Sách lược và ý
đồ của Trung quốc (3)
Cuối năm 2004 tôi có đề xuất một dự án chiến lược dưới tựa
đề, Lộ Đồ Hình Thành & Kiến Tạo Một Liên Bang Đông Nam Á
Châu. Dự án này thực ra là một đối sách dài hạn để chống lại
ý đồ của Trung Quốc. Tuy là nó được soạn thảo và trình bày
với mục đích chính là để thuyết phục giới chức Hoa Kỳ nhưng
nội dung của nó, theo chủ quan của tôi, thì lại càng nên
được lưu ý bởi nhân dân và chính quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố
gắng trích dẫn một số đoạn trong dự án để mọi người tham
cứu. Hy vọng là có sự bổ ích.
Bài sẽ đăng thành nhiều kỳ. Đây là trích dẫn nguyên văn -
đoạn 3
3.
Nhu Cầu Cho Sự Hình Thành Một LBĐNAC
Để thực sự đạt hiệu quả cho chiến lược BVKCLBTQ [bao vây,
kềm chế, làm bể Trung Quốc], sáu quốc gia VMLMTM [Việt,
Miên, Lào, Mã, Thái, Miến] phải trở thành một khối có đủ
thực lực trấn giữ góc Đông Nam Á Châu. Khối này không thể
chỉ là một tập hợp đa quốc gia đồng ý tham dự trên nguyên
tắc rồi tiếp tục duy trì sự hoạt động cục bộ, chưa nói tới
những xung đột có thể xảy ra giữa những thành viên trong
khối. Nói một cách khác, tập hợp VMLMTM phải trở thành một
thực thể có sức mạnh kinh tế, ngoại giao, quân sự và sức
mạnh này phải lớn hơn gấp nhiều lần sức mạnh đến từ sự cộng
hợp dưới một hình thái liên minh vá víu lỏng lẻo. Một sức
mạnh như vậy chỉ có thể thoát thai từ một kết hợp thực sự và
trọn vẹn.
Do nhu cầu này, hình thành một Liên Bang Đông Nam Á Châu
(LBĐNAC) là một giải pháp đúng đắn nhất và cho lợi ích dài
hạn chắc chắn nhất. Một giải pháp không những đóng góp vào
việc gia tăng hiệu quả của chiến lược bao vây, kềm chế và
làm bể Trung Quốc ra nhiều mảnh mà còn: (a) đóng góp vào sự
ổn định của toàn vùng, vì tự động hóa giải được những xung
đột cục bộ và vì không còn đất cho những hoạt động khủng bố
và sản xuất ma dược; (b) đóng góp vào sự phồn thịnh kinh tế
của toàn vùng, một thành tựu tất yếu đẻ ra từ chiến lược bao
vây và làm bể Trung Quốc; và (c) đóng góp vào hiệu quả phòng
thủ của toàn vùng Đông Nam Á Châu, nhất là gìn giữ an ninh
cho hành lang Biển Đông, Malacca Strait, Singapore Strait,
vịnh Thái Lan và mạn Đông của vịnh Bengal.
Để có một sự cảm nhận sâu sắc hơn về nhu cầu thành lập một
LBĐNAC và vai trò cực kỳ quan trọng của nó đối với vùng Đông
Nam Á Châu cũng như đối với sự mất còn của sáu nước VMLMTM
trong tương lai, thiết tưởng chúng ta không thể bỏ qua cơ
hội kiểm nghiệm lại những bằng chứng cho thấy sức mạnh quân
sự, sức mạnh kinh tế và sức mạnh dân số hậu thuẩn cho sự đe
dọa của Trung Quốc, chưa nói tới sức mạnh của những đạo quân
trong bóng tối.
A. Sức Mạnh Quân Sự Của Trung Cộng
Sức mạnh quân sự của Trung Quốc là đe dọa thực sự và trường
kỳ cho vùng Đông Nam Á Châu và cho cả thế giới trong tương
lai. Một cuộc tấn tông bất ngờ với sức mạnh vũ bão làm tê
liệt sự phản kháng của đối phương và không cho lực lượng bên
ngoài đủ thời giờ can thiệp có thể xảy ra và có thể xảy ra
bất cứ lúc nào, với mục đích chiếm cứ lãnh thổ trong vùng,
chẳng hạn như nuốt ba nước VML hoặc nuốt những quần đảo dọc
biển Đông xuống tận Nam Dương, và đồng thời lập một định vị
“ta là chủ nhân ông của vùng Á Châu này và không ai có thể
chống” để từ đó ép mọi quốc gia trong vùng phải “đá” Hoa Kỳ
ra khỏi danh sách quan hệ thân thiết và tuyệt đối thần phục
Trung Quốc. Và Trung Cộng có khả năng thực hiện với 4 chiều
lực: (a) sức mạnh trên biển; (b) sức mạnh trên mặt đất; (c)
sức mạnh trên không; (d) sức mạnh nguyên tử, phi đạn và vũ
khí sinh hóa.
Sức Mạnh Trên Biển - Lực lượng hải quân Trung Cộng
bao gồm (a) một bộ Tổng Hành Dinh Hải Quân đóng tại Beijing;
(b) ba hạm đội trong đó hạm đội Bắc Hải[1] đặt bản doanh tại
Quindao tỉnh Shandong, hạm đội Đông Hải[2] đặt bản doanh tại
Shanghai và hạm đội Nam Hải[3] đặt bản doanh tại Zhanjiang
tỉnh Guangdong; (c) với 350000 quân trong đó không lực của
hải quân (Naval Air Force) chiếm 34000 quân, những lực lượng
phòng vệ duyên hải (Coastal Defense Forces) chiếm 38000 quân
và lực lượng lính biển đánh trên đất (Marine Corps) chiếm
56500 quân. Được trang bị với (a) 72 tàu lặn[4] đủ loại
trong đó có 6 tàu lặn nguyên tử; (b) 808 tàu chiến[5] đủ
loại; và (c) 497 máy bay[6] đủ loại. Với một mạng lưới gồm
(a) 47 căn cứ[7] lớn nhỏ (b) 26 không trạm của hải quân; và
(c) 26 xưởng đóng tàu[8] công và tư. Thêm vào đó một lực
lượng thương thuyền gồm 1649 chiếc có tải trọng trên một
ngàn tấn (GRT) với trọng tải tổng hợp là 18724663 tấn (GRT)
có thể trưng dụng vào chiến tranh.
Trung Cộng chỉ định hai hạm đội Đông Hải và Nam Hải là lực
lượng di động đối phó biến cố (Emergency Mobile Force) vì
tin rằng biển Nam Hải và Đông Hải là hai nơi có nhiều triển
vọng đụng trận. Sĩ quan của Trung Quốc đề nghị là quân đội
của họ cần phải mở rộng sức mạnh quân sự ra tới Taiwan,
Ryukyus, Phillipines, Borneo, Marianas, Guam và Carolines
nhằm bảo vệ bờ biển của Trung Quốc. Theo như Liu Huaquing,
tới năm 2000 là Trung Cộng đã đủ mạnh để khống chế chuỗi hải
đảo thứ nhất (first island chain), tức là thao túng trọn vẹn
vùng biển Nam Hải; tới năm 2020 Trung Cộng sẽ thành lập sức
mạnh khống chế ra tới chuỗi hải đảo thứ nhì (second island
chain), tức là ra tới vùng biển Timor và biển Phillipine sau
lưng Nam Dương và Phi Luật Tân; đến năm 2050 Trung Cộng sẽ
trở thành một lực lượng hải quân có sức mạnh trên toàn cầu
(global naval power).
Trong năm 2000, hải quân Trung Cộng đã hai lần biểu dương
khả năng trên biển, đến tận Nam Phi và biên giới phía Tây
Hoa Kỳ. Trong năm 2001, hải quân Trung Cộng một lần nữa biểu
dương khả năng tại Ấn Độ và Pakistan. Đúng như Zhao Nangqui,
giám đốc Trường Khoa Học Quân Sự Trung Quốc, đã nói: chúng
ta không để cho Ấn Độ Dương là đại dương của Ấn Độ. Trong
năm 2003, Trung Cộng công bố cho thế giới biết một tàu tiêu
diệt (a destroyer) được trang bị hệ thống phóng hỏa tiễn
được gọi là “magic shield of China” phỏng theo “Aegis combat
system” của Hoa Kỳ. Mới đây Trung Cộng mua của Liên Xô hai
chiếc tàu tiêu diệt Sovremenny DD trang bị 8 hỏa tiễn
supersonic SS-N-22. Thêm hai chiếc Sovremenny sẽ được giao
trong năm 2005 và 8 chiếc tàu lặn Kilo đã lên đơn đặt hàng.
Những sự kiện này cho thấy, hải quân Trung Cộng đang trên đà
ráo riết hiện đại hóa để phục vụ hữu hiệu hơn nữa cho tham
vọng của Trung Quốc.
Sức Mạnh Trên Bầu Trời - Không lực (air force) và
không vệ (air defense) của Trung Cộng có tất cả là 370,000
quân được tổ chức thành 7 quân đoàn[9] không lực (military
region air force) bao gồm: (a) 42 sư đoàn[10] không lực (air
divisions) trong đó có 4 sư đoàn máy bay đám bom (bomber
divisions), 30 sư đoàn máy bay chiến đấu (fighter
divisions), 6 sư đoàn máy bay tấn công (attack divisions), 2
sư đoàn máy bay vận chuyển (transport divisions); (b) 17 sư
đoàn không vệ (air defense divisions) với 220000 quân; (c) 3
sư đoàn dù (airborne divisions) với 20000 quân; (d) 22 trung
đoàn ra đa biệt lập (independent regiments); và (e) 600 tiểu
đoàn hỏa tiễn không vệ (air defense missile battalions).
Không lực được trang bị với 2902 máy bay[11] quân sự đủ
loại. Không vệ được trang bị với 16000 khẩu súng phòng
không, 100 hỏa tiễn địa-đối-không (SAM/ surface-to-air
missiles) và nhiều loại hỏa tiễn[12] không vệ khác. Kèm theo
đó là 500 không cảng[13] (airports)/ không cứ (airbases) lớn
nhỏ, trong đó có khoảng 160 không cảng dân sự[14], và hơn
627 máy bay dân sự[15] có trọng tải trên 70 ghế có thể được
vận dụng vào chiến tranh.
Dầu rằng không lực của Trung Cộng vẫn chưa hoàn chỉnh nhưng
chỉ với một số lượng khổng lồ và sự yếu kém không lực và
không vệ của những quốc gia kém phát triển trong vùng thì
sức mạnh trên không của Trung Cộng là một đe dọa khó có thể
đối đầu. Để trám vào chỗ yếu kém, Trung Cộng mua của Liên Xô
những máy bay tối tân hơn. Hiện giờ Trung Cộng có 128 chiếc
SU-27 và SU-30. Thêm vào đó là Trung Cộng đang tích cực đầu
tư vào những chương trình không gian. Ngày 15 tháng 5 năm
2002, Trung Cộng đã phóng một vệ tinh thu lượm tin tức trên
đại dương. Bắc Kinh cũng tuyên bố là sẽ phóng thêm nhiều vệ
tinh nữa để thiết lập một hệ thống quan sát đại dương cho
Trung Quốc, dự trù sẽ hoàn tất vào năm 2010. Người ta khó có
thể không đặt nhiều câu hỏi về ý đồ của Trung Quốc.
Sức Mạnh Trên Mặt Đất - Lục quân Trung Cộng gồm có
1700000 quân được tổ chức thành 7 quân khu (military
regions), 21 quân đoàn (group armies) cộng 27 đặc khu quân
sự (military district), với 81 sư đoàn và 106 trung
đoàn/chiến đoàn thiết giáp, pháo binh, phòng không, ra đa,
hỏa tiễn, công binh, máy bay, lực lượng đặc biệt, lực lượng
dù, vân vân. Được trang bị ( a) 7010 xe tăng đủ loại; (b)
6000 xe thiết vận đủ loại; (c) 1200 khẩu pháo đặt trên xe di
động (self-propelled artillery); (d) 13300 khẩu pháo kéo
(towed artillery); (e) 2200 dàn tên lửa (artillery
rockets/rocket launchers); (f) 5000 khẩu phòng không
(anti-aircraft artillery); (g) 300 giàn hỏa tiễn đất-đối-đất
(tactical surface-to-surface missles); (h) 300 súng chống xe
tăng (anti-tank guns); (i) 6500 hỏa tiễn chống xe tăng
(guided anti-tank missles); (j) 269 chiếc trực thăng và một
số máy bay thám thính không người lái loại Chang Hong CH-1.
Thêm vào đó là 162 căn cứ lớn nhỏ, trong đó có 21 bản doanh
chỉ huy của 21 quân đoàn.
Đầu thập niên 1980 Quân Ủy Trung Ương ra lệnh thành lập Lực
Lượng Phản Ứng Nhanh (Rapid Reaction Force/ RRF), phỏng theo
lực lượng RDF (Rapid Deployment Force) của Hoa Kỳ thành lập
dưới thời Jimmy Carter, trang bị với kỹ năng cao và vũ khí
tối tân, để vận dụng vào những cuộc hành quân giới hạn nhưng
với cường độ mạnh (small-scale, intensive military
operation) nhằm ngăn chận hoặc dành chiến thắng trong những
tranh chấp cấp vùng. Năm 1992 một lực lượng đặc biệt được
hình thành, có tên là Lực Lượng Di Động Chiến Đấu Vãn Hồi An
Ninh (Resolving Emergency Mobile Combat Force), với quân số
300000 và trực thuộc Quân Ủy Trung Ương, sử dụng vào công
tác bảo vệ biên giới hoặc dẹp nội loạn hoặc cứu cấp thiên
tai. Đánh giá tổng quát, dầu lục quân của Trung Cộng không
phải là đội quân chuyên nghiệp hoặc được trang bị với vũ khí
tối tân nhất thế giới như là tinh binh của những quốc gia
siêu cường, đội quân đông nhất thế giới này dư sức tràn ngập
những quốc gia kém phát triển chung quanh với “biển người”
của họ.
Sức Mạnh Phi Đạn, Nguyên Tử, Hóa Học & Sinh Học -
Theo báo cáo của NRDC (Natural Resource Defense Council)
Trung Quốc hiện đang có khoảng 400 đầu đạn nguyên tử. Khoảng
250 đầu đạn nguyên tử thuộc vũ khí chiến lược (strategic
weapon) được phân bố theo 3 chiều tham chiến: phóng từ dưới
đất (land-based missiles), phóng từ dưới biển
(submarine-launched ballistic missiles) và phóng từ trên
không[16] bằng phi cơ (bombers). Trong số 250 này có 18-26
được lấp vào hỏa tiễn có tầm phóng xa hơn 11931 km, 100 được
lấp vào hỏa tiễn hoặc lấp vào máy bay đánh bom có tầm từ
1800 km cho tới 4750 km, 12 được lấp vào hỏa tiễn của những
tàu lặn nguyên tử. Và khoảng 150 đầu đạn nguyên tử thuộc
loại vũ khí chiến thuật (tactical weapons) dưới dạng đầu đạn
nguyên tử lấp vào hỏa tiễn tầm ngắn (short range nuclear
missiles), đầu đạn nguyên tử lấp vào đạn pháo (nuclear
artillery shells), đầu đạn nguyên tử lấp vào tên lửa
(nuclear-tipped rockets) hoặc bom nguyên tử hạng nhẹ
(low-yield bombs). Ngoài ra Trung Cộng còn có thủy lôi
nguyên tử (nuclear torpedos) và mìn nguyên tử (nuclear
demolition mines).
Khó có thể biết chắc được số lượng vũ khí nguyên tử hiện
đang có trong tay Trung Cộng vì hầu hết những báo cáo khó có
thể kiểm nghiệm. Nhưng một điều chắc chắn là Trung Cộng đang
trên đà hiện đại hóa chương trình hỏa tiễn và chương trình
nguyên tử của nó. Chương trình hỏa tiễn của Trung Cộng thành
hình từ đầu thập niên 1960 với thế hệ hỏa tiễn đầu tiên DF-3
phỏng theo sáng chế của Liên Xô và đã tiếp tục cải tiến loại
vũ khí chiến lược này song song với việc hiện đại hóa những
vũ khí chiến lược khác. Hỏa tiễn liên lục địa đời mới, DF-31
ICBMs phóng từ mặt đất với tầm trên 8000 km, đang được chế
tạo, đã phóng thử vào tháng 9/1999 nhưng chưa thành công lúc
đó, và DF-41 ICBMs đã lên kế hoạch, nhưng hình như đã bị
đình chỉ để theo đuổi một loại hỏa tiễn khác hay hơn. Theo
ước tính của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì Trung Quốc có khả năng
sản xuất 10-12 đầu đạn ICBMs một năm và tới năm 2010 có thể
cài đặt thêm được 1000 hỏa tiễn tầm ngắn mà không cần đầu tư
nhiều lắm.
Tướng Yang Huan chủ trương Trung Cộng nên nghiên cứu để sản
xuất vũ khí nguyên tử “xài được trong chiến trận” và Tướng
Wu Jiangguo cũng nói là Trung Cộng “tìm thấy sự hữu ích của
vũ khí nguyên tử trong những cuộc chiến địa phương” (local
wars). Tướng Wu còn nhấn mạnh là quân đội Trung Quốc không
thể đạt tới những mục đích của nó chỉ bằng phương tiện tâm
lý [ý nói dùng hỏa tiễn nguyên tử để hù dọa đối phương] mà
phải thắng ở chiến trường [ý nói là phải sử dụng để tiêu
diệt đối phương] và ông ta bài bát ý nghĩ “sử dụng vũ khí
nguyên tử trong chiến trận là điều kiêng kỵ” (inherently
taboo).
Có thể nói, dầu rằng hỏa tiễn và đầu đạn nguyên tử của Trung
Cộng chưa thể sánh được với vũ khí của Hoa Kỳ và của những
siêu cường khác về lượng cũng như phẩm, nhưng chỉ với số
lượng Trung Cộng hiện có cộng với binh thuyết cường tập đối
phương bằng vũ khí nguyên tử ẩn chứa trong cách nói “chế tạo
vũ khí nguyên tử thực dụng nơi chiến trường cho những cuộc
chiến tranh địa phương” của Tướng Yang và Tướng Wu đã đủ làm
“xuất mồ hôi hạn” những quốc gia tiếp giáp biên giới với
Trung Quốc cũng như những quốc gia kém phát triển nằm xa hơn
nhưng vẫn trong tầm sát hại của vũ khí Trung Cộng.
Thêm vào đó, Trung Cộng có một chương trình chiến tranh hóa
chất tiên tiến (advanced chemical warfare program). Trung
Cộng đang có đầy đủ khả năng nghiên cứu, sản xuất và vũ khí
hóa (R&D, production and weaponization capabilities).
Quân đội Trung Quốc thông thạo về học thuyết chiến tranh hóa
chất (chemical warfare doctrine) và đã từng nghiên cứu về
học thuyết chiến tranh hóa chất của Liên Xô. Trung Cộng đang
có trong tay tất cả những thứ hóa chất truyền thống (full
range of traditional agents) và đang tiếp tục nghiên cứu
thêm những loại hóa chất còn trong vòng bí mật (advanced
agents).
Trung Cộng có rất nhiều loại hệ thống phóng vũ khí hóa chất
bao gồm phóng bằng tên lửa (rockets), bằng ống pháo (tube
artillery), bằng súng cối (motars), bằng bom bay (aerial
bombs), bằng mìn chôn dưới đất (landmines), bằng vòi phun
(sprayers) hoặc bằng hỏa tiễn tầm ngắn (SRBMs).
Chưa hết, Trung Cộng cũng duy trì một chương trình chiến
tranh sinh thể chủ đích cường tập đối phương (offensive
biological warfare program). Trung Cộng đang có trong tay
cấu trúc nền tảng của kỹ thuật sinh học tiên tiến (advanced
biotechnology infrastructure) và những căn cứ cách ly sinh
thể (biocontainments) để nghiên cứu những sinh thể độc hại
(lethal pathogens).
Nói tóm lại, sự gia tăng nhanh chóng sức mạnh quân sự của
Trung Quốc là một đe dọa có thực và là một đe dọa trường kỳ
cho toàn vùng. Chỉ trong năm 2004, ngân sách quân sự của
Trung Quốc đã lên đến 67.49 tỉ USD hay là 4.3% của tổng
lượng kinh tế. Nâng cấp hoặc hiện đại hóa lực lượng quân sự
không nhất thiết là một đe dọa đối với hàng xóm nhưng mất
quân bình trên cán cân quân sự giữa những quốc gia trong
vùng thì đúng là một đe đọa. Cán cân vốn dĩ đã nghiêng về
phía Trung Quốc bây giờ lại càng nghiêng nhiều hơn và nhanh
hơn. Và với tham vọng trường kỳ cộng với thái độ sẵn sàng sử
dụng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, những quốc gia nhỏ yếu
chung quanh bắt buộc phải lo sợ.
Ngưng Trích Dẫn Đoạn 3
Xem Tiếp...
Ghi Chú:
[1] Hạm đội Bắc
Hải, mã số 91283, soái hạm DDG112 Harbin, có tất cả (a) bốn
biệt đội tàu lặn (submarines flotillas/detachments) là BĐ1
tại hải cứ Wiangezhuang, BĐ2 mang mã số 92763 tại hải cứ
Quindao, BĐ12 tại hải cứ Lushun và BĐ62 không rõ hải cứ; (b)
hai hải đội tàu tiêu diệt (destroyer flotillas) mang mã số
92132 và 91381; (c) ba hải đội tàu phóng ngư lôi/hỏa tiễn
tấn công (torpedo/missle attack boats flotillas); và (d) một
hải đội tàu đổ bộ (amphibious flotilla), một hải đội tàu
thả-vớt thủy lôi (mine warfare flotilla), một hải đội tàu
tuần tiểu (patrol/speed boat flotilla) và tàu cấp cứu (resue
ships). BĐ1 gồm có năm tàu lặn Han và một tàu lặn Xia
(Xia-class SSBN type 092) duy nhất trang bị hỏa tiền mang
đầu đạn nguyên tử (ballistic missiles w/ nuclear warheads).
BĐ2 gồm có mười tàu lặn Romeo. BĐ12 gồm có mười tàu lặn
Ming. BĐ62 gồm một tàu lặn Romeo, một tàu lặn Golf và một
tàu lặn Song. Lực lượng không quân trực thuộc hạm đội Bắc
Hải, mã số 91286, gồm có (a) hai sư đoàn máy bay chiến đấu
(fighter divisions); (b) một sư đoàn máy bay đánh bom
(bomber division); (c) một trung đoàn máy bay đáp mặt nước
(water plane regiment), (d) một trung đoàn huấn luyện
(training regiment); (e) một chiến đoàn ra đa (radar
brigade); và (f) một đơn vị trực thăng (shipboard helicopter
unit). Trường chiến đấu của hạm đội Bắc Hải trải dài từ biên
giới Đại Hàn xuống tới ranh giới Shangdong/Jiangsu và trực
thuộc quân khu Jinan (Jinan military region order of
battle). Tư lệnh của hạm đội Bắc Hải cũng là tư lệnh phó của
quân khu Jinan.
2] Hạm đội Đông
Hải, soái hạm J302 Chongmingdao, có tất cả (a) hai biệt đội
tàu lặn (submarine detachments), BĐ22 tại Xiaqui Dap và BĐ42
tại Xiangshan; (b) ba hải đội tàu tiêu diệt (destroyer
flotillas), HĐ3 tại Jiaotu, HĐ6 tại Shanghai và HĐ8 tại
Wusong; (c) hai hải đội tàu đổ bộ (amphibious flotillas);
(d) một hải đội tàu thả-vớt thủy lôi; (e) hai hải đội tàu
tuần tiểu (patrol flotillas), một hải đội mang mã số 91792
biệt hiệu Mosquito đóng tại căn cứ Ningde và hải đội kia,
HĐ24, đóng tại Changtu. BĐ22 gồm có mười tàu lặn Romeo. BĐ42
gồm có 4 tàu lặn Kilo và 4 tàu lặn Ming. Lực lượng không
quân trực thuộc hạm đội Đông Hải gồm có 2 sư đoàn máy bay,
SĐ4 và SĐ6. Trường chiến đấu của hạm đội Đông Hải trải dài
từ ranh giới Shangdong/Jiangsu xuống tới ranh giới Fujiang/
Guangdong và trực thuộc quân khu Nanjing. Tư lệnh của hạm
đội Đông Hải cũng là tư lệnh phó của quân khu Nanjing.
[3] Hạm đội Nam
Hải, soái hạm AOR/AK953 Nanchang có tất cả (a) hai biệt đội
tàu lặn là BĐ32 mang mã số 38031 và biệt đội còn lại chưa
xác định; (b) ba hải đội tàu tiêu diệt/ hộ tống, một đội
mang mã số 91526, còn hai đội kia không rõ; (c) hai hải đội
tàu đổ bộ; (d) hai hải đội tàu tuần tiểu, một hải đội đóng
tại Guangzhou còn HĐ11 không biết đóng ở đâu; (e) hai chiến
đoàn thủy quân lục chiến, CĐ1 mã số 92057 và CĐ2 mã số
92510. BĐ32 gồm có mười tàu lặn Romeo và hơn bốn tàu lặn
Ming. Trường chiến đấu của hạm đội Bắc Hải trải dài từ ranh
giới Fujiang/ Guangdong xuống tới biên giới Việt Nam và trực
thuộc quân khu Guangzhou. Tư lệnh của hạm đội Nam Hải cũng
là tư lệnh phó của quân khu Guangzhou. Trong thời chiến tất
cả tàu lặn SSBN sẽ nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của hội
đồng quân ủy trung ương (Central Military Commission).
[4] Trong số 72
tàu lặn (submarines) gồm (a) 1 SSBN Xia Type 092; (b) 1 SSN
Golf Type 031; (c) 1 SSN NewCon Type 093; (d) 5 SSN Han Type
091; (e) 4 SS Kilo; (f) 2 SS Yuan Type 039A; (g) 5 SS Song
Type 039; (h) 17 SS Ming Type 035; (i) 35 SS Romeo; và (j) 1
SS Wuhan.[5] Gồm (a) 24 tàu tiêu diệt (destroyers); (b) 45
tàu hộ tống (frigates); (c) 90 tàu phóng hỏa tiễn (guided
missle boats); (d) 9 tàu phóng ngư lôi (torpedo boats); (e)
238 tàu tuần (patrol boats); (f) 92 tàu thả-vớt thủy lôi
(mine warfare ships); (g) 121 tàu đổ bộ (amphibious warfare
ships & carfts); (h) 29 tàu thám thính/ khảo sát
(surveillance ships); (i) 134 tàu phụ trợ (support ships);
(j) 26 tàu khảo sát.[6] Gồm (a) 68 máy bay đánh bom; (b) 50
máy bay tấn công; (c) 274 máy bay chiến đấu; (d) 51 máy bay
diệt tàu lặn; (e) 7 máy bay cấp cứu; (f) 3 máy bay tiếp
nhiên liệu trên không; và (g) 74 máy bay vận chuyển.
[7] Thuộc hạm đội
Bắc Hải có 3 hải cứ lớn (major bases), 10 hải cứ nhỏ (minor
bases), 1 hải cứ tàu lặn, 13 không trạm của hải quân (Navy
air stations). Thuộc hạm đội Đông Hải có 3 hải cứ lớn, 10
hải cứ nhỏ, 6 không trạm của hải quân. Thuộc hạm đội Nam Hải
có 2 hải cứ lớn, 18 hải cứ nhỏ và 7 không trạm của hải
quân.[8] Gồm có 11 xưởng đóng tàu của công ty tư nhân và 15
xưởng đóng tàu của nhà nước.
[9] Trong số 7
quân đoàn không lực gồm có: QĐKL Shenyang, QĐKL Beijing,
QĐKL Lanzhou, QĐKL Nanjing, QĐKL Guangzhou, QĐKL Jinan, và
QĐKL Chendu.
[10] QĐKL Shenyang
gồm có 8 sư đoàn và 4 trung đoàn/chiến đoàn: SĐ1, 4, 16, 21,
30, 39 máy bay chiến đấu; SĐ11, 22 máy bay tấn công; TrĐ4
Biệt Lập máy bay đánh bom; 1 chiến đoàn phòng không
(anti-aircrart artillery brigade); 1 trung đoàn ra đa; và 1
chiến đoàn hỏa tiễn. QĐKL Beijing gồm có 10 sư đoàn: SĐ7,
15, 24, 38 máy bay chiến đấu; SĐ50 máy bay tấn công; SĐ34
máy bay vận tải; 1 sư đoàn hỏa tiễn SAM; 2 sư đoàn hỏa tiễn
không vệ; và 1 sư đoàn không vệ không rõ thuộc loại nào.
QĐKL Lanzhou gồm có 6 sư đoàn và 1 chiến đoàn: SĐ6, 37, 47
máy bay chiến đấu và SĐ25, 36 máy bay đánh bom; SĐ45 máy bay
tấn công; và 1 chiến đoàn hỏa tiễn. QĐKL Nanjing gồm có 7 sư
đoàn và 4 trung đoàn/chiến đoàn: SĐ3, 14, 26, 29, 49 máy bay
chiến đấu; SĐ10 máy bay đánh bom; SĐ28 máy bay tấn công;
TrĐ3 Biệt Lập không rõ chức năng, có thể là máy bay đánh
bom; 2 chiến đoàn ra đa; và 1 chiến đoàn hỏa tiễn. QĐKL
Guangzhou gồm có 9 sư đoàn và 4 trung đoàn/chiến đoàn: SĐ2,
9, 18, 27, 35, 42, 48 máy bay chiến đấu; SĐ8 máy bay đánh
bom; SĐ13 vận chuyển; TrĐ2 Biệt Lập không rõ chức năng, có
thể là máy bay đánh bom; 1 chiến đoàn SAM; 1 chiến đoàn ra
đa; và 1 chiến đoàn hoả tiễn. QĐKL Jinan gồm có 4 sư đoàn và
1 trung đoàn biệt lập: SĐ12, 19, 31 máy bay chiến đấu; SĐ5
máy bay tấn công; và TrĐ1 Biệt Lập không rõ chức năng, có
thể là máy bay đánh bom. QĐKL Chendu gồm có 2 sư đoàn và 3
chiến đoàn: SĐ33, 44 máy bay chiến đấu; 1 chiến đoàn ra đa;
và 2 chiến đoàn không rõ chức năng
[11] Gồm 120 máy
bay đánh bom, 525 máy bay tấn công, 1250 máy bay chiến đấu,
180 máy bay thu lượm tin tức (reconnaissance planes), 14 máy
bay tiếp nhiên liệu trên không (tankers), 513 máy bay vận
chuyển, 200 máy bay huấn luyện và 100 máy bay trực thăng.
[12] 600 tiểu đoàn
hỏa tiển được trang bị với HQ-2, HQ-7, HQ-61, LY-60, PL-9,
HY-5 shoulder-launched, QW-1 shoulder-launched, C-300 Liên
Xô chế tạo.
[13] Gồm 351 không
cảng/không cứ có đường bay trải nhựa (paved runways) và 149
có đường bay không trải nhựa.
[14] Năm 2000.
[15] 426 chiếc năm
1997 dự phóng 5% gia tăng tới năm 2005.
[16] Có 6 loại hoả
tiễn phóng từ dưới đất có khả năng mang đầu đạn nguyên tử
(land-based nuclear capable ballistic missles) là DF-21/
DF-21X, DF-15, DF-11, DF-5/ DF-5A, DF-4, và DF-3A. Có 40 dàn
DF-3/Dongfeng-3 nằm tại Jianshui, Kunming, Yidu, Tonghua,
Dengshahe and Lianxiwang và DF-21 đang thay thế cho DF-3 tại
Tonghua, Jianshui and Lianxiwang sites. DF-4 là hỏa tiễn có
tầm xa hơn (a longer range missile) được đặt tại Da Qaidam,
Delingha, Sundian, Tongdao, and Xiao Qaidam.
Có 18-26 dàn DF-5A được đặt trong hầm
dưới mặt đất hoặc trong hang (deployed in silos and caves)
tại Luoning and Xuanhua. DF-5A là hỏa tiển ICBM có tầm xa
nhất của Trung Quốc có khả năng phóng tới bất kỳ nơi nào
trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Không biết rõ DF-15 and DF-11 được đặt
tại đâu. Và, có thể một số lớn hỏa tiễn được cài đặt dọc
theo tỉnh Fujian để doạ Taiwan. Phóng từ dưới nước, Trung
Cộng có JL-1 là loại hỏa tiễn được lấp vào tàu lặn để phóng
(submarine launched ballistic missiles hay là SLBM). Có 12
hỏa tiễn JL-1/Julang-1 lấp vào tàu lặn Xia loại duy nhất của
Trung Quốc có khả năng phóng đầu đạn nguyên tử (Xia-class
ballistic missile nuclear submarine hay SSBN) và đầu đạn
nguyên tử được trữ tại hải cứ tàu lặn Jianggezhuang. Trung
Quốc cũng đang chế tạo JL-2, có tầm xa hơn và phỏng theo
DF-31 nhưng sử dụng dưới biển.
|