Kinh nghiệm toàn trị tại Trung quốc
Lời mở
đầu
Bài 1:
Những giới hạn co giãn của toàn trị - Bruce Gilley.
Bài 2: Ðe
dọa quyền tối thượng của Ðảng - Bruce J. Dickson.
Bài 3:
Những vấn đề yếu ớt của nhà nước - Shaoguang Wang.
Bài 4: Sự
bất bình đẳng mới - An Chen.
Bài 5: Ổn
định như núi lửa đang sôi - Qinglian He.
Bài 6: Thức
giấc cùng Trung Quốc - Ted C. Fishman.
Bài 2
Ðe dọa quyền tối thượng của Đảng
Bruce J. Dickson
Với sự nổi bật của Ðảng Cộng sản Trung Quốc trong Ðại hội
Thứ 16 của Ðảng này vào tháng Mười Một năm 2002 bằng một ban
lãnh đạo mới và một chương trình cập nhật hóa, hệ thống
chính trị đang nắm quyền kiểm soát đó có triển vọng chính
trị nào?
Giải quyết nhẹ nhàng việc chuyển giao quyền lực như vừa qua
chứng tỏ một cấp độ ổn định có tính định chế chưa từng thấy
bên trong giới tinh hoa chính trị (elites) của Trung Quốc.
Và tuy hiện nay Ðảng Cộng sản Trung Quốc có thì giờ để nhìn
sự tàn lụi dần cái sức mạnh của hạ tầng cơ sở quần chúng,
nạn nhân của nhiều trầm cảm phát sinh từ sự hội nhập tăng
theo mức lũy tiến của Ðảng cùng với một xã hội đang thay đổi
lẹ làng. Trong khi đó, các chính sách “cải cách và mở cửa”
của Ðảng Cộng sản Trung Quốc có những hệ quả ngoài dự tính,
làm yếu thêm viễn tượng về sự tiếp tục độc quyền chính trị
của nó: vì khu vực tư nhân đang bành trướng, Ðảng không còn
kiểm soát nơi chốn nhân dân ở và làm việc; vì sự lan rộng
của việc tiếp cận internet, vô tuyến truyền hình qua vệ tinh
viễn thông và truyền thông tự chọn, Ðảng không còn kiểm soát
loại thông tin nào người dân đang có hoặc nó được phổ biến
như thế nào; và vì sự kết hợp những lợi tức sẵn có để chi
tiêu rộng rãi hơn và sự giải phóng chính trị, Ðảng không còn
kiểm soát những gì dân chúng làm trong lúc nhàn rỗi. Ðể giải
quyết những hệ quả đó, Ðảng dùng một sách lược mới. Trong
chừng mực thiết yếu của sách lược đó, nó tái định hướng một
cách có hiệu quả mối quan hệ của Ðảng với xã hội Trung Quốc,
và tới một mức độ nào đó, phát sinh câu hỏi được nhiều người
chia sẻ về sự sinh tồn lâu dài của một chế độ toàn trị đang
giải phóng và hiện bị khống chế bởi một đảng độc nhất: việc
thích nghi với môi trường kinh tế và xã hội mới sẽ làm mạnh
hoặc quả thật làm yếu sự tiếp tục nắm quyền lực của Ðảng?
Từ bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc, nhiều nhà quan sát kỳ
vọng rằng sự tiếp tục cải cách kinh tế và tư nhân hóa cùng
hội nhập hệ thống quốc tế sẽ dẫn tới những phát triển kinh
tế và rồi lần lượt đẩy mạnh những hình thức phát triển xã
hội - đặc biệt sự ló dạng một xã hội dân sự, và tối hậu, sự
khởi đầu mạnh mẽ công cuộc dân chủ hóa. Ðây là một quan điểm
hấp dẫn, đặt căn bản trên những cái nhìn thấu suốt của lý
thuyết về hiện đại hóa; chúng thường bị sỉ vả nhưng vẫn được
nhiều người ưa chuộng. Tuy thế, sự thật thì phát triển xã
hội và kinh tế chưa là đáp ứng “tự nhiên” đưa dân chủ tới
gần: trong khi bị liên quan tới các cấp độ phát triển, dân
chủ cũng là những diễn tiến chính trị rất cá biệt, được thúc
đẩy một cách cá biệt bởi những người làm chính trị (cả bên
trong lẫn bên ngoài chế độ). Ðảng Cộng sản Trung Quốc biết
như thế nên nó hành động để ngăn chặn những yêu cầu mang
tính tổ chức đang dậy lên từ bên ngoài Đảng nhằm mục đích
thay đổi chính trị.
Chiến lược của Ðảng Cộng sản Trung Quốc gồm hai mũi giáp
công: nung đúc những quan hệ nặng tính liên hiệp và đồng
thời bổ dụng giới tinh hoa kinh tế và kỹ thuật. [1] Vào đầu
thập niên 1980, thấy sự thành lập vô số các tổ chức kinh tế,
xã hội và chuyên gia, các quan chức của Đảng hoặc chính phủ
bắt đầu khống chế các chức vụ chóp bu của nhiều tổ chức đó,
cho phép nhà nước bỏ rơi ngay tức khắc những “khát vọng
chuyên chế” của nó và duy trì sự kiểm soát có liều lượng
trên các nhóm có ảnh hưởng nhất trong xã hội. [2] Vì lý do
ấy, rất ít các tổ chức đó được hưởng ngay cả mấp mé cái cấp
độ tự quản mà các kiểu mẫu có tính tiêu chuẩn hóa của “xã
hội dân sự” đòi hỏi. Có điều không tổ chức nào tìm kiếm cấp
độ tự quản ấy, vì tại Trung Quốc, tự quản thì giống như bất
lực. Thay vào đó, họ thích được nằm sâu bên trong nhà nước,
không khác gì ý thích của các tổ chức tương tự tại hầu hết
các nước Ðông Á và các xứ đang phát triển. [3]
Trong khi đó, Ðảng tuyển mộ loại chuyên gia kinh tế và kỹ
thuật cần thiết để đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa kinh tế.
Ở đây, lý do cơ bản tự nó có hai nếp gấp: thứ nhất, Ðảng
Cộng sản Trung Quốc muốn được móc nối với những loại người
nó cần để thúc đẩy tăng trưởng liên tục mà vốn là nguồn gốc
chủ yếu của lời tuyên xưng đương đại của Ðảng về sự cai trị
có tính chính thống của nó. Thứ hai, Ðảng Cộng sản Trung
Quốc muốn ngăn chặn những nỗ lực phát xuất từ các nhóm tinh
hoa mới này nhằm hoặc thành lập các nhóm của chính họ trong
vị trí đối lập với Ðảng hoặc đứng chung hàng ngũ với những
kẻ đối lập với chế độ. Loại bổ dụng này không giống với lối
xây dựng Đảng từ trước tới nay của Ðảng Cộng sản Trung Quốc
với đối tượng Đảng là người dân thường - chủ yếu là người
lao động và nhà nông - và tiến hành công tác đó bằng việc
lập các tiểu tổ tại chỗ họ sinh sống và làm việc. Nhưng hiện
nay, Ðảng ngày càng đặc biệt ra sức nhấn mạnh tới những
người có tài năng phát triển kỹ thuật và doanh nghiệp: trong
khi có khoảng 5% dân số tùy thuộc vào Ðảng thì tỉ lệ đảng
viên trong giới doanh gia tư nhân từ 13% năm 1993 lên tới
khoảng 20% năm 2000. Ngược lại, các công nhân kỹ nghệ và
nông nghiệp hiện nay chiếm phần thiểu số trong tổng số đảng
viên, họ từ 63% năm 1994 xuống còn 45% năm 2002. Ðảng cũng
tạo ưu tiên để thu hút các chuyên gia có học. Tỉ lệ đảng
viên có trình độ giáo dục trung học hoặc cấp cao hơn từ
17.8% năm 1984 lên tới 52.5% năm 2002. Và trong Ban Chấp
hành Trung ương của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, tỉ lệ các ủy
viên có bằng đại học hoặc cao đẳng từ 55.5% năm 1982 lên tới
98.6% năm 2002, còn tỉ lệ của những người có bối cảnh kỹ
thuật (nghĩa là khoa học, kỹ thuật hoặc quản trị) từ chỉ 2%
năm 1982 lên tới 57% năm 1997. Cả 9 ủy viên của Ban Thường
vụ Bộ Chính trị được tuyển chọn hồi tháng Mười Một năm 2002
đều là chuyên gia khoa học kỹ thuật.
Hậu quả của những chuyển đổi này là Ðảng Cộng sản Trung Quốc
tái định nghĩa mối quan hệ của nó với xã hội Trung Quốc -
một sự tái định nghĩa được diễn tả bằng khẩu hiệu “Tam đại
biểu - Ba đại diện”: Thay vì mô tả mình đơn giản là người
tiên phong của giai cấp vô sản, Ðảng lúc này tuyên bố đại
diện cho:
1. “các lực lượng sản xuất tiên tiến” của xã hội, nghĩa là đặc
biệt các giai cấp trung lưu thành thị càng ngày càng đông
đảo, gồm các nhà kinh doanh, các chuyên viên, các chuyên gia
kỹ thuật cao;
2. sự cổ vũ “văn hóa tiên tiến”, như đối lập với những truyền
thống “phong kiến” hoặc chủ nghĩa duy vật chất hiện đại; và
3. các quyền lợi của đại đa số nhân dân Trung Quốc. Chính sự
tái định hướng này của Ðảng,
hơn bất cứ những sắp xếp việc kế thừa được định chế hóa ở
cấp thượng đỉnh, tạo ra tiềm năng thật sự cho sự thay đổi
chính trị.
Cấm hay không cấm
Cả hai sách lược ấy đều có nguy cơ: một đằng, các tổ chức
mới có thể tự triển khai bản sắc của chúng và từ khước quyền
lãnh đạo của Ðảng; đằng khác, các đảng viên mới ấy có thể
đẩy Ðảng tới hướng tuyệt thông với các thành phần cơ bản và
chính thống của nó. Và quả thật, chính những quan tâm này
làm dậy lên những cuộc tranh luận hiềm khích bên trong Ðảng
Cộng sản Trung Quốc suốt thập niên 1980, đặc biệt về tư cách
đảng viên của doanh gia. Vào tháng Tám năm 1989 - không lâu
(cũng không phải ngẫu nhiên) sau khi chế độ buộc lòng phải
đàn áp những cuộc biểu tình thân dân chủ của quần chúng
trong năm đó tại Bắc Kinh và hàng trăm thành phố khác ở
Trung Quốc - các lãnh tụ chính thống của Ðảng Cộng sản Trung
Quốc cấm ngặt việc kết nạp doanh gia. Lệnh này làm chậm lại
sự sinh sôi nảy nở của thành phần doanh gia trong Ðảng nhưng
còn lâu lắm mới chấm dứt được sự kết nạp đó: các viên chức
Ðảng địa phương thường làm lơ lệnh cấm ấy, trong khi các
đảng viên hiện hành thì xói mòn nó bằng việc bản thân họ
càng ngày càng đi vào doanh nghiệp tư nhân.
Suốt thập niên 1990, tính chất thích đáng hay không của lệnh
cấm ấy được thảo luận kỹ lưỡng trên các tạp chí của Ðảng
Cộng sản Trung Quốc. Người ủng hộ thì ghi nhận sự mâu thuẫn
giữa các biểu đồ nhân số đang thay đổi của Ðảng và truyền
thống xã hội chủ nghĩa trong việc ủng hộ các quyền lợi của
người lao động, đặc biệt của tầng lớp nông dân, chống lại
những kẻ thuộc về tư bản tư nhân, đồng thời cảnh cáo rằng số
lượng ngày càng tăng các doanh gia ở trong Ðảng đang xói mòn
tính chặt chẽ của Ðảng và thậm chí đang đe dọa sự sống còn
của Ðảng. Người chống lại lệnh cấm thì đưa lời tranh cãi
thực dụng hơn. Họ tuyên bố, các doanh gia mới này sở dĩ
thành công là do bởi các chính sách của Ðảng, và không nên
trừng phạt họ vì họ làm theo chính sách của Ðảng; thêm nữa,
sự thành công của họ làm lợi cho Đảng và cho đất nước bằng
việc tạo ra công ăn việc làm mới và gia tăng sự thịnh vượng
chung, qua đó nâng cao tính chính thống của chế độ; và cuối
cùng, nếu các doanh gia tiếp tục bị cấm vào Ðảng thì lúc đó
họ có khả năng tổ chức chống lại Ðảng, vì các tài nguyên
kinh tế ngày càng tăng của họ sẽ chuyển đổi, một cách không
tránh được, thành sức mạnh hoặc ảnh hưởng chính trị.
Vào ngày 1 tháng Bảy năm 2001, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập
Ðảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Giang Trạch Dân chính
thức thúc giục hủy lệnh cấm đó - nhưng ông thất bại, kể cả
việc giải quyết vấn đề đó. Các sách báo xuất bản dùng đường
lối Mác-xít chính thống để phê bình kịch liệt và chỉ trích
rằng lời phát biểu ấy của họ Giang làm hại quyền lợi của
Ðảng Cộng sản Trung Quốc, rồi họ đi rất xa tới độ cáo buộc
ông vi phạm kỷ luật Ðảng qua việc đề nghị một sáng kiến gay
cấn như thế mà không có sự xem xét cặn kẽ và thích đáng
trong nội bộ Ðảng. Giang phản ứng bằng cách đóng cửa các tạp
chí đó và như thế, bịt miệng tiếng nói công khai của chủ
nghĩa Mác chính thống của Ðảng. Trong kỳ họp quốc hội tháng
Mười Một năm 2002, đề nghị kết nạp doanh gia và lý thuyết
của họ Giang về “tam đại biểu” được ghi bổ sung vào bản Hiến
pháp nhưng cuộc tranh luận ấy vẫn tiếp tục nơi hậu trường.
Kẻ chống lại sự bổ sung đó thì tranh cãi rằng chính sách
kinh tế mới của Trung Quốc làm chuyển thể xã hội Trung Quốc
và có nguy cơ tạo ra sức ép chính trị theo một cách thức và
trên một qui mô mà sẽ đưa sự cai trị của Ðảng tới một chung
cuộc. Người ủng hộ thì phản bác rằng việc đi theo định nghĩa
mới về vai trò của Ðảng và việc mở hàng ngũ Ðảng ra cho các
quyền lợi kinh tế đa dạng của Trung Quốc đương đại (mà trong
quá khứ, nhiều đại diện của nó bị bức hại như là các “kẻ thù
của giai cấp”) sẽ giúp tăng cường chứ không làm tiêu hao
quyền cai trị của Ðảng.
Cùng lúc đó, hiện ra rõ ràng trước mắt là các tổ chức quần
chúng của Ðảng đang bị phân rã. Trong khi Ðảng có mặt ở mọi
chốn lao động của nền kinh tế qui hoạch thuở trước, thì nay
rõ ràng là nó vắng mặt tại những chốn lao động của khu vực
tư nhân đang ngày càng tăng. Ðảng Cộng sản Trung Quốc nay
chỉ phát triển được cơ sở không tới 1% trong hơn một triệu
rưỡi các xí nghiệp tư nhân đang xuất hiện trên toàn xứ sở và
nó chỉ tuyển mộ được một ít đảng viên trong các lực lượng
lao động. Ở nông thôn, đất sống của 70% trong tổng số 1.3 tỉ
dân số Trung Quốc, vào giữa thập niên 1990, Ðảng tuyên bố có
một nửa các tổ chức nông thôn của Ðảng không hoạt động vì
hiếm có người chịu gia nhập Ðảng. Dù Ðảng bỏ ra nhiều nỗ lực
để tái tiếp tế sinh lực cho các cơ sở của mình ở nông thôn,
những báo cáo về tình trạng èo uột của chúng và mức gia nhập
thấp vẫn tiếp tục được gởi lên trên và chuyền quanh. Người
ta ước lượng có khoảng 2,5 triệu đảng viên, hầu hết là thanh
niên, đang gia nhập “dân số nổi trôi” của đám dân thiên di
tìm việc làm tại các thành phố. Như thế, sự có mặt của Ðảng
tại vùng nông thôn lại yếu ớt thêm. Ðối với hệ thống
Lênin-nít, thành tố quyết định của nó là năng lực giám sát
và phê chuẩn động thái kinh tế và xã hội; hệ thống ấy có
được ổn định hay không là tùy vào năng lực thiết yếu đó. [4]
Như Samuel P. Huntington ghi nhận, sức mạnh của bất cứ chế
độ toàn trị độc đảng nào cũng tùy thuộc, trên một qui mô
lớn, vào sức mạnh của đảng cai trị. Khi đảng suy yếu thì chế
độ mất ổn định. [5]
Liên hiệp chủ nghĩa và bổ dụng, hai sách lược song sinh của
Ðảng Cộng sản Trung Quốc có thể nói là tương tự với hai
thành tố gom vào và loại trừ của chủ nghĩa liên hiệp của nhà
nước mà Alfred Stephan nhận ra: Ðảng Cộng sản Trung Quốc
muốn gom vào nó những người nào thuộc giới tinh hoa về kinh
tế và kỹ thuật mà không đe dọa nó bằng một nghị trình chính
trị khác, đồng thời nó muốn loại trừ những người nào có khả
năng đe dọa nó; Ðảng muốn gom vào nó các phần tử nào, các
mảng nào của xã hội dân sự đang xuất hiện mà kinh tế là
quyền lợi chủ yếu của chúng không thành vấn đề đối với nó;
cùng lúc đó, Ðảng loại trừ và thỉnh thoảng đàn áp các phần
tử thích tranh luận chính trị và có nhiều khả năng tạo ra
thách đố cho Ðảng, thí dụ, Ðảng Dân chủ Trung Quốc hoặc Pháp
Luân Công, một tập đoàn gần như có tính cách tôn giáo và hấp
dẫn quần chúng. Như Michael W. Foley và Bob Edward ghi nhận,
nếu một xã hội dân sự đầy khí lực là thiết yếu cho các nền
dân chủ ổn định thì nó lại có khuynh hướng tạo thành nguy cơ
lớn lao cho các chế độ toàn trị. [6] Ðảng Cộng sản Trung
Quốc nhận thức rất rõ sự dị biệt giữa lãnh vực kinh tế bên
trong xã hội dân sự của Trung Quốc, một lãnh vực mà quyền
lợi của nó tương hợp với quyền lợi của Ðảng, với lãnh vực
chính trị nhỏ hơn mà nguy hiểm hơn đang tiềm tàng sự thách
đố. [7] Sách lược mà Ðảng Cộng sản Trung Quốc vạch ra là ôm
chặt lãnh vực kinh tế, trấn áp lãnh vực chính trị, và ngăn
chặn sự ly khai chống lại Ðảng của giới tinh hoa kỹ thuật và
kinh tế. Như kẻ đánh bạc liều lĩnh, Ðảng cho rằng sách lược
ấy là đúng đắn và có thể thực hiện lâu dài, nhưng như Ken
Jowittt đã cảnh cáo, rằng chính giai đoạn gom vào này có thể
là bước đi trước làm tuyệt chủng, một cách giản dị, các đảng
Lênin-nít hơn là ngăn chặn sự tuyệt chủng đó. [8]
Cái gì đang lâm nguy
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang héo hon vì những đe dọa đối
với sự ổn định của hệ thống của họ. Thật không dễ thấy sự
mỏng manh của Ðảng Cộng sản Trung Quốc vì từ năm 1989 tới
nay, nó không phải đối mặt với một thách đố trực tiếp nào
trong lúc phải xoay xở để sống sót với những phí tổn cực lớn
cho uy tín của nó ở bên trong Trung Quốc và tiếng tăm của nó
ở hải ngoại. Kể từ lúc đó, những người phản kháng cũng thận
trọng để sống sót dưới hình thức tổ chức lỏng lẻo và không
liên kết nhau, đồng thời tránh việc chất vấn về căn bản
chính thống của hệ thống chính trị của chế độ hiện hành.
Nhưng bất chấp những thận trọng đó, sự phản kháng đang ngày
càng tăng trên khắp xứ sở, ở cả thành thị lẫn nông thôn. [9]
Hầu hết những sự cố ấy đều liên quan tới các vấn đề cơ bản:
tiền lương không trả, hợp đồng bị cắt ngang, tịch thu tài
sản, đánh thuế phi pháp, các giấy hẹn thay cho tiền mặt dùng
chi trả các hợp đồng cung cấp lúa gạo và các loại thực phẩm
khác, và vân vân. Ðảng Cộng sản Trung Quốc đối phó lại bằng
một hỗn hợp củ cà rốt và cây gậy, vừa đáp ứng các yêu cầu về
tiền bạc của những người phản kháng, vùa bắt bỏ tù những kẻ
đứng đầu các cuộc phản kháng.
Một cách kiên quyết và thỉnh thoảng tàn nhẫn, Ðảng bảo vệ sự
độc quyền của nó đối với các hội đoàn có tính chính trị.
Thậm chí một phong trào cực kỳ vô hại như phong trào khuyến
khích sinh viên bảo vệ môi sinh bằng cách đừng dùng loại đũa
chỉ dùng một lần, cũng đã cẩn thận không tự tổ chức mình, vì
sợ bị đánh giá là một nhóm có tiềm năng đối lập và rồi những
người đứng đầu phong trào có nguy cơ bị đuổi học hoặc thậm
chí bị bỏ tù. Sự vắng mặt các cuộc phản kháng có qui mô lớn
sau một thập niên có những gương mẫu đặc biệt - từ Bức tường
Dân chủ năm 1978-79 tới những cuộc phản kháng của đại chúng
tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 - không thể được đánh
giá một cách đáng tin cậy là dân chúng đang mãn nguyện,
nhưng đó chỉ là phản ứng “có lý trí” trước một chế độ từng
chứng tỏ nó “máu lạnh” tới ngần nào trong ý chí trấn áp và
khả năng trấn áp những ai đòi hỏi thay đổi chính trị sâu
rộng hơn. [10] Dù chế độ ra sức đặt căn bản tính chính thống
của nó trên sự phát triển kinh tế, nhưng đi kèm với phát
triển kinh tế là sự gia tăng của tham nhũng và bất bình
đẳng, mỉa mai thay, cùng lúc, đã và đang xói mòn tính chính
thống. Có điều tự thân sự ủng hộ yếu ớt mà nhân dân đang
dành cho Ðảng không đe dọa nền cai trị của Ðảng. Như Adam
Przeworski tranh cãi rằng: Sự chú ý mà người ta dành cho
“tính chính thống” của một chế độ thường bị đặt sai chỗ: cái
quan trọng hơn (sự ủng hộ của nhân dân) là sự thiếu vắng cái
có khả năng thay thế có hiệu quả. [11] Và Ðảng Cộng sản
Trung Quốc thành công trong việc ngăn chặn cái có khả năng
thay thế nó. Nó bằng lòng chấp nhận con số ngày càng tăng
những cuộc biểu tình rời rạc, trong chừng mực chúng đừng
hiệp nhất hoặc tổ chức thành nhóm quyền lợi xã hội có thể
hoạt động lâu dài. Ðiều ấy cho phép Ðảng tiếp tục đàn hồi,
khi co khi giãn, trong việc tối thiểu hóa nhu cầu thích nghi
về chính trị. Nhưng nó cũng có ý nghĩa rằng không có một lực
lượng xã hội tự quản và chặt chẽ mà khi lâm vào thời kỳ
khủng hoảng, Ðảng có thể thương thảo với nó để hoặc đưa tới
một giải pháp êm thắm hoặc một sự chuyển tiếp được “thỏa
ước” rất đỗi khó khăn.
Thay đổi chính trị và xã hội đang diễn ra tại Trung Quốc có
những hệ quả chính trị nào? Suốt kỷ nguyên sau Mao, nhiều
người quan sát ghi nhận sự bất tương hợp của các định chế
Lênin-nít và nền kinh tế thị trường đang tăng trưởng; họ
tiên liệu rằng tới một lúc nào đó, các hệ thống chính trị và
kinh tế ấy sẽ đưa tới một hòa điệu căn bản, có thể bằng cải
cách có tính dân chủ hơn là bằng sự khôi phục việc qui hoạch
có tính tập trung. Cho tới lúc này, Ðảng Cộng sản Trung Quốc
đang gây trở ngại cho các kỳ vọng đó và sự bất tương hợp ấy
vẫn còn. Dù vậy, nhiều người quan sát vẫn tiếp tục mường
tượng rằng công cuộc chuyển thể Trung Quốc thành một thực
thể dồi dào sinh lực với tiềm năng thương mại lớn lao cuối
cùng sẽ đưa tới sự chuyển tiếp dân chủ tương đối êm thắm.
[12] Nhưng không phải ai cũng lạc quan như thế. Những khủng
hoảng kinh tế và tài chánh đang hiện ra lờ mờ ở Trung Quốc
khiến một số người tiên đoán sự sụp đổ của chính quyền Trung
Quốc, dù trong số những người ấy chẳng ai có tham vọng tiên
đoán sự sụp đổ ấy sẽ xảy ra vào thời điểm nào hoặc sau sự
sụp đổ sẽ là cái gì. [13]
Cả hai viễn ảnh kể trên đều bỏ sót các khía cạnh quan trọng
của toàn cảnh. Người tin rằng sự chuyển thể chế độ của Trung
Quốc đi liền với, một cách không tránh được, sự hiện đại hóa
kinh tế, đã không để ý tới vấn đề tác nhân trung gian -
nghĩa là vấn đề ai sẽ lãnh đạo cuộc chuyển thể và nó sẽ cho
cuộc chuyển thể đó một hình thù như thế nào; trong bối cảnh
toàn trị, sự dân chủ hóa là kết quả không thể tránh của sự
tăng trưởng kinh tế hơn là hậu quả hành động của các lãnh tụ
chính trị bên trong chế độ và các lực lượng dân chủ bên
ngoài xã hội nói chung. Hầu hết các doanh gia tư nhân và
giới tinh hoa kỹ thuật của Trung Quốc đều cho thấy họ ít
quan tâm tới việc cổ vũ cho dân chủ hóa. Cộng đồng của những
người bất đồng chính kiến tại Trung Quốc đã và đang bị Ðảng
xói mòn rất hiệu quả bằng cách bỏ tù hoặc trục xuất ra nước
ngoài những lãnh tụ nổi tiếng nhất; trong khi đó, giữa các
lãnh tụ ấy lại có xung khắc cá nhân và không tín nhiệm nhau
- đặc biệt giữa những người sống lưu vong - gây trở ngại cho
một sự hợp tác có hiệu quả hoặc tuyên truyền một thông điệp
hợp nhất.
Xét theo chuỗi tình huống ấy thì thật khó xác định một trung
gian nào có khả năng làm tác nhân cho công cuộc đổi thay
chính trị có tính dân chủ. Mặt khác, người tiên đoán sự sụp
đổ của chế độ cộng sản thì không để ý tới những tài nguyên
chính trị mà Ðảng hiện có: các tổ chức có tính chính trị,
nghĩa là sự tiếp tục vắng mặt của tổ chức đối lập, và sự
tiếp tục chấp nhận Ðảng Cộng sản Trung Quốc của hầu hết nhân
dân Trung Quốc như một loại hình sinh hoạt chính trị độc
nhất hiện có trong nước. Cùng lúc ấy, Ðảng tiếp tục là nguồn
bảo trợ chủ yếu cho công ăn việc làm và các cơ hội kinh
doanh. Ðảng cũng đang tự quấn quanh thân nó lá quốc kỳ Trung
Quốc giữa lúc lòng yêu nước đang gia tăng, biến sự phê bình
Ðảng thành một hành động trông có vẻ không ái quốc. Thêm
nữa, Ðảng làm cho quần chúng nản lòng ủng hộ sự đổi thay
chính trị bằng sự nơm nớp sợ hãi rằng sẽ có tình trạng bất
ổn đi liền với công cuộc dân chủ hóa. Và nhiều người tại
Trung Quốc chấp nhận lời tuyên bố của Ðảng Cộng sản Trung
Quốc rằng chế độ dân chủ thì không thích hợp với nền văn hóa
Trung Quốc, vì thế, làm giảm thiểu thêm nữa cái sức ép buộc
Ðảng phải cam kết cải cách chính trị sâu rộng hơn.
Loay hoay mày mò mãi
Trong các điều kiện ấy, kịch bản có khả năng xảy ra nhất về
một tương lai có thể thấy trước là Ðảng Cộng sản Trung Quốc
loay hoay mãi với sách lược thích nghi có giới hạn của nó,
liên hiệp các quyền lợi mới trong khi đề kháng sức ép của
khát vọng thay đổi chính trị. Ðây không chỉ là kịch bản có
khả năng xảy ra nhất mà còn là kịch bản tốt lành nhất đối
với Ðảng Cộng sản Trung Quốc, vì những đổi thay đang diễn ra
về xã hội và chính trị có khuynh hướng làm tiêu hao hơn là
làm vững mạnh địa vị đảng cai trị của nó. Có khả năng xảy ra
là sự tăng trưởng kinh tế và tư nhân hóa sẽ làm Ðảng suy yếu
qua sự tiếp tục băng hoại của các tổ chức quần chúng của
Ðảng và sự tiếp tục suy yếu khả năng của Ðảng trong việc
giám sát và kiểm soát các khuynh hướng xã hội đang chiếm ưu
thế.
Trong khi Trung Quốc đang kinh qua cải cách chính trị nhiều
hơn các nhà quan sát thừa nhận, [14] thì sự qui hoạch cải
cách đó làm cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu hơn chứ
không làm cho nó đáp ứng hơn sức ép đòi thay đổi của xã hội.
Cùng lúc đó, không thể chối cãi rằng các sức ép ấy đang gia
tăng. Câu hỏi là liệu Ðảng Cộng sản Trung Quốc có thể điều
tiết chúng trong khuôn khổ Lênin-nít thiếu yếu của nó hay
không. Và căn cứ vào lịch sử của Ðảng Cộng sản Trung Quốc và
kinh nghiệm của các đảng Lênin-nít khác, câu trả lời có khả
năng là không. Trước hết, chủ nghĩa Lênin bất tương hợp với
sự xuất hiện một xã hội dân sự chính cống; khát vọng chủ yếu
của các đảng ấy là nhấn mạnh lên đường dọc của quyền lực và
ngăn chặn các loại dây liên kết hàng ngang của các tổ chức
tự trị vốn là nền tảng của xã hội dân sự. Thứ đến, Trung
Quốc thiếu các định chế có khả năng làm kênh vận chuyển sự
tham gia chính trị mà yêu cầu mỗi ngày một tích cực hơn.
Chính xác là vì Ðảng Cộng sản Trung Quốc quá hữu hiệu trong
việc bảo vệ độc quyền chính trị của nó và việc trấn áp thật
sự các tổ chức tự quản nên sự phản kháng của quần chúng có
khuynh hướng leo thang, và tới khi xảy ra thì nó vượt quá
tầm kiểm soát. Hễ lúc nào Ðảng Cộng sản Trung Quốc tỏ vẻ
đang cân nhắc hoặc đang khích lệ cải cách chính trị thì lúc
đó, các biến cố xảy ra trầm trọng thêm từng ngày cho tới khi
lãnh đạo Ðảng cảm thấy bị thúc ép phải ra tay đàn áp các
phong trào cá biệt của quần chúng đang tạo sức ép đòi cải
cách. Ðiều này rất đúng với thời kỳ Bức tường Dân chủ năm
1978-79, với những thử nghiệm các cuộc bầu cử địa phương đầu
thập niên 1980, với những cuộc biểu tình của sinh viên năm
1986-87, và thêm lần nữa, với thời kỳ có những cuộc biểu
tình tại Quảng trường Thiên An Môn và những nơi khác năm
1989. Ngày nay, bất chấp thực tế đang diễn ra sự giải phóng,
các nhà lãnh đạo Trung Quốc miễn cưỡng thảo luận công khai
về khả năng có sự cải tổ chính trị được bảo trợ một cách
chính thức vì họ sợ mình sẽ thêm lần nữa mở chiếc cửa ngăn
không cho lũ lụt tràn vào.
Như thế, Ðảng Cộng sản Trung Quốc bị thúc ép bởi các hành
động của nó trong quá khứ và đặc biệt bởi các quyết định của
nó nhằm trấn áp sự phản kháng chính trị có tổ chức và nhằm
ngăn chặn sự hình thành các tổ chức tự quản. Lãnh đạo Ðảng
biết điều đó, và họ cẩn thận phối trí những chuẩn bị việc kế
thừa, thiết kế các sách lược về chủ nghĩa liên hiệp có giới
hạn và về bổ dụng để làm nản lòng những ai đang nuôi hy vọng
rằng có khả năng sớm xảy ra một cuộc cải tổ chính trị nào
đó. Một số nhà lãnh đạo toàn trị, bằng những thiết kế khác,
đã đánh giá quá cao sự ủng hộ của quần chúng, với niềm tin
rằng mình sẽ sống sót và khởi sắc. [15] Nhưng không có vẻ
như giới lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có một
quyết định sai lầm chiến thuật như thế.
Hệ quả là các viễn ảnh về một nền dân chủ tại Trung Quốc thì
liên quan trực tiếp tới chính số phận của Ðảng Cộng sản
Trung Quốc. Có vẻ như Trung Quốc không kinh qua sự dân chủ
hóa cùng với sự liên tục của chế độ như Ðài Loan và Mexico
đã làm. [16] Nghĩa là, cho dù Ðảng Cộng sản Trung Quốc có
thể sống sót dưới một hình thức nào đó sau cuộc chuyển tiếp,
và cho dù nhiều quan chức của Ðảng có thể ở lại một cách
tích cực trong một chế độ hậu cộng sản - như trường hợp
nhiều chính phủ ở Ðông Âu và cựu Liên Xô - nếu đất nước
Trung Quốc có trở thành dân chủ thì cốt yếu nằm ở chỗ Ðảng
Cộng sản Trung Quốc phải chi trả phí tổn cho cuộc chuyển
tiếp đó. Chỉ sự suy thoái của Ðảng Cộng sản Trung Quốc mà
thôi thì không đặt được quá trình tiến tới dân chủ cho bất
cứ tương lai hậu cộng sản nào. Nhiều nơi ở châu Á đang có
“nền dân chủ hẹp hòi”, và một nền dân chủ được củng cố đầy
đủ thì hầu như không là tiêu chuẩn trong phần còn lại của
thế giới hậu cộng sản. [17] Như hết thảy chúng ta đều thấy
trong nhiều trường hợp, sự kết liễu của chủ nghĩa cộng sản
không bảo đảm cho sự bắt đầu một chế độ dân chủ.
-------------------
Bruce J. Dickson là phó giáo sư môn khoa học chính trị và
các sự vụ quốc tế tại Ðại học George Washington. Ông là tác
giả bảy cuốn sách về Trung Quốc, trong đó dặc biệt có Red
Capitalism in China: The Party, Private Entrepreneurs, and
Prospect for Political Changes (Chủ nghĩa tư bản đỏ tại
Trung Quốc: Đảng, các doanh gia và viễn ảnh thay đổi chính
trị, 2003) và Democratization in China and Taiwan: The
Adapbility of Leninist Parties (Dân chủ hóa tại Trung Quốc
và Ðài Loan: khả năng thích nghi của các đảng Lênin-nít,
1997), và là biên tập viên cộng tác của tạp chí Problems of
Post-Communism (Các vấn đề thời hậu cộng sản).
____________
[1]Xem: Ken Jowitt, New World Disorder: The Leninist
Extinction (Vô trật tự thế giới mới: sự tuyệt chủng của
những người theo thuyết Lê-nin), Berkeley: University of
California Press, 1992, 88-120. Cũng xem cuốn của tôi: Red
Capitalists in China: The Party, Private Entrepreneurs, and
Prospects for Political Change, New York: Cambridge
Univerity Press, 2003.
[2]Xem: Gordon White, Jude Howell và Shang Xiaoyuan, In
Search of Civil Society: Market Reform and Social Change in
Contemporary China (Ði tìm xã hội dân sự: Cải cách có tính
thị trường và thay đổi xã hội tại Trung Quốc đương đại),
Oxford: Oxford University Press, 1996; Mixin Pen, “Chinese
Civic Assosiation: An Empirial Analysis,” Modern China 24:
(“Hội đoàn công dân tại Trung Quốc: một phân tích theo kinh
nghiệm,” Tạp chí Trung Quốc hiện đại số 24, tháng Bảy 1998),
285- 318; Tony Saich, “Negotiating the State: The
Development of Social Organizations in China,” China
Quartely 03.2000 (Thương thảo với nhà nước: sự phát triển
các tổ chức xã hội tại Trung Quốc,” Trung Quốc Quí San tháng
Ba 2000), 124-41.
[3]Xem: Peter Evans, Embedded Autonomy: States and
Industrial Transformation (Sự tự quản bị giữ riết: Nhà nước
và sự chuyển thể kỹ nghệ), Princeton: Princeton University
Press, 1995.
[4]Andrew G. Walder, “The Decline of Communist Power:
Elements of a Theory of Institutional Change”, Theory and
Society 23 (“Sự sa sút của quyền lực Cộng sản: các yếu tố lý
thuyết về thay đổi định chế,” Tạp chí Lý thuyết và Xã hội số
23, tháng Tư 1994), 297-323.
[5]Samuel P. Huntington, “Social and Institutional Dynamics
of One-Party Systems” (Các động lực có tính xã hội và định
chế của các hệ thống độc đảng), trong: Samuel P. Huntington
và Clement H. Moore (biên tập), Authoritarian Politics in
Modern Society: The Dynamics of Established One-Party System
(Sinh hoạt toàn trị trong xã hội hiện đại: Các hệ thống độc
đảng đã được thiết lập), New York: Basic Books, 1970, 9.
[6]Michael W. Foley và Bob Edwards, “The Paradox of Civil
Society”, Journal of Democracy 7 (“Nghịch lý của xã hội dân
sự”, Tạp chí Dân chủ số 7, Tháng Bảy 1996), 38-52.
[7]Yanqi Tong, “State, Society, and Political Change in
China and Hungary,” Comparatives Politics 26 (“Nhà nước, xã
hội và thay đổi chính trị tại Trung Quốc và Hungary,” Tập
san Chính trị học đối chiếu số 26, tháng Tư 1994); White,
Howell và Shang, In Search of Civil Society.
[8]Ken Jowitt, New World Disorder.
[9]Elizabeth J. Perry và Mark Selden (biên tập), Chinese
Society: Change, Conflict, and Resistance (Xã hội Trung
Quốc: thay đổi, xung khắc và đề kháng), New York: Routledge,
2000; Thomas Bernstein và Xiaobo Lu, Taxation without
Representation in Contemporary Rural China (Ðánh thuế mà
không có tiêu biểu tại nông thôn Trung Quốc đương đại), New
York: Cambridge University Press, sắp xuất bản.
[10]Timur Kuran, “Now Out of Never: The Element of Surprise
in the East European Revolution of 1989", World Politics 44
(Ngày nay tưởng chẳng bao giờ: yếu tố ngạc nhiên trong cuộc
cách mạng Ðông Âu năm 1989,” Tạp chí Chính trị thế giới số
44, tháng Mười một 1991, 7-48.
[11]Adam Przeworski, “Some Problems in the Transition to
Democracy” (Một số vấn đề trong cuộc chuyển tiếp tới dân
chủ), trong: Guillermo O’Donnell, Philippe C. Schitter, and
Laurence Whitehead (biên tập), Transitions from
Authoritarian Rule, Vol. 3: Comparative Perspectives (Các
cuộc chuyển tiếp từ nền cai trị toàn trị, Cuốn 3: Ðối chiếu
các viễn cảnh) Baltimore: Johns Hopkins University Press,
1986.
[12]Henry S. Rowen, “The Short March: China’s Road to
Democracy”, National Interest Fall 1996 (“Cuộc di hành ngắn
ngủi: đường tới dân chủ của Trung Quốc”, tập san Quyền lợi
quốc gia, số Mùa thu 1996), 61-70; Shaohua Hu, Explaining
Chinese Democratization (Cắt nghĩa sự dân chủ hóa Trung
Quốc), Westport, Conn.: Praeger, 2000; David Sheff, China
Dawn: The Story of a Technology and Business Revolution
(Bình minh ở Trung Quốc: Câu chuyện cuộc cách mạng kỹ thuật
và doanh nghiệp), New York: Harper Business, 2002.
[13]Gordon G. Chang, The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ
đang tới của Trung Quốc), New York: Random House, 2001.
[14]Ðể có thêm chi tiết giải thích về các điểm này, xem:
Minxin Pei, “Is China Democratizing?” Foreign Affairs 77
(“Có phải Trung Quốc đang dân chủ hóa?”, Tạp chí Các sự vụ
quốc ngoại, số 77, tháng Giêng - tháng Hai 1998), 68-82. Pei
ít lạc quan khi nhìn tiếp vào những viễn cảnh của cuộc cải
tổ chính trị tại Trung Quốc; xem: “China’s Governance
Crisis,” Foreign Affairs 81 (“Khủng hoảng cai trị tại Trung
Quốc”, Tạp chí Các sự vụ quốc ngoại số 81, tháng Chín -
tháng Mười 2002), 96-109.
[15]Guillermo O’Donnell và Philippe C. Schmitter,
Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions
about Uncertain Democraties (Những chuyển tiếp từ nền cai
trị toàn trị: Các kết luận chưa dứt khoát về các nền dân chủ
bất định), Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986,
đặc biệt chương 6; Samuel P. Huntington, The Third Wave:
Democratization in the Late Twentieth Century (Ðợt sóng dân
chủ hóa thứ ba trong cuối thế kỷ hai mươi), Norman:
University of Oklahoma Press, 1991, 174-78.
[16]Tôi giải thích tỉ mỉ về biện luận này trong
Democratization in China and Taiwan: The Adaptability of
Leninist Parties, Oxford: Oxford University Press, 1997; và
“Taiwan’s Democratization: What Lessons for China?” (“Cuộc
dân chủ hóa của Ðài Loan: Bài học nào cho Trung Quốc?”)
trong: Muthiah Alagappa (biên tập), Taiwan’s Presidential
Politics: Democratization and Cross-strait Relations in the
Twenty-first Century (Hoạt động chính trị bầu cử tổng thống
tại Ðài Loan: dân chủ hóa và những quan hệ giao lưu đôi bờ
trong thế kỷ hai mươi mốt), Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe, 2001.
[17]Michael MacFaul, “The Fourth Wave of Democracy and
Dictatorship: Noncooperative Transitions in the
Post-Communist World,” World Politics 54 (“Ðợt sóng thứ tư
của dân chủ và độc tài: những cuộc chuyển tiếp bất liên hiệp
trong thế giới hậu cộng sản,” Tập san Chính trị thế giới số
54, tháng Giêng 2002), 212-44.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|