ chức, Bùi Giáng dự thi và đậu Tú tài 2 văn chương, rồi lên
đường ra Liên khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học đại học. Từ
Quảng Nam thuộc Liên khu V ra tới Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV phải đi
bộ theo đường mòn trên núi hơn một tháng rưỡi trời. Nhưng khi ra đến
nơi, không hiểu sao ngay trong ngày khai giảng, Bùi Giáng đã quyết
định bỏ học để quay ngược trở về Quảng Nam.
Bỏ
học trở về nhà, ông theo chân đàn bò rong ruổi khắp các vùng đồi
núi. Sau này ông có sáng tác bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ in trong tập Mưa
nguồn để kỷ niệm cho khoảng thời gian này. Một số tài liệu cho rằng
Bùi Giáng đã có nhiều năm chăn dê nhưng thực ra ông chỉ trải qua 2
năm chăn bò, từ 1950 đến 1952 trên vùng rừng núi Trung Phước. Có lẽ
đây là quãng đời lãng mạn nhất của ông. Và ông đã gọi quãng thời
gian này là 15 năm chăn dê, như Tô Vũ ngày xưa. Nhớ lại những tháng
ngày này, ông viết: "Tôi bỏ học, chẳng biết chi sách vở. Chạy về quê
làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho
chuồn chuồn châu chấu!".
Bài
thơ Nỗi lòng Tô Vũ dài đến 60 câu, được nhiều người thích đọc. Bài
thơ với những lời thơ hết sức thiết tha, đằm thắm, ông dành cho
những nàng thơ đặc biệt của ông là những con bò, đọc lên nghe rất
thú vị. Trong bài thơ, ông xưng anh với những con bò mà ông đã biến
chúng thành dê cho giống chuyện Tô Vũ ngày xưa và gọi chúng là em:
"Chiều
hôm nay bên chó vàng chễm chện
Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi".
Ông tặng các nàng thơ của ông những chiếc vòng bằng mây
mà ông tự đan đủ màu sắc như người ta tặng kỷ vật cho người mình
yêu:
"Này em Đen chiếc vòng
vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc
hồng càng lóng lánh
Này đây em Hoa Cà hỡi! Chiếc nâu".
Mỗi nàng dê một chiếc vòng, ông tự tay đeo vào cổ các nàng và thủ
thỉ:
"Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh
thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! Đây lòng
anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên".
Tặng
xong kỷ vật cho các nàng dê rồi ông mới thề thốt:
"Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho
ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết
tha".
Lấy
dê, thực chất là bò, làm nàng thơ quả là một chuyện xưa nay chưa có
ai làm. Nhưng đáng kinh ngạc hơn nữa là ông so sánh chuyện đeo vòng
mây cho dê với việc trao vòng cầu hôn cho vị hôn thê của mình:
"Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt
lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước
thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi".
Trong lần xuất
bản đầu tiên của tập Mưa nguồn, Bùi Giáng còn ghi chú rõ ý khổ thơ
này là, ngày xưa khi ông cưới vợ, thì cái giây phút đeo chiếc vòng
đính hôn kỳ diệu ấy không làm ông xúc động bằng bây giờ đeo vòng mây
cho dê! Thật là một cảm xúc khác người. Sau này chúng ta sẽ thấy,
thứ cảm xúc này không phải do ông cố nặn ra cho thành bài thơ lạ mà
đó là những gì diễn ra thực tế trong tâm trí ông.
Nỗi
lòng Tô Vũ là một bài thơ độc đáo bởi đối tượng cảm xúc của tác giả
không phải là cảnh đẹp, là người thơ mà là những con dê. Bài thơ
không giống ai đó có những đoạn thơ đẹp lạ lùng:
"Em nhớ hay không hồn hoa dại
cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu buông hãi
sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa"...
Xem tiếp :
Chuyện ly kỳ của ông thầy giáo cuồng si nàng Kiều
|