Kinh nghiệm toàn trị tại Trung quốc
Lời mở
đầu
Bài 1:
Những giới hạn co giãn của toàn trị - Bruce Gilley.
Bài 2: Ðe
dọa quyền tối thượng của Ðảng - Bruce J. Dickson.
Bài 3:
Những vấn đề yếu ớt của nhà nước - Shaoguang Wang.
Bài 4: Sự
bất bình đẳng mới - An Chen.
Bài 5: Ổn
định như núi lửa đang sôi - Qinglian He.
Bài 6: Thức
giấc cùng Trung Quốc - Ted C. Fishman.
Bài 5
Ổn định như núi lửa đang sôi
Hà Thanh-liên
Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ÐCSTQ) có thể kéo dài thêm bao
lâu? Liệu Trung Quốc có thể sụp đổ thành phân liệt hoặc thậm
chí nội chiến? Ðó là những câu hỏi thách thức không dễ trả
lời, và suốt mấy năm vừa qua, tôi đã nhiều lần bị đặt cả hai
câu đó, tại Trung Quốc cũng như tại hải ngoại. Trong khi
thật khó tiên liệu tương lai của Trung Quốc một cách chính
xác thì một sự dự đoán tạm thời nào đó về những thay đổi có
tính cấu trúc là điều khả dĩ.
Trung Quốc là nước độc đảng trong đó quyền lợi của chính
quyền và của ÐCSTQ không thể tách rời nhau. Suốt những năm
vừa qua, câu trả lời độc nhất mà Ðảng có trong cuộc truy
lùng nhằm duy trì trật tự dân sự là, “nhổ tận gốc trốc tận
rễ mọi nhân tố có tiềm năng gây bất ổn”. Ðảng đã và đang cần
cù hoạt động để tạo một hiện thực trong đó không lực lượng
có tổ chức nào có khả năng thay thế sự cai trị của cộng sản.
Theo quan điểm của ÐCSTQ, cái chết của Ðảng chỉ mang một ý
nghĩa độc nhất, đó là cái chết của chính Trung Quốc.
Hai hệ quả tưởng như hợp lô-gic là, chúng ta phải chịu đựng
sự kiện ÐCSTQ sử dụng “cải cách” như một kỹ xảo để ngăn chặn
bất ổn và sụp đổ, và chúng ta phải chấp nhận công thức “nền
kinh tế thị trường cộng với nền cai trị toàn trị” của ÐCSTQ.
Sự xây dựng kịch bản ấy thuận lợi cực kỳ cho mục tiêu của
Ðảng là ổn định tư thế của nó trong cộng đồng quốc tế, đổi
lại, cộng đồng ấy chấp nhận và thực hiện một chính sách nhân
nhượng vô nguyên tắc đối với Trung Quốc. ÐCSTQ rất hài lòng
vì những lời kêu gọi Trung Quốc cải thiện thành tích nhân
quyền và hoạt động để ngày càng dân chủ hơn đang từ từ yếu
dần, hơn bao giờ hết. Từ năm 2000, cộng đồng quốc tế có phản
ứng lập lờ đối với sự kém cỏi và chông chênh của Giang Trạch
Dân vì họ hy vọng rằng sự chuyển giao quyền lực cho các lãnh
tụ Ðảng thuộc thế hệ sắp tới sẽ nuôi lớn các nhân tố “lành
mạnh” ở bên trong ÐCSTQ và đẩy mạnh sự ổn định.
Lối tiếp cận ấy quá đặt trọng tâm trên sức mạnh độc quyền
của Ðảng, không để ý tới các thành tố tạo nên sự ổn định
thật sự. Các thành tố ấy bao gồm những giới hạn việc bóc lột
môi trường và sinh thái cũng như sự lập thành các giá trị
luân lý đạo đức, có thể dùng làm những điểm chuẩn cho xã hội
như một tổng thể. Nếu hệ sinh thái thực vật và môi trường
trong đó chúng hiện hữu, là nền tảng vật lý cho sự sống còn
của một quốc gia và nhân dân của nó thì đạo đức và những bài
giảng về đạo đức cũng làm điều tương tự trên cấp độ tinh
thần. Xã hội nào cũng cần một “sinh thái đạo đức” lành mạnh
để giữ vững nó theo những cách không chính thức nhưng có
thật, không bị nắm bắt bởi tiêu điểm rất đơn thuần
trong luật pháp thành văn và các định chế chính thức.
Một môi trường đang khủng hoảng
Trung Quốc ngày nay bị đe dọa ghê gớm bởi sự ô nhiễm trầm
trọng, thậm chí đe dọa tới mạng sống con người. Từ ngày Ðảng
cầm quyền, môi trường của Trung Quốc bị tước đoạt bừa bãi;
dù những cuộc cải cách kinh tế có thành tựu được gì đi nữa,
rõ ràng chúng đã làm tăng tốc độ bóc lột ấy. Sử dụng tràn
lan phân bón hóa học làm đất canh tác ngày càng bớt màu mỡ
trong khi độ nhiễm mặn và thoái hóa đất đai nói chung làm
giảm chất lượng của đất tại các khu vực rộng lớn của đất
nước. Ngày nay, hoang mạc phủ 38% tổng thể đất đai của Trung
Quốc, như là hậu quả của việc sử dụng đất một cách hư hoại,
và hiệu suất của đất canh tác đã căng hết mức giới hạn của
nó, đưa tới một tình trạng tồi tệ tiềm ẩn tai họa. Tài
nguyên quặng mỏ giàu có của Trung Quốc bị tiêu phí ở mức cao
chưa từng thấy (trung bình cao gấp bốn lần tính bình quân
theo đầu người mà người ta thấy tại các nước đã phát triển
kiểu mẫu), trong khi đầu ra sản phẩm thật sự thì còm cỏi so
với đầu vào do quặng mỏ cung cấp— một dấu hiệu phung phí lớn
lao không thể chối cãi. Nếu chúng ta lấy khái niệm Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) “xanh” [1] để tính những phí tổn sinh
thái và môi trường kết hợp với thái độ theo đuổi phát triển
kinh tế của Trung Quốc thì con số bình quân trong suốt 23
năm vừa qua (1980-2002) có giá trị tiêu cực.
Nhìn theo viễn ảnh đạo đức cũng thế, Trung Quốc đang ở trong
tình trạng nghèo đạo đức. Công chức viên chức lương thiện là
biệt lệ, tham nhũng là luật lệ. Tại những lãnh vực quan hệ
tới kinh tế, có thể đo lường sự suy sụp ấy bằng sự kiện chỉ
60% các hợp đồng ở Trung Quốc được tôn trọng và sự thiếu tín
nhiệm khác thường đã và đang leo thang trong hoạt động kinh
tế nói chung.
Có thể truy nguyên nguồn gốc của tình trạng suy thoái luân
lý đạo đức ấy nơi bản chân chính quyền. Dù nó chế biến những
bản thống kê bịa đặt hoặc chế tạo ra hàng đống “báo cáo tin
tức” vẽ vời, nhà nước Trung Quốc một khi cố ý loan truyền
thông tin sai lạc thì không một ai có thể sánh nổi với nó.
Các viên chức chính quyền trở thành các nhà chuyên nghiệp
“phát biểu chính thức”: được dạy dỗ để có thái độ nhã nhặn,
ăn nói êm ái đúng với đòi hỏi của một cơ quan công cộng, họ
sử dụng các kỹ năng ấy nhân danh sự cổ động tinh ma cho
những điều dối trá. Trước khi bị kết án vì những cáo buộc
tham nhũng và tắc trách, các quan chức cao cấp, thí dụ Xương
Khả Gia, cựu phó chủ tịch quốc hội, và Trần Hy Ðồng, thị
trưởng Bắc Kinh, người nào cũng là tác giả một bộ tuyển tập
các bài diễn văn bàn về “chính quyền trong sạch”. Những bài
thuyết giảng ca ngợi tính liêm khiết công cộng và cá nhân ấy
không cho thấy dấu vết chênh lệch nào giữa lời nói ngoan đạo
của họ với thói quen của họ như nhận hối lộ, nuôi tình nhân,
lui tới với kỹ nữ, áp bức thường dân, và nói chung, bất chấp
pháp luật lẫn công luận. Với những kiểu mẫu từng đóng vai
trò chủ chốt như thế, liệu người ta có ngạc nhiên chút nào
về tác phong tội phạm đang gia tăng một cách báo động?
Ở bất cứ xử sở nào, đạo đức xã hội và ý nghĩa luân lý khái
quát đều quan trọng hơn luật pháp thành văn khi nó đạt tới
mức làm xã hội gắn bó với nhau trên căn bản hằng ngày. Ðạo
đức xã hội cung cấp cho người dân những tiêu chuẩn căn bản
về đúng và sai, điều chỉnh hạnh kiểm của họ. Tuy nhiên, ở
Trung Quốc ngày nay, các ý tưởng về đúng và sai bị mờ khuất
trong hỗn độn và hoang mang. Thí dụ, đối với các nhà kinh tế
hãnh tiến, chuyện thời thượng của họ là thừa nhận tham nhũng
và bao che nó. Kết quả là càng ngày càng trở thành trường
hợp kỳ cục tới độ chỉ có sức mạnh thô bạo của ÐCSTQ mới có
thể làm cho xã hội Trung Quốc gắn bó với nhau.
Trong các năm vừa qua, nhà nước đảng trị củng cố những
phương tiện muôn hình muôn vẻ của nó trong công tác kiểm
soát xã hội tới độ phải sử dụng bạo lực chính trị và đầy rẫy
công an mật. Các sức mạnh ấy bóp nghẹt từ trong trứng nước
bất cứ nhóm nào có tiềm năng phát triển thành một thực thể
có tổ chức, và bằng cách đó, đảng bảo đảm rằng nhân dân
Trung Quốc vẫn tiếp tục bị cầm cố trong cảnh huống thường
trực cách ly nhau — giống những hạt cát nằm trên tờ giấy —
và không cách gì triển khai được sự đề kháng có tổ chức.
Ðồng thời, chính quyền chấp nhận và thực hiện những phương
pháp chẳng vẻ vang để kiểm soát tác phong của quan chức như
các chiến dịch “chống tham nhũng”, ít liên quan tới việc
diệt trừ tham nhũngmà chỉ tạo vừa đủ một số trường hợp điển
hình để nhắc nhở các viên chức rằng nếu họ muốn sống sót thì
cách tốt vẫn là làm chiếc răng cưa hữu dụng trong bộ máy
khổng lồ của nhà nước đảng trị, đừng nói gì tới chuyện phất
lên giàu có.
Những ứng dụng mới của ý thức hệ
Nhưng điều quan trọng hơn cả là chính quyền thực hiện đúng
lúc một sách lược ý thức hệ mới; việc nhà nước tập trung
kiểm soát đời sống công cộng và tạo được sự liên minh giữa
giới tinh hoa kinh tế và trí thức. Thi hành chiến lược ý
thức mới ấy và củng cố công tác kiểm soát lãnh vực công
cộng, chính quyền Giang Trạch Dân khắc nghiệt hơn và hữu
hiệu hơn nhiều so với chính quyền Ðặng Tiểu Bình. Chính
quyền thực hiện trọn vẹn ý đồ của Giang Trạch Dân nhằm “nhổ
tận gốc trốc tận rễ mọi nhân tố có tiềm năng gây bất ổn”, và
không một tổ chức nào thật sự là quần chúng độc lập hoặc phi
chính phủ có khả năng xuất hiện trong môi trường trấn áp như
thế. Trong khi đó, xét theo vài cấp độ tinh tế, so với sự
trấn áp chính trị thẳng thừng kiểu bạo lực chuyên chính vốn
là đặïc thù của kỷ nguyên họ Mao, thì lối tiếp cận của họ
Giang âm ỉ hơn nhưng hữu hiệu hơn vì nó tính toán làm sao để
thực hiện luồn lách bên dưới tầm quan sát bén nhạy của quốc
tế đang theo dõi và sẵn sàng lên án.
Chiến lược càng cua của ÐCSTQ là bêu xấu và lăng mạ nền dân
chủ phương Tây, đồng thời thực hiệt tốt công tác ép thật
chặt sự kiểm soát của Ðảng lên khắp đời sống công cộng ở
Trung Quốc. Trong các trường tiểu, trung và đại học sự gia
tăng cường độ giảng dạy ý thức hệ nhồi nhét vào đầu óc của
tuổi trẻ Trung Quốc vô số điều dối trá và huyền hoặc chính
trị. Sự việc ấy có thể góp phần giải thích tại sao trong khi
vẫn ngưỡng mộ Hoa Kỳ mà vì những nguồn tin không chính thức,
nhiều thanh thiếu niên Trung Quốc vẫn chứa chấp dai dẳng
trong lòng những cảm xúc thù nghịch phát sinh một cách ý
thức hệ đối với Hoa Kỳ và những gì nó tiêu biểu.
Nhà nước đảng trị hành xử gần như độc quyền hầu hết các
phương tiện truyền thông và xử lý chúng cao tay ấn hơn so
với cách xử lý trong thời thô lỗ của chủ tịch Mao. Các ký
giả bị liên tục nhắc nhở, bằng những lối nói dứt khoát, rằng
ai đang trả lương cho họ. Ngay bản thân các phóng viên cũng
thừa nhận họ là “cái loa của Ðảng,” như thế kết quả của thực
tế đó là trong giới tinh hoa trí thức, những phần tử nào còn
ấp ủ lương tâm thì không có phương tiện đáng tin cậy nào để
có thể trình bày trung thực ý kiến của mình. Từ năm 1999,
chính phủ dùng các chuyên gia điện toán từng được huấn luyện
cấp đại học để làm “công an Internet”. Nó cũng đề ra các qui
định để thuần hóa “con ngựa hoang” Mạng lưới Toàn cầu (World
Wide Web).
Từ sau vụ Thiên An Môn, giới trí thức đối mặt một môi trường
mới đầy hoang mang. Suốt thập niên 1990, nhà nước đảng trị
thực tế đã tìm cách mua chuộc giới trí thức với các danh dự
hàn lâm, đẳng cấp và lương bổng để đưa họ vào hàng ngũ những
kẻ ủng hộ nguyên trạng (status-quo). Ngược lại, một số ít
trí thức không để bị mua chuộc thì bị đánh đổ: không người
nào có thể xuất bản công trình nghiên cứu quan trọng về bất
cứ đề tài nào theo con đường chính thức, và các nhà nghiên
cứu khó tính ấy có thể dễ nhận ra là mình bị sa thải, dù lúc
nào cũng với lý do mà trên danh nghĩa là “không liên quan gì
tới chính trị”.
Ngày nay, các trí thức có ảnh hưởng là đối tượng giám sát và
xoi mói của công an mật, và thông thường, việc cưỡng bách di
dân ra nước ngoài là thuộc phần các chiến dịch sách nhiễu
tổng quát do Ðảng đề ra. Việc áp dụng sách lược cương nhu
này — “cương” vì nó cấu thành trấn áp, “nhu” vì nó không đi
tới mức bỏ tù thật sự hoặc tra tấn thể xác — đã có hiệu quả
làm trung hòa giới trí thức ưu tú như một lực lượng phê bình
độc lập của Trung Quốc. Ngày nay, hầu hết các học giả Trung
Quốc đều muốn thích ứng các nghiên cứu của mình để xoa dịu
chế độ, giữ thái độ thờ ơ hoặc chiếu lệ đối với các vấn đề
xã hội và chính trị nhạy cảm.
Cho tới thập niên 1990 vừa qua, chính phủ Trung Quốc vẫn
bướng bỉnh đeo bám khái niệm rằng nó đại diện giai cấp lao
động — thậm chí khi các viên chức đã lập những quan hệ riêng
tư thân mật và có lợi nhuận với giới tinh hoa kinh tế mới
phất. Giữa họ, giới tinh hoa kinh tế và các thủ trưởng của
nhà nước đảng trị, lúc này kiểm soát 85% tổng số tài sản của
Trung Quốc và lập thành lớp siêu phú gia (super-rich) của
Trung Quốc. Dưới ánh sáng của hiện thực đó, nhà nước-ÐCSTQ
chỉ còn giải pháp duy nhất là đưa ra sự điều chỉnh có tính
chiến lược giữa các giai cấp trung thành với nó, và như thế
khẩu hiệu “Tam Ðại biểu - Ba Ðại diện” của Giang Trạch Dân
được tung ra; nó cho hai giới tinh hoa kinh tế và chính trị
một không gian rộng rãi hơn để liên kết và bành trướng. Lời
kêu gọi của họ Giang “cho phép các nhà từ bản tư nhân gia
nhập Ðảng”, chỉ là mưu chước tưởng thưởng cho giới tinh hoa
kinh tế một cột trụ trong hệ thống và một tiếng nói chính
trị hợp pháp.
Rõ ràng ảo tưởng nghiêm trọng nhất mà giới trí thức Trung
Quốc đã giữ suốt thập niên 1980 là giai cấp trung lưu sung
mãn sẽ đòi hỏi quyền dân chủ. Thập niên kế đó dập tắt vĩnh
viễn “giấc mộng ngày” đó. Các chiến thuật chính trị của Ðảng
bao gồm việc cho phép giới tinh hoa kinh tế cùng với các
nhóm trí thức thích đáng và dễ bảo được đòi quyền ở trong hệ
thống và chia sẻ một số quyền lực của Ðảng — nhưng còn cách
rất xa sự tạo ra một sinh hoạt chính trị dân chủ mới mẻ.
Ðể đối phó với những lo âu và rối loạn trong hàng ngũ người
nghèo và người bị tước đoạt, chính phủ phải dựa vào việc
trấn áp bằng bạo lực càng ngày càng tăng. Dập tắt những cuộc
phản kháng ở qui mô nhỏ đã trở thành công tác thông lệ của
các viên chức địa phương, những kẻ lúc này giàu kinh nghiệm
đối phó với các sự cố như thế. Nói chung, họ thiên về lối
tiếp cận “củ cà rốt và cây gậy”: các “quần chúng phản kháng”
(thường là nông dân hoặc công nhân thất nghiệp) nhận “củ cà
rốt” nhỏ, có thể đáng giá một hai tháng trợ cấp đời sống với
điều kiện thôi xuống đường. Ngược lai, những kẻ “lãnh đạo
phản kháng” thì lãnh “cây gậy”. Gần như không có ngoại lệ,
chính quyền nghiêm khắc trừng trị bất cứ “kẻ gây rối loạn an
ninh trật tự công cộng” nào — công nhân, nông dân hoặc ngược
lại — bất cứ ai mà nó có thể đặt cánh tay “không chút dịu
dàng” lên trên. Ở mức tối thiểu, Ðảng ra sức bẻ gãy tinh
thần của họ và lấy đi nhân cách của họ, nhưng sẽ không ngần
ngại giết họ nếu thấy cần thiết. Thông thường, việc ấy đủ để
làm những kẻ có tiềm năng lãnh đạo run sợ, không dám trở
thành con dê tế thần khi những kẻ sát nhân cả nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng, thường ra dấu hiệu rằng đã đến lúc chính quyền
hết còn chịu đựng nổi cuộc phản kháng tập thể.
Vẫn còn có những cuộc phản kháng yếu ớt — ngay cả nổi loạn —
để đáp trả các liên minh đầy uy lực và có tính khống chế
ngày càng tăng được thành lập giữa các giới tinh hoa của đất
nước. Nhưng giới chức cầm quyền đã có kinh nghiệm, không để
chúng lan rộng và việc đè nén sự bất ổn khiến cho đôi khi,
phải phong tỏa hoàn toàn một thành phố hay một khu vực. Do
đó, những cuộc phản kháng chỉ có tính địa phương và rời rạc;
từ sau vụ Thiên An Môn, không có vụ nào đạt tới mức đặt vấn
đề thay đổi trong nghị trình xã hội như một tổng thể. Trong
chừng mực quan tâm của nhà nước đảng trị, các khái niệm
nhiều khía cạnh và rộng lớn của “nhân quyền” có thể bị giảm
thiểu một cách an toàn thành quyền sinh sống mà thôi. Cách
diễn đạt chật hẹp ấy về quyền con người đã hạ nhân dân Trung
Quốc xuống đẳng cấp loài vật ăn máng, nhưng bao lâu họ còn
dễ bảo thì bấy lâu nhà nước đảng trị còn bất cần.
Những chọn lựa cho tương lai
Nói chung, cộng đồng quốc tế chọn quan điểm lạc quan và hão
huyền về tương lai của Trung Quốc. Quan điểm này chú mục vào
hai kỳ vọng mà cả hai vừa sai lầm vừa đồng cảm chẳng kém gì
nhau. Kỳ vọng thứ nhất là việc cho phép Trung Quốc gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ khích lệ dân chủ hóa.
Kỳ vọng thứ hai là những tiến bộ kỹ thuật sẽ phá vỡ các “bức
tường lửa” mà Trung Quốc đang áp đặt và sẽ cởi mở xã hội
Trung Quốc, không còn kiểm duyệt tin tức và thông tin. Về kỳ
vọng thứ nhất, tôi chỉ có thể vạch ra rằng WTO là một tổ
chức điều chỉnh kinh tế quốc tế nên chúng ta không thể kỳ
vọng hoặc hy vọng rằng nó sẽ làm biến đổi hệ thống chính trị
của một nước. Còn về kỳ vọng thứ hai thì Bắc Kinh hiện nay
đang làm tiêu hao nó bằng dự án trị giá nhiều tỉ đô la “Lá
chắn Vàng – Golden Shield” mà mục đích là dùng kỹ thuật máy
điện toán để mở ra và siết chặt gọng kìm của nhà nước lên
trên xã hội. Các công ty đa quốc gia, các tín hiệu đô-la
nhảy múa trước mắt họ, đang háo hức dự phần vào màn kịch cá
biệt này. Nhưng bản thân giới tinh hoa của Trung Quốc thấy
tương lai như thế nào? Xã hội Trung Quốc hiện nay giống một
hỏa diệm sơn sắp tới hồi phun lửa. Hầu như mọi người Trung
Quốc đều cảm giác sức nóng của ngọn lửa trong lòng đất nhưng
có lẽ không ai cảm giác cho bằng giới tinh hoa của Trung
Quốc, những kẻ hiểu ngầm với nhau rằng chọn lựa tốt nhất của
họ là duy trì nguyên trạng bằng trấn áp chính trị và hoạt
động tình báo quốc nội. Trong thực tế, điều ấy có nghĩa là
phải dùng sức mạnh đàn áp tập thể tất cả những ai “phá rối
trật tự xã hội” ngay khi họ bộc phát. Suốt hơn thập niên
qua, từ sau vụ Thiên An Môn, tuyến phòng ngự số một của nhà
nước đảng là chống lại sự rối loạn phát xuất từ bên dưới.
Bên trong liên minh của các giới tinh hoa, giới thư lại cảm
nhận về sự khủng hoảng ấy nhạy bén hơn giới trí thức. Vào
đầu thập niên 1990, tẩu tán tư bản lên qui mô lớn khi các
đạo quân quan chức chuyển tài sản phi nghĩa mới kiếm được
của họ tới các ngân hàng ở bên ngoài Trung Quốc, thường là
tới các nước họ đang có thân nhân sống nhàn hạ. Trong khi
đó, các nước châu Âu cùng Hoa Kỳ, Canada, Australia ra sức
thu hút sinh viên Trung Quốc ra hải ngoại để góp phần phát
triển kinh tế nội địa của mình. Các trường cao đẳng và đại
học tại những nước đó nhận thấy giới sinh viên Trung Quốc có
nhu cầu cực lớn được đi du học: qua một số thẩm định, Trung
Quốc bỏ ra mỗi năm hơn 4 tỉ Mỹ kim tài trợ cho việc du học
trong đó ưu tiên số một dành cho thanh niên. Ðây là dấu hiệu
cho thấy giới tinh hoa đang kỳ vọng họ sẽ kiểm soát được
tương lai: qua những sắp xếp mà họ dàn dựng cho con cái, họ
đang bỏ phiếu bằng ngoại tệ mạnh.
Như tôi đã cố gắng trình bày, thật sai lầm khi nghĩ rằng có
một nhóm quyền lực nào đó bên trong hàng ngũ thượng đỉnh của
Ðảng Cộng sản sắp gỡ cho Trung Quốc thoát ra các khủng hoảng
đang vây bủa nó. Các nhà phân tích vốn tranh cãi việc ÐCSTQ
có thể xói mòn tương lai của đất nước thì đang chấp nhận và
thực hiện điều mà tôi gọi là lý thuyết “lính chữa cháy.” Họ
giả định rằng chế độ của ÐCSTQ giống với lính chữa cháy rừng
nhiều hiệu năng, được trang bị bằng những thiết bị mới nhất,
không khác gì một “hệ thống phòng ngừa hỏa hoạn”, gồm sự
kiểm soát triệt để truyền thông và công luận, đàn áp chính
trị cao độ, các đội ngũ công an chống nổi loạn và toàn bộ
guồng máy an ninh quốc gia hiến thân hết mình, chống đỡ cho
trật tự hiện nay để mọi sự đâu vào đó. Nhưng tại Trung Quốc,
nguy cơ hỏa hoạn không đơn giản xảy ra một cách ngẫu nhiên
tại các khu vực có củi khô, mà đó là những ngọn lửa ngầm,
đang cháy âm ỉ ngay bên dưới bề mặt, ở bất cứ nơi nào và vào
bất cứ lúc nào, một khi đã phun lên thì diễn ra rất ác liệt,
vượt ngoài tầm kiểm soát. Thậm chí các thiết bị chữa cháy kỹ
thuật tiên tiến nhất cũng có những giới hạn của chúng khi
đương đầu với các nguy cơ như thế.
Ngày ấy sẽ tới khi ÐCSTQ không còn đè nén nổi những ngọn lửa
đó. Một khi nền cai trị lâu năm của ÐCSTQ bị thiêu rụi trong
đám cháy lớn đó thì sự tăng trưởng về dân số chưa từng có
tại Trung Quốc, sự phá hoại bừa bãi môi trường và sinh thái,
và sự sụp đổ gần như toàn bộ nền luân lý xã hội, mới chỉ là
một trong các nhân tố làm cho công tác tái thiết đã lớn lao
lại còn khó khăn hơn.
Hà Thanh-liên (何 清 涟 – Qinglian He), cựu biên tập viên lâu
năm của Thiên Tân Pháp luật Nhật báo tại Trung Quốc, hiện là
khách nghiên cứu của phân khoa chính trị, kinh tế và triết
Trường Cao đẳng Staten Island thuộc Ðại học Thành phố New
York. Bà là tác giả trên ba cuốn sách viết bằng Hoa ngữ,
trong đó có cuốn bán rất chạy, nhan đề Pitfalls of China
(Những cạm bẫy của Trung Quốc), ấn bản cập nhật hóa từ bản
đã được xuất bản ở Nhật Bản năm 2002.
[1]Kirk. Hamilton, “Green Adjusments to GDP, Resources
Policy 20 (1994) – Những điều chỉnh xanh cho GDP, Tạp chí
Chính sách Tài nguyên số 20” (1994): 155-68.
Xem thêm www.ias.edu/publications/details.cfm/articleID/51,
UN University Institute of Advanced Studies.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|