Kinh nghiệm toàn trị tại Trung quốc
Lời mở
đầu
Bài 1:
Những giới hạn co giãn của toàn trị - Bruce Gilley.
Bài 2: Ðe
dọa quyền tối thượng của Ðảng - Bruce J. Dickson.
Bài 3:
Những vấn đề yếu ớt của nhà nước - Shaoguang Wang.
Bài 4: Sự
bất bình đẳng mới - An Chen.
Bài 5: Ổn
định như núi lửa đang sôi - Qinglian He.
Bài 6: Thức
giấc cùng Trung Quốc - Ted C. Fishman.
Bài 1
Những giới hạn co giãn của toàn trị
Bruce Gilley
Thành công mới đây của Ðảng Cộng sản Trung Quốc trong việc
chuyển giao quyền lãnh đạo có thể được thông giải như một
bằng chứng rằng chế độ toàn trị của Trung Quốc là độc đáo về
mặt lịch sử. Hơn một thập niên sau ngày Liên bang Sô Viết và
các trật tự cộng sản tại Ðông Âu sụp đổ, Đảng Cộng sản Trung
Quốc không chỉ vẫn nắm quyền mà còn làm lễ tấn phong cho một
tập hợp những người kế thừa trẻ hơn, được học hành tốt hơn
và thậm chí tự tin hơn, làm đầu lĩnh của nó. Và Ðại hội thứ
16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng Mười một năm 2002
đánh dấu lần đầu tiên có sự chuyển giao êm thắm quyền lãnh
đạo trong chế độ cộng sản mà không chút dính líu tới cái
chết hoặc sự thanh trừng vị thủ lãnh sắp thôi việc.
Các nhà lý thuyết chính trị thường hiểu một cách truyền
thống rằng các chế độ toàn trị thì yếu ớt, vô phương cứu
chữa trong tận cốt lõi của nó, vì nó hoàn toàn thiếu sự kiểm
tra về quyền lực như một sự cai trị theo luật pháp, về sự
phân chia quyền lực và về khả năng tranh thủ quần chúng.
Quan điểm cho rằng tính yếu ớt cố hữu của các chế độ đó sẽ,
một cách không thể tránh được, trở thành rõ rệt hơn khi theo
thời gian, sự cân bằng tương đối của các tài nguyên được
chuyển dịch từ nhà nước tới các lực lượng xã hội tự quản,
thông thường như là kết quả của nhiều hình thức phát triển
một khi kinh tế tăng trưởng và mở cửa ra quốc tế. Tại những
cấp độ phát triển ấy, nói chung người ta tin rằng các chế độ
toàn trị
thấy mình bị khổ sở vì cái có thể gọi là “lô-gic của quyền
lực tập trung” - nghĩa là, cái khuynh hướng ủng hộ việc
quyền lực nằm trong tay vài cá nhân hoặc bè cánh có tính cá
nhân chủ nghĩa, rồi bị họ lợi dụng chí tử với những kết quả
điển hình, trong đó gồm có sự cai trị tồi, suy giảm tính
chính thống, tham nhũng và các tiêu chuẩn yếu kém về hạnh
kiểm của giới tinh hoa cai trị (elites). [1]
Nhưng Trung Quốc - mà nhân dân của nó tiêu biểu cho khoảng
một nửa phần dân số thế giới hiện không được phép chọn các
nhà lãnh đạo bằng các cuộc bầu cử dân chủ - cho tới nay đã
và đang thách thức kiểu mẫu truyền thống đó. Một số người
thử giải thích sự kiện ấy bằng việc Đảng Cộng sản Trung Quốc
tái củng cố nền tảng ngôi nhà của nó sau khi tình trạng tính
chính thống của Ðảng bị sa sút tột độ sau vụ phản kháng
Thiên An Môn năm 1989. Các nhà quan sát thì cãi lại rằng
Đảng Cộng sản Trung Quốc có vẻ đang giải quyết hữu hiệu sự
thiếu hụt dân chủ bằng phương cách phi dân chủ, với việc đặt
đúng chỗ các cơ chế làm giảm thiểu, hoặc có khả năng trừ khử
sự yếu ớt có tính truyền thống của các chế độ toàn trị.
Andrew Nathan tóm tắt bằng chứng của các cơ chế đó trong một
đề mục “sự định chế hóa chế độ”.
Tôi cho rằng đặc điểm hóa như thế là sai, một vấn đề tôi sẽ
tranh luận sau đây, liên quan tới ba điểm đặc trưng của các
chế độ toàn trị khiến về mặt lịch sử, chúng ở trong số các
chế độ khó định chế hóa nhất:
1. quá trình đề bạt giới tinh hoa;
2. sự bảo quản trách nhiệm về chức năng hoạt động của giới
tinh hoa;
3. sự tham sự của nhân dân.
So với tình trạng hỗn độn trong kỷ nguyên Mao Trạch Ðông thì
chắc chắn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hôm nay là một nhà
nước tương đối được định chế hóa. Nhưng xét theo quan hệ với
các nhu cầu thật sự của xã hội Trung Quốc đương đại, thì
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rõ ràng là không đạt: bất cứ
điểm đặc trưng đã định nào [trong ba điểm nêu trên] của một
hệ thống chính trị chỉ có thể cho là “đã được định chế hóa”
khi nó phù hợp với các lý tưởng có tính tiêu chuẩn của quốc
gia cũng như được thực hiện hữu hiệu. Theo những tiêu chuẩn
ấy thì bằng chứng về sự định chế hóa của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa còn yếu. Cũng không có vẻ rằng cuối cùng sự định
chế hóa loại đó sẽ mạnh. Quả thật, tính từ năm 1949 tới nay,
có thể thấy rõ là tại Trung Quốc có ba chu kỳ củng cố và suy
sụp: trước là đạt tới những giới hạn của sự định chế hóa chế
độ, rồi tiếp liền đó, cái “lô-gic của quyền lực tập trung”
tái khẳng định nó. Ðiều tương tự như thế có thể tái diễn vào
một thời điểm thích hợp, và làm suy yếu sự định chế hóa hình
thức tại Đại hội thứ 16 vừa qua của Đảng Cộng sản Trung
Quốc.
Sự định chế hóa hiện nay
Samuel P. Huntington xác định đặc điểm của sự định chế hóa
chính trị như một quá trình mà qua đó điểm đặc trưng đã định
của một hệ thống chính trị đạt đủ các nét “khả năng thích
ứng, tính phức tạp, tính tự quản, và tính nhất quán.” Nơi mà
điểm đặc trưng có vấn đề thì có thể là một quá trình, một
định chế, hoặc một lề luật.
Huntington nói, khi sự định chế hóa được thành tựu từ trên xuống dưới hệ thống
chính trị, thì nó tạo ra một chính quyền có “hiệu năng, thẩm
quyền, [và] chính thống.” [2]
Dù định nghĩa ấy đủ để giải thích tính chất hiệu năng và
tính chất thẩm quyền của chính quyền, gần như chắc chắn rằng
Huntington
đã quan niệm sai về bản chất cá biệt của vấn đề tính chính
thống trong bối cảnh toàn trị. Ông không nắm bắt được rằng
bất cứ điểm đặc trưng đã định nào của một hệ thống chính trị
có tính chính thống cũng phải phù hợp với quan điểm có tính
tiêu chuẩn và bao trùm của nhà nước. (Cần phải nhấn mạnh
rằng, trong một nhà nước đa nguyên, điều kiện này được dễ
dàng xem là tất nhiên). Nếu điểm đặc trưng đó thiếu sự chứng
minh rộng rãi có tính tiêu chuẩn hóa, thì lúc đó, chính nó
sẽ xói mòn tính chính thống của nhà nước. Loại “nhất quán có
tính tiêu chuẩn hóa” này khác với loại nhất quán mà
Huntington đưa ra làm định đề vốn chỉ cốt ở sự am hiểu chức
năng hoạt động giữa những người bên trong nhà nước chứ không
phải sự đồng thuận trên qui mô lớn của xã hội bên ngoài.
Như thế, sự định chế hóa chính trị có cả thành tố nâng cao
hiệu năng lẫn thành tố nhất quán một cách tiêu chuẩn hóa, và
phải đạt được để cho điểm đặc trưng đã định ấy được định chế
hóa. Như một thí dụ phủ định, những cuộc hội họp của quần
chúng liên quan tới sự trông cậy thường xuyên của chế độ
Trung Quốc đối với các chiến dịch chống tội phạm “Ðánh triệt
để”, đã có hiệu quả đáng chú ý trong nhân nhượng hơn là kết
án, nhưng những vi phạm quá trình thích đáng mà các chiến
dịch ấy can dự đã trái ngược hoàn toàn với lời cam kết của
chính quyền trong việc triển khai sự cai trị của luật pháp.
Bằng chứng tốt nhất về sự đề bạt giới tinh hoa có từ một
cuốn sách đáng chú ý, viết bằng tiếng Hoa, nhan đề là Ðệ tứ
đại (Disidai - Thế hệ thứ tư) mà nó tuyên bố một cách đáng
tín nhiệm là đã dựa vào hồ sơ nội bộ của Đảng Cộng sản Trung
Quốc về việc chuyển giao quyền lãnh đạo năm 2002. [3] Thông
tin chứa trong cuốn ấy bác bỏ cái bề ngoài của quá trình đề
bạt có vẻ được định chuẩn hóa ấy. Nó trình bày rằng sự dễ
dàng trong việc chuyển giao ấy liên quan tới di sản mạnh mẽ
của bậc đại trưởng thượng Ðặng Tiểu Bình hơn là tới sự định
chế hóa. Chính họ Ðặng là kẻ, ngay từ năm 1992, đã chọn Hồ
Cẩm Ðào làm người thừa kế được chỉ định, gỡ khỏi đấu trường
chính trị vấn đề duy nhất gây tranh cãi liên quan tới việc
thừa kế. Họ Ðặng và Tống Bình, hai người đỡ đầu cho Hồ Cẩm
Ðào, còn mạnh khỏe đủ lâu để bảo đảm cho họ Hồ được thừa kế.
Vì thế, Ðại hội thứ 16 có vẻ là một phó sản ngẫu nhiên hơn
là một kết quả có tính hệ thống.
Ði sâu vào chi tiết, Ðệ tứ đại trình bày rằng:
1. Năm 1997, như một chiến thuật nhằm loại trừ đối thủ cấp
tiến Kiều Thạch, Giang Trạch Dân đề nghị nguyên tắc không
người nào từ 70 tuổi trở lên được chỉ định vào Bộ Chính trị.
Họ Giang, lúc đó 71 tuổi, tự miễn cho mình nguyên tắc đó, dù
trong Đại hội thứ 15 năm 2002, ông cam kết tuân theo nó. Tuy
thế, từ năm 2001 cho tới ngày Ðại hội, họ Giang cho phép một
số lãnh tụ quân sự, các nhà nghiên cứu của đảng và các cận
thần loan truyền ý tưởng rằng ông sẽ vi phạm nguyên tắc đó
thêm lần nữa để tiếp tục nắm quyền. Nỗ lực ấy thất bại, tuy
thế ông thành công trong việc thanh trừng Lý Thụy Thanh, một
người cấp tiến 68 tuổi, trên cơ sở cá biệt rằng họ Lý đã
phục vụ quá lâu trong Ban Thường vụ, từ năm 1989. Những
thách thức đối với nguyên tắc tồn tại bất thành văn và mơ hồ
ấy, đã nêu lên những thắc mắc được loan truyền rộng rãi về
tính lâu bền của nó.
2. Chỉ có ba lãnh tụ thượng đỉnh - Giang Trạch Dân, Lý Bằng và
Chu Dung Cơ - khống chế cuộc tuyển chọn ban lãnh đạo mới
(với các bậc lão thành của Ðảng đã nghỉ hưu là Bạc Nhất Ba
và Tống Bình đóng vai trò ảnh hưởng ở hậu trường). Sự tập
trung ảnh hưởng đó trái ngược với nguyên tắc chính thức rằng
những quyết định như thế phải được lập bởi 21 ủy viên Bộ
Chính trị, và như thế nó tiêu biểu cho sự thất bại của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc thực hiện một loại “lãnh
đạo tập thể” để có thể làm giảm những nguy hiểm của sự quyền
lực bị tập trung hóa trong chế độ cộng sản.
3. Lòng trung thành cá nhân quan trọng gấp bội công trạng cá
nhân. Bảy trong chín ủy viên mới của Ban Thường vụ Bộ Chính
trị - Hồ Cẩm Ðào, Tăng Khánh Hồng, La Cán, Ngô Bang Quốc,
Giã Thanh Lân, Hoàng Cúc và Lý Trường Xuân - được chọn dựa
vào lòng trung thành có tính bè cánh dù họ là quan chức có
các khuyết điểm bị nhiều người biết. [4] Chỉ có Ôn Gia Bảo
và Ngô Quang Chính là được chọn chủ yếu nhờ công trạng.
Trong hệ thống chính trị đa nguyên, việc chỉ định quan chức
dựa vào lòng trung thành cá nhân được chấp nhận một cách
tiêu chuẩn hóa và được thực hiện dễ dàng vì chính các quan
chức phụ trách việc bổ nhiệm cũng sẽ được lựa chọn và bổ
nhiệm bởi những kẻ do họ chọn. Nhưng vì tại Trung Quốc, Đảng
Cộng sản Trung Quốc là kẻ nắm quyền lực không ai tranh
giành, nên nó miễn cưỡng tán thành cái lý tưởng có tính tiêu
chuẩn hóa là việc bổ nhiệm ở bất cứ cấp nào cũng bị buộc
phải dựa vào công trạng. Tuy thế, lý tưởng ấy không được
thực thi hữu hiệu, và những cuộc bổ nhiệm đành rằng là xấu
thì có khả năng gây bất đồng chính kiến và phản kháng.
4. Các nguyên tắc đề bạt thông thường trong hàng phẩm trật của
Đảng Cộng sản Trung Quốc bị xem thường khi chúng gây bất
tiện cho hàng lãnh đạo cao cấp của Ðảng. Ðó là trường hợp cả
ba cán bộ lãnh đạo cao cấp thuộc “thế hệ thứ năm” trong việc
đảm trách Ban Thường vụ Bộ Chính trị năm 2012. Lý Khắc
Thương đã được xác nhận là tổng bí thư của Trung ương Ðoàn
liên hiệp Thanh niên Cộng sản năm 1993 dù đại bại khi tranh
cử chiếc ghế ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng
tại Đại hội thứ 14 năm 1992. Bạc Hi Lai được đem vào Đại hội
thứ 15 năm 1997 như một “đại biểu được mời đặc biệt” sau khi
thất bại trong cuộc bầu cử đại biểu đảng viên địa phương của
mình. Và Tây Nhân Bình được chỉ định vào Ban Chấp hành Trung
ương tại Đại hội thứ 15 sau khi không được bầu làm đại biểu
tại Ðại hội ấy.
Về vấn đề chuyên môn hóa chức năng hoạt động của giới tinh
hoa, Ðệ tứ đại trình bày cái nhìn thoáng qua và sơ khởi vào
con số lớn lao những cuộc đấu đá nhau mang tính thư lại và
phủ trùm sinh hoạt chính trị của giới lãnh đạo tại Trung
Quốc. Trong khi theo truyền thống thì các ủy viên Ban Thường
vụ Bộ Chính trị được chỉ định vào các chức vụ cá biệt (các
vấn đề kinh tế, an ninh nội bộ, các sự vụ quốc ngoại và vân
vân), sự phân chia này vẫn là đối tượng kinh niên của tránh
né hoặc bất chấp - nghĩa là “tính chất tự quản” là yêu cầu
của sự định chế hóa chính trị theo định nghĩa của Huntington
vẫn tiếp tục bị thủ tiêu trong nhiều phạm vi quan trọng có
tính chính sách.
Thất bại của sự chuyên môn hóa giới tinh hoa được biểu thị
trong nhiều khu vực hoạt động:
* Các vấn đề kinh tế: Sự ủy quyền cho thủ tướng về
các vấn đề kinh tế có thể bị thu hồi trong những phạm vi các
ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị không tán thành. Thí dụ,
năm 1999, Giang Trạch Dân thật sự nắm chức vụ phụ trách các
công ty quốc doanh, vốn là chức vụ của Chu Dung Cơ, bằng
việc triệu tập hội nghị các quan chức công ty quốc doanh từ
bốn miền chính của Trung Quốc.
* Nhân sự và tổ chức: Tầm quan trọng của chức vụ
này đối với việc xếp đặt bè cánh khiến nó trở thành nguyên
nhân bất đồng thường xuyên. Từ năm 1993 tới 1997, khuôn mặt
khống chế vấn đề nhân sự và tổ chức là Tăng Khánh Hồng, phụ
tá của họ Giang, người lúc đó thậm chí không là ủy viên Bộ
Chính trị. Suốt thời kỳ ấy, Hồ Cẩm Ðào, ủy viên Ban Thường
vụ Bộ Chính trị chính thức phụ trách vấn đề này, phải chấp
nhận bị giẫm chân, để duy trì tính cách thừa kế của mình
trong tương lai.
* Chống tham nhũng: Việc xử lý các trường hợp tham
nhũng ở cấp cao trong Ðảng vẫn là vấn đề thủ đoạn chính trị,
một màn hỏa mù nhằm che đậy các cuộc đấu đá bè cánh ở cấp
thượng đỉnh - nghĩa là, ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị
đảm trách các nỗ lực chống tham nhũng chỉ đơn thuần là người
quản lý các vụ việc được chọn bởi lý do chính trị. Sự việc
ấy đã trở thành một vấn đề mọi người dân đều biết, vì lý do
ấy, thậm chí một sự khởi tố xác thực và minh bạch về tham
nhũng ở cấp cao là một bước lùi của Ðảng nhưng đồng thời
cũng có nghĩa là một bước tiến cho tính chính thống của
Ðảng.
Ðiểm đặc trưng duy nhất ở bên dưới cấp tinh hoa, có tiềm năng
mạnh mẽ để làm giảm những tác động buồn thảm của tình trạng
quyền lực tập trung trong các chế độ toàn trị, là sự tham
gia chính trị: sự “thâm thủng dân chủ” có thể tối thiểu được
bù đắp phần nào bằng sự “thặng dư tham gia”. Ðể làm bằng
chứng cho sự định chế hóa đang gia tăng ở cấp dưới cấp tinh
hoa, các nhà nghiên cứu kể tới các cuộc bầu cử cấp xã, việc
đệ đạt thỉnh nguyện của nhân dân, và vai trò của các cơ quan
lập pháp địa phương. Tuy trong các trường hợp đó, không
trường hợp nào đạt hai tiêu chuẩn của sự định chế hóa - hiệu
năng và nhất quán. Ðơn cử vài thí dụ nổi tiếng:
5. Rõ ràng các cuộc bầu cử cấp xã đã chứng minh tính hiệu năng
trong sự cải thiện việc cai trị tại gần một triệu xã ở Trung
Quốc và thiết lập chính quyền nhà nước tại vùng nông thôn.
Nhưng chúng thiếu sự nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa: Bên
trong nhà nước độc đảng, sự đua tranh chính trị phải được
giữ trong vòng kiểm soát chặt chẽ. Ðồng thời, duy trì sự
kiểm soát ấy đôi khi có ý nghĩa là Ðảng phải vi phạm những
nguyên tắc đua tranh do chính Ðảng đề ra - thí dụ, bằng các
việc như vi phạm chính sách do nó đề ra trong các cuộc bầu
cử cấp xã; vô hiệu hóa các kết quả bầu cử mà nó không thể
chấp nhận; hoặc lén lút cấy sự kiểm soát của nó ở những xã
không chịu vào khuôn phép. Việc đề ra các cuộc bầu cử ấy có
thể là chiến thuật từ phía một số quan chức chính phủ cấp
trung ương muốn giấu diếm dân chủ ở cửa sau, nhưng việc giấu
diếm như thế chỉ có thể tiến hành ngang đây thôi, trước khi
nó bắt đầu vận dụng sức ép chính xác lên trên lý tưởng cai
trị có tính tiêu chuẩn hóa mà chỉ một mình Ðảng nắm quyền
lực chính trị.
6. Trong nỗ lực khẳng định vai trò “giám sát” công tác của
chính quyền, các cơ quan lập pháp cấp quốc gia lẫn cấp địa
phương đều phải chịu đựng cũng một loại không nhất quán có
tính tiêu chuẩn hóa ấy. Vì Đảng và nhà nước Trung Quốc không
chấp nhận ý tưởng ủy thác quyền lực chính trị nên các cơ
quan lập pháp bao giờ cũng yếu. Trong các đan cử hiếm hoi
ấy, nơi mà họ cố xoay xở để, thí dụ như, từ chối một luật
lệ, một sự bổ nhiệm người vào cơ quan hoặc một bản báo cáo
của chính quyền thì gần như có tình trạng hoang mang buồn
cười về việc mình phải làm gì đây. Không giống các cuộc bầu
cử cấp xã, nơi ít ra sự ủy thác quyền lực hành chánh cũng có
hiệu năng, các hội đồng nhân dân của Trung Quốc vẫn còn bị
Ðảng kiểm soát rất chặt chẽ tới độ chúng hầu hết đều không
hiệu năng.
7. Cũng có một hệ thống đệ đạt thỉnh nguyện của nhân dân mà
người ta có thể nói là đáp ứng yêu cầu của ý tưởng có tính
tiêu chuẩn hóa đều khắp: rằng nhân dân được phép đưa đề nghị
để góp phần giúp Ðảng thực hiện công tác. Vào năm 2000, một
Văn phòng Quốc gia Nhận Thư thỉnh nguyện và Tiếp dân (State
Bureau of Letters and Visits) mới được thành lập như một cơ
quan cấp dưới bộ. Thế nhưng việc giải quyết thư thỉnh nguyện
của nhân dân vẫn rất thất thường, vì quá trình cứu xét tối
hậu không thật sự tùy thuộc sự xử lý thường xuyên theo quyền
hành đã được ủy thác, mà đúng hơn, theo sự chấp nhận có
tuyển chọn do Ðảng giám sát.
Như thế, bằng chứng hiện nay về sự định chế hóa có vẻ bị
giới hạn một cách dứt khoát. Sự định chế hóa không chỉ bao
gồm sự vắng mặt của hỗn độn mà còn đưa tới sự có mặt tích
cực của hiệu năng và nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa. Lúc
đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển dịch từ một trạng thái
hỗn độn tới một trạng thái an bình đặc biệt; nhưng chỉ tới
đó thôi, không đi xa hơn. Kết quả là, các vấn đề gắn bó một
cách truyền thống với các chế độ phi dân chủ - sự phi chính
thống, cai trị kém cỏi, tham nhũng, sự bất ổn của giới tinh
hoa - vẫn còn nhiều vô số tại Trung Quốc. Chỉ riêng tham
nhũng đã được ước lượng tới con số tương đương từ 10% tới
20% tổng sản lượng quốc nội (GDP). Sự bất ổn của giới tinh
hoa biểu thị rõ rệt trong những cuộc đấu đá bè cánh và ý
thức hệ mà đã đặc điểm hóa những năm thời họ Giang, bao gồm
việc thanh trừng không dưới sáu ủy viên Bộ Chính trị. Tất cả
những cái ấy gợi cho thấy rằng các nỗ lực của Trung Quốc
nhằm định chế hóa nói chung là thất bại.
Sự định chế hóa trong tương lai
Có lẽ câu hỏi đúng ra nên là, cái gì tương lai sẽ mang tới.
Liệu các tiêu chuẩn được định chế hóa một cách quá yếu tại
Trung Quốc có sẽ trở thành mạnh hơn, hoặc suy sụp? Nghĩa là,
liệu chúng ta có thể hân hoan trông đợi giai đoạn “dân chủ
hóa từng bước một” để khắc phục sự vô hiệu năng và phi nhất
quán của hệ thống hiện nay?
Mọi sự củng cố có tính dân chủ đều bắt đầu từ những thay đổi
mà theo định nghĩa thì chúng chưa hằn sâu, có thể được đặc
điểm hóa như một thỏa ước tạm thời (modus vivendi) giữa
những tay chơi thích đáng. Chỉ với thời gian thì những thay
đổi ấy mới hằn sâu, mới được thấy một cách tổng quát là đáng
được thừa nhận vì lợi ích của chính chúng, và như thế, chúng
trở thành những tiêu chuẩn. Nhưng luôn luôn có khả năng
ngược lại, cái mà tôi tin tưởng có khả năng hơn trong trường
hợp Trung Quốc: rằng những diễn tiến mới sẽ suy sụp như một
kết quả của “lô-gic của quyền lực tập trung.”
Thí dụ, về vấn đề đề bạt giới tinh hoa, thật dễ tưởng tượng
là chắc chắn rằng theo thời gian, nguyên tắc 70 tuổi sẽ được
định chế hóa hơn, tuy thế chỉ cần một hoặc hai người không
đồng ý là làm hỏng cuộc mặc cả, như từng thấy trong cuộc đấu
đá về kế thừa tại Đại hội Ðảng thứ 16. Tại Đại hội Ðảng thứ
17 năm 2007, La Cán, người theo đường lối cứng rắn, sẽ trên
70 tuổi, trong khi một đối thủ của Hồ Cẩm Ðào là Tăng Khánh
Hồng sẽ 68. Cả hai đại điện cho các bè cánh có sức mạnh. Và
khi quyền lực bị đe dọa một cách tối hậu thì sự duy trì các
tiêu chuẩn bị bấp bênh - như các chế độ toàn trị trên khắp
thế giới đã biểu lộ nhiều lần. Càng khư khư ôm chặt quyền
lực chừng nào thì những tiêu chuẩn càng có khuynh
hướng bốc hơi chừng nấy.
Ngược lại, những đề bạt dựa trên công trạng chắc chắn sẽ góp
phần càng ngày càng đem thêm nhiều người có năng lực vào các
cơ quan cao hơn. Nhưng tại cấp địa phương, diễn tiến đề bạt
thường trở thành đút lót, trong khi ở cấp tinh hoa, diễn
tiến ấy vẫn bị quyết định bởi những thất thường của các bè
cánh chính trị. Việc thay đổi các mẫu thức ấy đòi hỏi một
tuyến độ rộng rãi để theo dõi và giám sát qua truyền thông
không bị kiểm duyệt, việc chống tham nhũng và việc ủy thác
quyền lực. Trong những cái đó, có vẻ Đảng Cộng sản Trung
Quốc không chọn cái nào. Việc thay đổi các mẫu thức rộng rãi
hơn của tham nhũng cũng đòi hỏi những triển khai tương tự,
và cũng không có khả năng tương tự.
Tới với các cuộc bầu cử cấp xã, các lãnh tụ Ðảng sẽ có
khuynh hướng cảnh giác khi gặp bất cứ dấu hiệu nào của hiệu
năng nơi các xã trưởng được bầu lên. Sự xuất hiện của nhiều
viên chức được bầu đó - như một nhóm không có tính nhạy cảm
đối với việc kết nạp hoặc việc mưu toan lật đổ - thì không
thể tránh khỏi, sẽ nêu lên vấn nạn rằng không biết Ðảng có
nên xét lại các tiêu chuẩn của nó để ủng hộ việc chia sẻ
quyền lực chính trị hay không - và đó chính là con đường mà
các chế độ toàn trị mạnh mẽ ở Ðài Loan, Nam Hàn và Thái Lan
đã đi. Nhưng trong trường hợp một chế độ yếu ớt như chế độ
của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì sự “tự nguyện rút lui” đó
không chắc có thật. [5] Một diễn tiến có vẻ có thật
hơn là, Ðảng tiếp tục vi phạm các cuộc bầu cử cấp xã khi các
nhóm chính trị mới mẻ ấy bắt đầu tranh đua với sự thành công
ngày càng nhiều hơn. Như Paul Brooker ghi nhận, các chế độ
toàn trị đưa ra các cuộc bầu cử địa phương chân chính “có
thể tối hậu sẽ đối mặt với vấn đề là phải tìm cho ra một
phương cách phi dân chủ không quá lộ liễu để làm cho khập
khễnh cái đảng đang đấu tranh quá thành công với đảng chính
thức của mình.” [6]
Tình thế tiến thoái lưỡng nan ấy cũng giúp giải thích tại
sao Đảng Cộng sản Trung Quốc, bất chấp những lời hứa được
lặp đi lặp lại của nó, vẫn chưa tán trợ việc mở rộng bầu cử
những người điều hành trực tiếp ở cấp cao hơn cấp xã. Những
thử nghiệm rải rác việc bầu cử người cai trị cấp huyện đã bị
cấp lãnh đạo Ðảng phê bình, mặc dù chúng được dân chúng tại
các địa điểm ấy chấp nhận và ưa thích, và nói chung đáp ứng
được cuộc khủng hoảng cai trị đang diễn ra trong vấn đề cai
trị ở cấp huyện.
Về phần các hội đồng nhân dân, chắc chắn chúng cải thiện
việc cai trị tại nhiều địa hạt. Nhưng thông thường chúng làm
được như thế bằng việc nắm lấy quyền lực, ngược với ý kiến
của Ðảng. Nơi nào chúng cải thiện được tính chính thống của
chế độ thì chỉ bởi vì các thành viên của chúng được Đảng kết
nạp đầy đủ. Chúng hoặc chỉ có thể cải thiện sự cai trị, hoặc
chỉ có thể cải thiện sự kiểm soát của chế độ, không thể làm
cả hai việc đó.
Trong mỗi trường hợp - các cuộc bầu cử cấp huyện hoặc các
hội đồng nhân dân - đang bị buộc phải chọn giữa hiệu năng và
nhất quán. Dường như lúc nào Ðảng cũng chọn cái thứ hai.
Các chu kỳ và suy sụp
Nhiều người viết về các chu kỳ sinh hoạt chính trị tại
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1949. Trong khi những
ngẫu nhiên có tính con người và tính lịch sử có khuynh hướng
giải thích những thời điểm rạch ròi của các chu kỳ này, thì
động cơ nằm bên dưới dẫn tới sự suy sụp sau mỗi sự củng cố,
nói một cách chính xác, chính là cái “lô-gic của quyền lực
tập trung”: trong những thời kỳ khủng hoảng chính trị, loạn
chức năng, hoặc có vấn đề kế thừa thì bất cứ quyền lực nào
từng được ủy thác một cách thận trọng để cải thiện việc cai
trị và ổn định giới tinh hoa chính trị đều bị thu hồi lẹ
làng. Tính từ năm 1949, đại khái ta có thể thấy có bốn chu
kỳ tách biệt:
1. Thời kỳ một (1940-61):
* Củng cố (1949-56): thiết lập nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa.
* Suy sụp (1956-61): từ Phong trào Vận động Chống
hữu khuynh tới nạn đói từ Ðại nhảy vọt.
2. Thời kỳ 2 (1961-76):
* Củng cố (1961-66): phục hồi sau nạn đói.
* Suy sụp (1966-76): Cách mạng Văn hóa.
3. Thời kỳ 3: (1976-94):
* Củng cố (1976-86): tái củng cố, mở rộng các định
chế của Ðảng và chính phủ, và luật pháp.
* Suy sụp (1986-94): Nổi lên phong trào sinh viên
phản kháng, phản ánh những nứt rạn trong giới tinh hoa về
cải cách; các lãnh tụ lão thành của Ðảng tái áp đặt luật lệ.
4. Thời kỳ 4: (1994- ):
* Củng cố (1994- ): các lãnh tụ lão thành của Ðảng
từ trần; mở rộng sự cai trị của luật pháp và chuyên môn hóa
chính quyền; gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Một phân tích thoáng qua các công trình nghiên cứu trong ba
chu kỳ kể trên gợi cho thấy các nhà nghiên cứu sinh hoạt
chính trị của Trung Quốc đều rất có khuynh hướng thông giải
rằng sự thay đổi ở từng giai đoạn thì mang tính tuyến tính.
Thí dụ năm 1978 - ngay lúc bắt đầu của cái mà tôi dùng thuật
ngữ Củng cố Thời kỳ Ba” - có xuất hiện một bài viết với nhan
đề Hiện đại hóa và sinh hoạt chính trị kế thừa tại Trung
Quốc. Bài viết ấy gây nhiều tranh luận vì đưa ra một số cảnh
báo về sự bất định trong tương lai, một sự bất định mà mãi
tới ngày nay mới xảy tới, trong giai đoạn Đại hội thứ 16.
[7] Ngược lại, các công trình nghiên cứu sau năm 1989 có
khuynh hướng mạnh mẽ nhấn mạnh sự tiếp tục suy sụp của chế
độ.
Dõi theo những thăng trầm của từng giai đoạn cá biệt và so
sánh chúng với các giai đoạn trước đó, người ta có thể nói
rất chắc chắn về tiên đoán đó. Khi tin rằng các thời kỳ ấy
không thể đảo ngược thì chính niềm tin đó ẩn chứa sự nguy
hiểm; lịch sử của Trung Quốc cách riêng và lý thuyết về chế
độ toàn trị nói chung gợi cho thấy rằng chúng có khả năng
đảo ngược. Indonesia của Suharto có thể là một phản thí dụ
tốt nhất - vào giữa thập niên 1990, chế độ đó bị tuột hết
quyền lực vào lúc nó có vẻ như đang có chiều hướng đi lên và
củng cố chính nó bằng những hình thức định chế hóa mới, và
xem ra “chắc chắn và hiệu năng rất cao.” [8]
Nếu chúng ta đã tìm kiếm kỹ lưỡng hơn các dấu hiệu củng cố
sau năm 1989 thì chúng ta nên tìm kiếm kỹ lưỡng hơn các dấu
hiệu suy sụp ngày nay tại đỉnh điểm của những gì sẽ là Thời
kỳ Suy sụp thứ Tư trong biểu đồ trên. Nhiều dấu hiệu trong
đó có thể bao gồm sự xuất hiện của tình trạng nứt rạn ít
nhiều và công khai trong các ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính
trị về các vấn đề chính sách trọng yếu, thí dụ Ðài Loan hoặc
bầu cử cấp địa phương; sự công khai xuất hiện trở lại của
các lãnh tụ đang nghỉ hưu như Giang Trạch Dân hoặc Lý Bằng;
hoặc Bộ Chính trị mất quyền hành trên lãnh vực hoạt động như
an ninh nội bộ.
Vấn đề thời kỳ suy sụp mới có thể dẫn tới đâu thì nằm ngoài
phạm vi ứng xử của trang giấy này. Nhưng một lời cảnh cáo
coi như là kết luận rằng: sự suy sụp mang tính định định chế
hóa đó không báo điềm sụp đổ của chế độ. Sức mạnh của bộ máy
cưỡng bách của Trung Quốc - sáu triệu viên chức công an và
bộ đội - hiệp với tình trạng xã hội dân sự yếu ớt đủ để đảm
bảo rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không bị rớt đài hoặc
bị đẩy khỏi quyền lực. Tấn thảm kịch dưới hình thức các cuộc
thanh trừng chính trị và trấn áp xã hội là kết quả rất điển
hình cho các thời kỳ suy sụp tại Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa.
Ðồng thời có một hệ quả mang tính lựa chọn mà có thể giúp
Trung Quốc thoát khỏi chu kỳ chính trị đó: sự đột phá có
tính dân chủ. Sự suy sụp định chế cung cấp cơ hội - thường
thì kèm theo nó là khủng hoảng cai trị - cho giới tinh hoa
có khuynh hướng cải cách thiết kế sự gỡ rối cho chế độ bằng
những hứa hẹn cởi mở chính trị vốn là bước đầu tiên hướng
tới dân chủ. Lúc ấy, mỉa mai thay, hy vọng dân chủ nhất lại
có thể nằm ngay trong chính những mâu thuẫn đang tạo ra quá
nhiều trục trặc cho sự định chế hóa hiện nay.
Bruce Gilley, tiến sĩ chính trị học tại Ðại học Princeton
University, Hoa Kỳ. Ông từng làm Biên tập viên hợp tác của
Far Easter Economic Review (Tạp chí Kinh tế Viễn Đông). Ông
tà tác giả và đồng tác giả khoảng 10 cuốn sách về Trung
Quốc. Trong đó có: Tiger on the Brink: Jiang Zemin and
China’s New Elite (Hổ bên mép vực: Giang Trạch Dân và giới
tinh hoa của Trung Quốc, 1998); và đồng tác giả (với Adrew
Nathan) cuốn China’s New Rulers: The Secret File (Các nhà
cai trị mới của Trung Quốc: Hồ sơ mật, 2002); cuốn mới nhất
là China’s Democratic Future: How It Will Happen and Where
It Lead (Tương lai dân chủ của Trung Quốc: Sẽ xảy ra như thế
nào và dẫn tới đâu, 2004).
Bản tiếng Việt © 2006 talawas
____________________
[1]Lối nói “lô-gic của quyền lực tập trung” là dựa theo câu
nói của Robert Dahl về “lô-gic của sự bình đẳng” - nỗ lực
hướng tới sự tham gia rộng rãi và quyền lực chính trị có
tinh thần trách nhiệm mà Dahl coi đó là kết quả cố định phát
xuất từ việc bắt đầu đảm đương sự bình đẳng chính trị giữa
các thành viên của xã hội [đoàn, nhóm, hiệp hội...]. Xem:
Dahl, On Democracy (Bàn về dân chủ), New Haven: Yale
University Press, 1996, 10.
[2]Samuel P. Huntington, Political Order in Changing
Societies (Trật tự chính trị trong các xã hội đang thay
đổi), New Haven: Yale University Press, 1968, 12,2.
[3]Zong Hairen, Disidai (The Fourth Generation, Thế hệ thứ
tư), New York: Mirror Books, 2002. Nó là nền của cuốn sách
viết bằng tiếng Anh mà tôi là đồng tác giả với Andrew
Nathan, China’s New Rulers: The Secret Files (Những nhà cai
trị mới của Trung Quốc: Hồ sơ mật), New York: New York
Review of Books, 2002. Chúng tôi trình bày tính xác thực của
Disidai với đầy đủ chi tiết trong lời nói đầu của cuốn sách.
[4]Các khuyết điểm ấy được thừa nhận rõ ràng trong các tài
liệu chính thức của đảng. Xem: Andrew Nathan và Bruce
Gilley, China’s New Rulers, phần nói về Hồ Cẩm Ðào, tr. 68;
về Ngô Bang Quốc, 102; về La Cán, 110; và về Lý Trường Xuân,
114.
[5]Tôi đưa ra một phương thuốc kéo dài diễn tiến có khả năng
đột phá dân chủ trong China’s Democratic Future (Tương lai
dân chủ của Trung Quốc), sắp xuất bản.
[6]Paul Brooker, Non-Democratic Regimes: Theory, Government
and Politics (Các chế độ phi dân chủ: lý thuyết, chính quyền
và chính trị)
[7]Kenneth Lieberthal trong Journal of International Affairs
32 Fall 1978 (Tạp chí Các Sự vụ quốc tế số 32 Mùa thu 1978),
239- 54. Bài báo ấy ghi nhận các “kết quả làm giật mình” của
sự củng cố thời sau-Mao, do bởi “sự nhất trí... rất cao” của
giới lãnh đạo và nỗ lực của nó để “làm cho đảng khôi phục
quyền lực và năng lực trước đây.” Tuy thế, nó cảnh cáo rằng
“quá sớm để nói liệu tiến trình đó có thể đảo ngược hay
không”.
[8]R. William Liddle. “Indonesia: Suharto’s Tightening Grip”
(Indonesia: Kềm kẹp đang siết của Suharto), Journal of
Democracy 7 (October 1996), 70. Trích trong: Larry Diamond,
Developing Democracy: Towards Consolidation (Phát triển dân
chủ: hướng tới sự củng cố), Baltimore, John Hopkins
University Press, 1999, 262.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|