Sách lược và ý
đồ của Trung quốc (7)
Cuối năm 2004 tôi có đề xuất một dự án chiến lược dưới tựa
đề, Lộ Đồ Hình Thành & Kiến Tạo Một Liên Bang Đông Nam Á
Châu. Dự án này thực ra là một đối sách dài hạn để chống lại
ý đồ của Trung Quốc. Tuy là nó được soạn thảo và trình bày
với mục đích chính là để thuyết phục giới chức Hoa Kỳ nhưng
nội dung của nó, theo chủ quan của tôi, thì lại càng nên
được lưu ý bởi nhân dân và chính quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố
gắng trích dẫn một số đoạn trong dự án để mọi người tham
cứu. Hy vọng là có sự bổ ích.
Bài sẽ đăng thành nhiều kỳ. Đây là trích dẫn nguyên văn -
đoạn 7
(trang 44-53)
7.
Giải Pháp Lâu Dài: Trói & Thịt Con Rồng Đỏ!
Liên
Bang Đông Nam Á Châu, nếu thành hình, sẽ khai phóng mạnh mẽ
tiềm năng của những tiểu bang để đạt tới sức mạnh kinh tế,
ngoại giao và quân sự xứng đáng gọi là cường quốc với một
tốc độ kỷ lục; thành quả mà mỗi thành viên trong khối nếu
tiếp tục duy trì hình thái quốc gia đơn lẻ như hiện giờ sẽ
không thể đạt tới được.
Theo đà lớn mạnh đó, tương lai của sáu quốc gia VMLMTM sẽ
được bảo đảm hơn. Như vậy, nếu thành hình, LBĐNAC sẽ là một
bảo hiểm tốt cho sự sinh tồn lâu dài của sáu dân tộc VMLMTM
và những dân tộc thiểu số khác sống trong quần thể này ở
thiên niên kỷ mới. Cũng theo đà lớn mạnh đó, LBĐNAC sẽ gánh
vác tích cực hơn và hiệu quả hơn việc duy trì an ninh cho
chính nó và cho những quốc gia lân cận. Như vậy, nếu thành
hình, LBĐNAC sẽ là một lá chắn an ninh cho toàn vùng Đông
Nam Á.
Là một phần của vòng đai bao vây tiếp cận, LBĐNAC sẽ là một
mảng của mạng thiên la địa võng trong chiến lược BVKCLBTQ
[bao vây, kềm chế, làm bể Trung Quốc] do Hoa Kỳ chủ động
thực hiện. Sự hình thành, lớn mạnh và hiệu quả của LBĐNAC có
thể ngăn chận kịp thời không để cho những hiểm họa trước mắt
trở thành thảm trạng thực sự cho vùng Đông Nam Á và cho toàn
thế giới.
Những Lợi Ích Chung Cho VML Nếu LBĐNAC Thành
Hình
Như đã trình bày, nền móng cho sự hình thành một LBĐNAC gồm
trọn vẹn sáu nước VMLMTM nằm ở chỗ trước tiên ba quốc gia
lân cận VML phải hợp tác và chuyển hóa để tiến tới việc
thành hình một quần thể liên bang nhân bản, dân chủ, pháp
trị rồi sau đó các nước Miến Điện, Mã Lai và Thái Lan mới
tuần tự gia nhập. Chỉ với một LBĐNAC sơ khởi, trong đó gồm 7
tiểu bang và một đặc khu hành chánh hình thành từ ba quốc
gia VML, chưa nói tới sự gia nhập của Miến Điện, Thái Lan và
Mã Lai sau đó, cũng đã cho nhiều lợi ích to lớn và thiết
thực về mặt quốc phòng, kinh tế và nội trị. Lợi ích quốc
phòng đã được đề cập trong phần Hiểm Họa Quốc Phòng và Hiểm
Họa Mêkông.
Lợi Ích Kinh Tế
Yếu Tố Dân Số - Lãnh thổ Việt Nam chiếm 329,560 km
vuông với một khối dân số là 83.5 triệu người, hay là 253.5
người trên một cây số vuông. Lãnh thổ Cao Miên chiếm 176,520
km vuông với một khối dân số là 13.6 triệu người, hay là
77.09 người trên một cây số vuông, tỷ lệ 3.29:1 so với mật
độ dân số của Việt Nam. Lãnh thổ Lào chiếm 236,800 km vuông
với một khối dân số là 6.2 triệu người, hay là 26.25 người
trên một cây số vuông, tỷ lệ 9.66:1 so với mật độ dân số của
Việt Nam. Thực trạng cần tìm ra lối thoát: Cao Miên và Lào
thiếu yếu tố dân số để giúp cho việc phát triển kinh tế của
quốc gia.
Yếu Tố Dân Trí - Tính từ 15 tuổi trở lên, Việt Nam có
đến 90.3% của 83.5 triệu dân là biết đọc và viết. Trong khi
đó Cao Miên chỉ có 69.4% trong số 13.6 triệu dân và Lào chỉ
có 66.4% trong số 6.2 triệu dân là biết đọc và biết viết.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: Cao Miên và Lào thiếu yếu
tố dân trí để giúp cho việc phát triển kinh tế của quốc gia.
Yếu Tố Lực Lượng Lao Động - Lực lượng nhân công của
Việt Nam lên đến 42.98 triệu, theo ước tính 2004, với 63%
của tổng số đó phục vụ trong khu vực nông nghiệp và 37% phục
vụ trong khu vực kỹ nghệ và dịch vụ. Khoảng 60% của dân số
có tuổi dưới 30 và khoảng 1.5 triệu người mới gia nhập vào
lực lượng nhân công mỗi năm. Việt Nam có một tiềm năng nhân
sự rất lớn và trẻ trung. Lực lượng nhân công của Cao Miên
được 7 triệu, theo ước tính 2003, với 75% của tổng số phục
vụ trong khu vực nông nghiệp. Lực lượng nhân công của Lào,
theo ước tính năm 2001, được 2.6 triệu, với 80% của tổng số
phục vụ trong khu vực nông nghiệp. Nếu tính mật độ nhân
công, Việt Nam có 129.9 người lao động trên mỗi km vuông mặt
đất trong khi đó Cao Miên chỉ có 39.66 người trên mỗi km
vuông và Lào chỉ có 10.98 người trên mỗi km vuông.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: Cao Miên và Lào không đủ
nhân lực lao động để giúp cho việc phát triển kinh tế của
quốc gia.
Yếu Tố Hiệu Năng Sản Xuất - vào năm 2004, tổng lượng
kinh tế của Việt Nam là 227.2 tỉ ID (International Dollars),
GDP tính theo PPP. Chia đều tổng lượng kinh tế của quốc gia
cho 42.98 triệu người của lực lượng nhân công, mức sản xuất
bình quân của mỗi nhân công lao động là 5,286 ID một năm. So
với Cao Miên, ước tính 2003, mức sản xuất bình quân của mỗi
nhân công lao động là 3,658 ID một năm và so với Lào, ước
tính 2001, mức sản xuất bình quân cho mỗi nhân công lao động
là 3,784 ID một năm.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: hiệu năng sản xuất của Cao
Miên và Lào còn quá thấp và điều này không có lợi cho việc
phát triển kinh tế của quốc gia.
Yếu Tố Vận Chuyển - Với hệ thống vận chuyển trên bộ
Việt Nam có được tất cả là 93,300 km đường xe, trong đó
23,418 km đã tráng nhựa và 69,882 km chưa tráng nhựa. Cộng
thêm 2,600 km đường sắt, trong đó 178 km đường có chiều
ngang 1.435 mét đúng tiêu chuẩn, 2,169 km đường có chiều
ngang 1.00 mét hẹp hơn tiêu chuẩn và 253 km đường kép. Cao
Miên có được tất cả là 12,323 km đường xe, trong đó 1996 km
đã tráng nhựa và 10,327 km chưa tráng nhựa. Cộng thêm 602 km
đường sắt có chiều ngang 1.00 mét hẹp hơn tiêu chuẩn. Lào có
được tất cả là 21,716 km đường xe, trong đó 9,664 km đã
tráng nhựa và 12,052 km chưa tráng nhựa.
Với hệ thống vận chuyển trên nước Việt Nam có tất cả là
17,702 km đường sông và trong đó 5,000 km chỉ thích hợp cho
thuyền nhỏ từ 1.8m chiều ngang trở xuống; 3,444 km bờ biển;
9 cảng bốc dỡ [Cam Ranh, Đà Nẵng, Hải Phòng, TP. Hồ Chí
Minh, Hạ Long, Quy Nhơn, Nha Trang, Vinh, Vũng Tàu]; 194
thương thuyền có tải trọng trên 1,000 GRT (gross registered
tonage) với trọng tải tổng cộng là 1.17 triệu tấn. Cao Miên
có được 2,400 km đường sông chính yếu là theo dòng Mekong;
443 km bờ biển; 6 cảng bốc dỡ và bến neo [Kampong Saom,
Kampot, Krong Kaoh Kong, Phnom Penh, Sre Ambol, Keo Phoh
Port]; 479 thương thuyền có tải trọng trên 1,000 GRT với
trọng tải tổng cộng là 1.91 triệu tấn. Lào có được tất cả là
4,600 km đường sông trong đó chính yếu là dòng Mekong và phụ
lưu; cộng thêm 2,897 km đường nước có lúc đi được có lúc
không đi được cho ghe nhỏ lường sâu dưới 0.5 mét; không có
cảng bốc dỡ; và chỉ có 1 thương thuyền có tải trọng 2,370
GRT.
Với hệ thống vận chuyển trên không Việt Nam có tất cả là 24
phi cảng trong đó 21 có phi đạo trải nhựa và 3 có phi đạo
chưa trải nhựa. Trong số 21 phi cảng có phi đạo trải nhựa
thì 6 có phi đạo dài trên 3,047 mét; 5 có phi đạo dài từ
2,438 mét tới 3,047 mét; 9 có phi đạo dài từ 1,524 mét cho
tới 2,437 mét; và 1 có phi đạo dài từ 914 mét cho tới 1,523
mét. Trong số 3 phi cảng có phi đạo chưa trải nhựa thì 1 có
phi đạo dài từ 1,524 mét cho tới 2,437 mét; 1 có phi đạo dài
từ 914 mét cho tới 1,524 mét; và 1 có phi đạo ngắn dưới 914
mét. Cao Miên có tất cả là 20 phi cảng trong đó 6 có phi đạo
trải nhựa và 14 có phi đạo chưa trải nhựa. Trong số 6 phi
cảng có phi đạo trải nhựa thì 2 có phi đạo dài từ 2,438 mét
tới 3,047 mét; 2 có phi đạo dài từ 1,524 mét cho tới 2,437
mét; và 2 có phi đạo dài từ 914 mét cho tới 1,523 mét. Trong
số 14 phi cảng có phi đạo chưa trải nhựa thì 2 có phi đạo
dài từ 1,524 mét cho tới 2,437 mét; 11 có phi đạo dài từ 914
mét cho tới 1,524 mét; và 1 có phi đạo ngắn dưới 914 mét.
Lào có tất cả là 44 phi cảng trong đó 9 có phi đạo trải nhựa
và 35 có phi đạo chưa trải nhựa. Trong số 9 phi cảng có phi
đạo trải nhựa thì 1 có phi đạo dài từ 2,438 mét tới 3,047
mét; 5 có phi đạo dài từ 1,524 mét cho tới 2,437 mét; và 3
có phi đạo dài từ 914 mét cho tới 1,523 mét. Trong số 35 phi
cảng có phi đạo chưa trải nhựa thì 1 có phi đạo dài từ 1,524
mét cho tới 2,437 mét; 13 có phi đạo dài từ 914 mét cho tới
1,524 mét; và 21 có phi đạo ngắn dưới 914 mét.
Với hệ thống vận chuyển đường ống Việt Nam có tất cả 851 km
đường ống trong đó 432 km đường ống dẫn khí đốt dạng lỏng;
210 km đường ống dẫn khí đốt dạng hơi, 3 km đường ống dẫn
dầu; và 206 km đường ống dẫn sản phẩm tinh chế. Cao Miên
không có đường ống. Lào có 540 km đường ống dẫn những sản
phẩm tinh chế.
Với hệ thống vận chuyển tin tức Việt Nam có tất cả là 4.4
triệu đường điện thoại dây; 2.74 triệu đường điện thoại di
động; 101 trạm phát sóng radio trong đó gồm 65 trạm AM, 7
trạm FM và 29 trạm SW; 7 trạm phát sóng TV và 13 trạm trung
chuyển (repeaters); 340 ISPs với 3.5 triệu người sử dụng
internet thường xuyên. Cao Miên có tất cả là 35.4 ngàn đường
điện thoại dây; 380 ngàn đường điện thoại di động; 19 trạm
phát sóng radio trong đó gồm 2 trạm AM và 17 trạm FM; 7 trạm
phát sóng TV; 818 ISPs với 30 ngàn người sử dụng internet
thường xuyên. Lào có tất cả là 61.9 ngàn đường dây điện
thoại dây; 55.2 ngàn đường điện thoại di động; 17 trạm phát
sóng radio trong đó gồm 12 trạm AM, 1 trạm FM và 4 trạm SW;
4 trạm phát sóng TV; 937 ISPs với 15 ngàn người sử dụng
internet thường xuyên.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: những hệ thống vận chuyển
của Cao Miên và Lào còn quá thiếu thốn, và đôi khi bị giới
hạn vì điều kiện địa dư, thí dụ như Lào không có bờ biển để
lập cảng bốc dỡ hàng hóa, điều này không có lợi cho việc
phát triển kinh tế của quốc gia.
Yếu Tố Năng Lượng - Việt Nam sản xuất tất cả là 34.48
tỉ kWh điện trong một năm, tính vào năm 2002; 1.3 tỉ thước
khối khí đốt, tính vào năm 2001; 359400 thùng dầu thô mỗi
ngày, tính vào năm 2004. Cao Miên sản xuất tất cả là 122
triệu kWh điện trong một năm, tính vào năm 2003; không có
dầu hỏa; không có khí đốt. Lào sản xuất tất cả là 3.56 tỉ
kWh điện trong một năm, tính vào năm 2002; không có dầu hỏa;
không có khí đốt.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: Cao Miên quá thiếu thốn
năng lượng và Lào chưa tận dụng tiềm năng của thủy điện và
những điều này sẽ hạn chế việc phát triển kinh tế của quốc
gia.
Cơ Hội - Dưới điều kiện hiện nay của Cao Miên và Lào,
muốn trở thành một quốc gia phát triển là điều rất khó. Thêm
30 năm nữa, dầu không có chiến tranh xảy ra, Cao Miên và Lào
cũng chưa chắc đã thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu. Với tốc
độ phát triển càng lúc càng nhanh của những quốc gia lân
cận, vì kinh tế của những quốc gia này đã có đà để bốc lên,
khoảng cách giữa Cao Miên và Lào với những quốc gia đó có lẽ
càng ngày sẽ càng xa hơn. Đây là một thảm kịch đối với dân
tộc Miên và Lào. Đồng thời là một đe dọa tới sự tồn vong của
hai quốc gia này.
Việt Nam tuy vẫn là một quốc gia lẹt đẹt so với những quốc
gia khác trong khối ASEAN, như Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng
nó có một tiềm năng nhân sự rất lớn. Đồng thời những hệ
thống vận chuyển người, vận chuyển vật liệu hàng hóa, vận
chuyển tin tức, vận chuyển tài chính cũng đã hình thành khá
đầy đủ. Thêm vào đó, một bờ biển dài 3,444 km cho nó một vị
thế vô cùng thuận lợi trong việc vận chuyển đường biển, chưa
nói đến nguồn tài nguyên dồi dào trong lòng biển và dưới đáy
biển.
Với tiềm năng nhân sự to lớn của Việt Nam; với ưu thế mặt
tiền nhìn ra biển Đông của Việt Nam; với nguồn dầu hỏa và
khí đốt của Việt Nam; với ưu thế mặt tiền nhìn ra vịnh Thái
Lan của Cao Miên; với tiềm năng cung ứng thủy điện và cung
ứng nước cho nông nghiệp và kỹ nghệ của dòng Mekong trên đất
Cao Miên và Lào chưa được khai thác; với một lãnh thổ rộng
742,880 km vuông có nhiều tài nguyên trên mặt đất và dưới
lòng đất chưa được khai thác; với một thị trường trên 100
triệu dân . ..cộng với tình trạng an ninh trở nên ổn định
hơn, với môi trường chính trị hoàn toàn cởi mở và tự do; với
không khí lạc quan có sức thu hút vốn đầu tư của ngoại quốc
(FDI) nhiều hơn, với tiềm năng mượn vốn lớn hơn, với sức
mạnh ngoại giao có tầm vóc hơn, với nguồn sinh lực mới chưa
bao giờ có . . . ba nước VML, nếu kết hợp để khai thác trọn
vẹn những yếu tố hỗ tương này, thì nhất định tiền đồ kinh tế
sẽ sáng hơn nhiều.
LBĐNAC, nếu thành hình, sẽ khai phóng mạnh mẽ tiềm năng kinh
tế của ba nước để đạt tới sức mạnh xứng đáng gọi là cường
quốc với một tốc độ kỷ lục; thành quả mà mỗi thành viên
trong khối nếu tiếp tục duy trì hình thái quốc gia đơn lẻ
như hiện giờ khẳng định là sẽ không bao giờ đạt tới được.
Lợi Ích Nội Trị
Về mặt hành chánh Việt Nam có tất cả 59 tỉnh lỵ và 5 đô thị.
Mức công thu hàng năm là 10.66 tỉ USD và mức công chi hàng
năm là 13.09 tỉ USD, tính vào năm 2004. Về mặt chính trị
Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất đó là Đảng Cộng Sản Việt
Nam (Communist Party of Việt Nam), tổng bí thư hiện thời là
Nông Đức Mạnh. Quốc Hội Việt Nam có tất cả 498 ghế với nhiệm
kỳ 5 năm. Đảng viên chiếm 447 ghế và 51 ghế còn lại chiếm
bởi ứng cử viên không có đảng tịch nhưng họ được đảng đồng ý
để cử. Tuy là bỏ phiếu tuyển cử nhưng tất cả ứng viên đều do
đảng tuyển chọn để đưa ra. Kỳ bầu cử vừa rồi là vào ngày 19
tháng 5 năm 2002 và kỳ bầu cử kế sẽ được tổ chức vào năm
2007. Hiện thời Chủ Tịch Nước là Trần Đức Lương [nắm chức vụ
từ ngày 24 tháng 9 năm 1997 cho đến nay]; Thủ Tướng là Phan
Văn Khải [nắm chức vụ từ ngày 25 tháng 9 năm 1997 cho đến
nay]; và các vị Phó Thủ Tướng là Nguyễn Tấn Dũng [nắm chức
vụ từ ngày 29 tháng 9 năm 1997 cho đến nay], Phạm Gia Khiêm
[nắm chức vụ từ ngày 29 tháng 9 năm 1997 cho đến nay] và Vũ
Khoan [nắm chức vụ từ ngày 8 tháng 8 năm 2002 cho đến nay].
Về mặt hành chánh Cao Miên có tất cả 20 tỉnh lỵ và 4 đô thị.
Mức công thu hàng năm là 548.2 triệu USD và mức công chi
hàng năm là 836.7 triệu USD, tính vào năm 2004, trong số đó
291 triệu USD là chi cho tư bản thực hữu (capital
expenditure) với 75% là do nước ngoài tài trợ. Về mặt chính
trị Cao Miên có tất cả 3 chính đảng đang hoạt động trong
nước: CPP (Đảng Nhân Dân Cao Miên/ Cambodian Pracheachon
Party/ Cambodian People's Party), chủ tịch đảng là Chea Sim;
FUNCINPEC (National United Front for an Independent,
Neutral, Peaceful, and Cooperative Cambodia), chủ tịch là
Hoàng Tử Norodom Ranariddh; và SRP (Sam Rangsi Party/ Đảng
Sam Rangsi), chủ tịch là Sam Rangsi. Trong số 123 ghế tại
Quốc Hội thì CPP nắm 73, FUNCINPEC nắm 26 và SRP nắm 24.
Trong số 61 ghế tại Thượng Nghị Viện thì CPP nắm 31,
FUNCINPEC nắm 21 và SRP nắm 7. Kỳ bầu cử cuối cùng vào ngày
27 tháng 7 năm 2003 và kỳ bầu cử tới dự trù vào tháng 7 năm
2008. Hiện thời Quốc Vương là Norodom Sihamoni [vừa lên ngôi
ngày 29 tháng 10 năm 2004]; Thủ Tướng là Hun Sen [nắm giữ
chức vụ từ ngày 14 tháng 1 năm 1985 cho tới nay] và các vị
Phó Thủ Tướng là Sar Khen [nắm chức vụ từ ngày 3 tháng 2 năm
1992 cho tới nay], Norodom Sirivudh, Sok An, Lu Lay Sreng,
Tea Banh, Hor Namhong, Nhek Bunchhay [mới nắm chức vụ từ
ngày 16 tháng 7 năm 2004).
Về mặt hành chánh Lào có tất cả 16 tỉnh thành, 1 đô thị và 1
đặc khu. Mức công thu hàng năm là 284.3 triệu USD và mức
công chi hàng năm là 416.5 triệu USD, tính vào năm 2004. Về
mặt chính trị, Lào chỉ có một đảng duy nhất là Đảng Cách
Mạng Của Nhân Dân Lào (Lao People's Revolutionary Party or
LPRP) và chủ tịch đảng là Khamtai Siphadon. Tất cả những
đảng phái đối lập đều chạy ra hải ngoại từ 1975. Quốc Hội
Lào có tất cả 109 ghế với nhiệm kỳ 5 năm. Tuy là bỏ phiếu
tuyển cử nhưng tất cả ứng viên đều do ĐCSL tuyển chọn để đưa
ra. Kỳ bầu cử vừa rồi là vào ngày 24 tháng 2 năm 2002 và kỳ
bầu cử kế sẽ được tổ chức vào năm 2007. Hiện thời Chủ Tịch
Nước là Tướng Khamtai Siphadon [nắm giữ chức vụ từ ngày 26
tháng 2 năm 1998 cho đến nay]; Phó Chủ Tịch Nước là Tướng
Choummali Saignason [nắm giữ chức vụ từ ngày 27 tháng 3 năm
2001]; Thủ Tướng là Boungnang Volachit [nắm giữ chức vụ từ
ngày 27 tháng 3 năm 2001] và các vị Phó Thủ Tướng là
Bouasone Bouphavanh [nắm giữ chức vụ từ ngày 3 tháng 10 năm
2003], Tướng Asang Laoli [nắm giữ chức vụ từ tháng 5 năm
2002], Thongloun Sisolit [nắm giữ chức vụ từ ngày 27 tháng 3
năm 2001] và Somsavat Lengsavat [nắm giữ chức vụ từ ngày 26
tháng 2 năm 1998]
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: Cơ chế điều hành quốc gia
của ba nước VML hiện thời là những cơ chế được xây dựng trên
nền tảng bạo quyền. Bạo quyền luôn luôn hấp dẫn bạo lực!
Những bàn cải nội trị xoay quanh xu hướng bạo lực. Những
thiện chí cải thiện nội trị bị ngăn cản bởi bạo lực. Những
giải pháp nội trị đi quanh rồi cũng quay về với bạo lực. Bạo
lực rình rập khắp mọi nơi trong mọi khía cạnh của đời sống.
Mọi người đều trở thành là nạn nhân của một guồng máy khống
trị thành hình từ bạo quyền.
Cái vòng bạo lực lẩn quẩn ngu muội ấy, nếu không tìm cách
thoát ra, sẽ tiếp tục giam hãm tiềm năng của đất nước, sẽ
tiếp tục giam hãm đời sống của nhân dân trong bóng tối buồn
tẻ, sẽ tiếp tục giam hãm tâm thần của những người đang nắm
quyền khống trị trong không khí nhiễm độc; sẽ tiếp tục đẩy
đất nước gần tới bờ vực diệt vong.
Cơ hội: Sở dĩ người ta [kẻ đang khống trị lẫn kẻ đang bị
khống trị] phải sử dụng đến bạo lực để thay đổi một cơ chế
điều hành đất nước là tại vì hiến pháp của đất nước đó không
cho người dân một con đường nào khác. Nếu một hiến pháp thật
sự cho phép thay đổi một cơ chế điều hành đất nước trong
trật tự và ổn định thì không có một lý do gì người ta phải
sử dụng bạo lực. Sở dĩ người ta [kẻ đang khống trị lẫn kẻ
đang bị khống trị] phải sử dụng bạo lực vì họ lo sợ bị bạo
lực tàn hại. Nếu một cơ chế điều hành đất nước được kiến tạo
trên nền tảng của một hiến pháp dân chủ, nhân bản, pháp trị
thì không có lý do gì người ta phải lo sợ đến độ phải sử
dụng bạo lực để chống trả.
VML chuyển hóa và kết hợp thành một quần thể LBĐNAC nhân
bản, dân chủ, pháp trị thì nhất định tình hình nội trị sẽ ổn
định và sáng sủa hơn nhiều.
Ngưng Trích Dẫn Đoạn 7
Xem Tiếp... |