Sách lược và ý
đồ của Trung quốc (6)
Cuối năm 2004 tôi có đề xuất một dự án chiến lược dưới tựa
đề, Lộ Đồ Hình Thành & Kiến Tạo Một Liên Bang Đông Nam Á
Châu. Dự án này thực ra là một đối sách dài hạn để chống lại
ý đồ của Trung Quốc. Tuy là nó được soạn thảo và trình bày
với mục đích chính là để thuyết phục giới chức Hoa Kỳ nhưng
nội dung của nó, theo chủ quan của tôi, thì lại càng nên
được lưu ý bởi nhân dân và chính quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố
gắng trích dẫn một số đoạn trong dự án để mọi người tham
cứu. Hy vọng là có sự bổ ích.
Bài sẽ đăng thành nhiều kỳ. Đây là trích dẫn nguyên văn -
đoạn 6
(trang 45-48, trang 53-55, trang 61-68)
6.
Những Thử Thách Mà Việt Nam Phải Đối Mặt:
tiếp theo
Hiểm Họa Quốc Phòng - Việt Nam có tất cả là 4,639 km
biên giới trong đó 1,228 km là biên giới Việt-Miên; 1,281 km
là biên giới Việt-Trung; 2,130 km là biên giới Việt-Lào;
cộng vào đó là 3,444 km bờ biển.
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (People's Army of Vietnam) có
khoảng 484,000 quân với 3-4 triệu quân trừ bị và ngân sách
quốc phòng trên dưới 1.4 tỉ USD trong năm 2004. Lực lượng
lục quân của QĐNDVN có khoảng 412,000 quân trong đó có 61 sư
đoàn và 45 đơn vị chiến xa với số lượng chiến cụ gồm 2,800
xe tăng và thiết vận (AFV) cộng súng pháo, phòng không và
tên lửa. Lực lượng không quân của QĐNDVN có khoảng 30,000
quân với 2 trung đoàn máy bay chiến đấu/tấn công gồm 65
chiếc, 6 trung đoàn máy bay tấn công gồm 124 chiếc, và 29
trực thăng vũ trang. Lực lượng hải quân của QĐNDVN có khoảng
42,000 quân với 2 tiềm thủy đĩnh rất nhỏ SSI, 6 tàu hộ tống,
42 tàu tuần, 6 tàu đổ bộ và 10 tàu rà phá mìn. Ngoài lực
lượng chính quy, Việt Nam còn có 40,000 quân công an biên
phòng và khoảng 16 triệu dân trong lứa tuổi 18-49 đầy đủ
điều kiện sức khỏe để tham gia nghĩa vụ quân sự nếu cần.
Tuy có một quân đội khá hùng hậu, phòng thủ một chu vi dài
8,083 km với một lãnh thổ rộng 329,560 km vuông và một lãnh
hải rộng 123,700 km vuông không phải là một việc nhẹ nhàng
hoặc ít tốn kém cho Việt Nam. Về mặt địa hình Việt Nam có
một số bất lợi.
Thứ nhất, Việt Nam không có được chiều dầy địa hình lý
tưởng. Một vài mũi nhọn tấn công theo hướng Tây-Đông hoặc
Đông-Tây có thể cắt đứt Việt Nam ra nhiều đoạn. Nếu trường
hợp này xảy ra, bộ tham mưu chỉ huy chiến tranh sẽ bị vô
hiệu hóa và chiến lược toàn diện khó có thể triển khai được.
Thứ hai, với sự bành trướng của lực lượng hải quân Trung
Cộng trong toàn vùng biển Nam Hải, áp lực từ mặt biển Đông
ngày càng gia tăng. Nếu có xung đột quân sự, lực lượng hải
quân yếu ớt của Việt Nam không những không bảo vệ nỗi lãnh
hải mà ngay cả việc bảo vệ lãnh thổ cũng không đủ sức.
Thứ ba, phía Tây của Việt Nam là hai quốc gia tuy có phần
thân thiện nhưng quá yếu ớt về mọi mặt. Sườn che của Việt
Nam do đó trở thành “quá mỏng” và buộc nó phải phân tán lực
lượng để phòng thủ cũng như buộc nó phải xen vào hoặc khống
chế nội bộ của những quốc gia này để bảo vệ cho chính nó.
Về mặt thực lực quân sự Việt Nam cũng đang đối diện với một
số bất lợi.
Thứ nhất, tuy trước đây là một quân đội thiện chiến nhưng
thế hệ có kinh nghiệm chiến trường đã già nua và thay thế
bởi một thế hệ trẻ hơn không thực sự từng trải chiến trường.
Thứ hai, vũ khí đang sử dụng là những thứ đã “quá lạc hậu.”
Thứ ba, Việt Nam hình như vẫn lẩn quẩn với khái niệm chiến
tranh du kích, sở trường duy nhất và cố hữu, nên chưa chuẩn
bị sẵn một loại hình chiến đấu mới có thể đáp ứng nhu cầu
của thời điểm hiện tại.
Thứ tư, Việt Nam khó có thể hiện đại hóa lực lượng quân sự
vì sự e ngại của các quốc gia chung quanh.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: thực lực của QĐNDVN đang
tuột dốc nhanh chóng và cùng lúc hiệu quả phòng vệ lãnh thổ
của QĐNDVN ngày càng tệ vì chiến cụ của những quốc gia lân
cận đều được hiện đại hóa với tốc độ nhanh chóng.
Cao Miên có tất cả là 2,572 km biên giới trong đó 1,228 km
là biên giới Miên-Việt; 541 km là biên giới Miên-Lào; 803 km
là biên giới Miên-Thái; cộng vào đó là 443 km bờ biển. Quân
Đội Hoàng Gia Cao Miên (Royal Cambodian Armed Force) có
khoảng 140,000 quân và ngân sách quốc phòng khoảng 120 triệu
USD cho năm 2000. Lực lượng lục quân của QĐHGCM có khoảng
90,000 quân trong đó có 22 sư đoàn không đủ cấp số với số
lượng chiến cụ gồm 180 xe tăng, súng pháo, phòng không và
tên lửa. Lực lượng hải quân của QĐHGCM có khoảng 3,000 quân,
trong đó có 1,500 là lính bộ, với 4 chiếc tàu tuần ven biển.
Lực lượng không quân của QĐHGCM có khoảng 2,000 quân với một
phi đội máy bay chiến đấu gồm 19 chiếc Mig-21, trong số 24
máy bay chiến đấu hiện có, và 15 máy bay trực thăng. Ngoài
lực lượng chính quy, Cao Miên có khoảng 1.8 triệu dân trong
lứa tuổi 18-49 đầy đủ điều kiện sức khỏe để tham gia nghĩa
vụ quân sự nếu cần.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: lực lượng quân sự của Cao
Miên đứng riêng rẽ không đủ sức để phòng vệ một chu vi dài
3,015 km với một lãnh thổ rộng 181,041 km vuông chưa nói tới
lãnh hải và không đủ sức để chống lại bất cứ một cuộc xâm
lược nào bất kể từ đâu tới.
Lào có tất cả là 5,083 km biên giới trong đó 235 km là biên
giới Lào-Miến; 541 km là biên giới Lào-Miên; 423 km là biên
giới Lào-Trung; 1,754 km là biên giới Lào-Thái; và 2,130 km
là biên giới Lào-Việt. Quân Đội Nhân Dân Lào (Lao People's
Army) có khoảng 28,000 quân và ngân sách quốc phòng trên
dưới 20 triệu USD cho năm 2004. Quân cụ trang bị gồm có
khoảng 260 xe tăng và xe thiết vận, 12 chiếc máy bay, súng
pháo, phòng không và tên lửa. Ngoài lực lượng chính quy, Lào
có khoảng 954 ngàn dân trong lứa tuổi 18-49 đầy đủ điều kiện
sức khỏe để tham gia nghĩa vụ quân sự nếu cần.
Thực trạng cần tìm ra lối thoát: với một quân đội quá nhỏ bé
mà phải phòng vệ một chu vi dài 5,083 km và một lãnh thổ
rộng 236,800 km vuông, Lào gần như bỏ ngỏ.
Nếu VML [Việt, Miên, Lào] kết hợp thành một quần thể LBĐNAC
[Liên Bang Đông Nam Á Châu], chưa nói tới sự gia nhập của
MTM [Mã, Thái, Miến] về sau, tổng cộng chu vi phòng vệ của
LBĐNAC sẽ là 8,383 km với 742,880 km vuông lãnh thổ và
132,200 km vuông lãnh hải. Quân đội của LBĐNAC lúc đó có hơn
nửa triệu quân; 3,180 xe tăng và xe thiết vận; 225 máy bay
chiến đấu/tấn công; 44 máy bay trực thăng; 2 tàu lặn SSI; 6
tàu hộ tống; 46 tàu tuần; 6 tàu đổ bộ; và 10 tàu rà phá mìn.
Thêm vào đó là 40,000 quân công an biên phòng; 3-4 triệu
quân trừ bị và 18.8 triệu người dân trong lứa tuổi 18-49 đầy
đủ điều kiện sức khỏe để tham gia nghĩa vụ quân sự.
Tuyến phòng vệ mạn Bắc dọc Trung Quốc lúc đó sẽ là 1,704 km
chiều dài, chỉ có 423 km dài hơn tuyến phòng thủ mạn Bắc của
VN đứng một mình, nhưng bù lại tựa lưng là một chuỗi cao
điểm có lợi thế phòng thủ vững chắc và không phải phân tán
lực lượng để phòng bị tuyến bên hông như trước. Tuyến phòng
thủ ven biển lúc đó sẽ là 3,887 km, chỉ dài hơn 433 km so
với tuyến phòng thủ ven biển của VN trước đây, nhưng bù lại
bờ biển Cao Miên được phòng thủ kín hơn để ngăn chận một
cuộc đổ bộ tập kích chí tử vào mạn Nam.
Thêm vào đó, bất cứ một mũi dùi tấn công nào từ mạn Bắc đánh
xuống hoặc hoặc mạn Đông đánh vào hoặc mạn Nam đánh lên,
LBĐNAC sẽ có đủ chiều dầy địa hình để triệt thoái và làm
tiêu hao lực lượng địch. Với tình trạng què quặt hiện tại,
ngay cả Việt Nam cũng chưa có được khả năng bay xa thọc sâu
(projection capability) để có thể đẩy tuyến phòng thủ ra xa
hơn hoặc có thể thọc sâu vào hậu phương của địch. Thiếu khả
năng này, VML hoàn toàn thụ động trên chiến trường và cũng
vì thế yếu tố chiều dầy địa hình lại càng trở nên quan trọng
hơn.
Nhưng lợi ích lớn nhất trong tất cả những lợi ích quân sự,
nếu LBĐNAC thành hình, có lẽ là cơ hội hiện đại hóa quân đội
liên bang để tái lập sự thăng bằng quân sự cho toàn vùng.
Một LBĐNAC nằm trong vòng đai BVTC [bao vây tiếp cận] phải
có đủ thực lực nhằm bảo đảm hiệu quả của chiến lược BVKCLBTQ
[bao vây, kềm chế, làm bể Trung Quốc]. Vì thế, Hoa Kỳ và
đồng minh trợ giúp LBĐNAC để nhanh chóng cải thiện khả năng
tự vệ của nó là một điều đương nhiên sẽ phải xảy ra. Đây là
một cơ hội hiếm có cho VML.
Hiểm Họa Mêkông - Con sông Mekong (còn có tên là Dza
Chu, Lan Trường Giang, Mea Nam Không, Tonle Thom, và Cửu
Long) dài 4,350 km là tài sản chung của 7 quốc gia trong đó
có VML. Tuy được xếp hạng thứ mười một về chiều dài, Mekong
được xếp hạng nhì về sự phong phú sinh thái. Từ độ cao 4,975
m chảy xuống, Mekong mang theo dòng nước một số lượng phù sa
khổng lồ và một tiềm năng thủy điện to lớn.
Trung Quốc ở đầu nguồn, chiếm một nửa chiều dài của con
sông, đã ngang nhiên xây nhiều đập thủy điện bất chấp thiệt
hại kinh tế và môi sinh của các quốc gia phía dưới nguồn.
Đập Manwan (Man Loạn) xây xong từ năm 1993 tại Lancang. Đập
Dachaosang (Đại Chiến Sơn) khởi công năm 1996 và đã hoàn
tất. Đập Jinghong (Cảnh Hồng) hoàn tất vào tháng 6 năm 2003.
Đập Xiaowan (Tiểu Loan) khởi công năm 2001 dự trù hoàn tất
vào năm 2010. Ganlanba, Gongguoqiao, Mensong và Nuozhadu là
4 đập còn lại, trong số 8 đập nằm trong kế hoạch từ thập
niên 1970, cộng thêm 6 đập dọc chính lưu và 13 đập nằm ở
những phụ lưu cũng sẽ lần lượt được thực hiện.
Nhóm Songkhram Conservation Group của Thái đã báo cáo là tại
Lào và bắc Thái mực nước Mekong xuống tới mức thấp nhất và
số lượng cá cũng xuống tới mức thấp nhất, từ trước cho tới
giờ mà người ta còn ghi nhớ trong ký ức. Chuyên gia nhiều
kinh nghiệm cũng cho rằng những dự án này sẽ làm hại Biển Hồ
của Cao Miên (Cambodia's Great Lake) và hại đến đồng bằng
nam bộ của Việt Nam. Biển Hồ cung cấp 100,000 tấn cá một
năm, tức cung cấp tới 80% lượng protein cần thiết, cho dân
Cao Miên.
Làm hại Biển Hồ tức là làm bể nồi cơm của dân Miên. Dòng
Mekong hàng năm cung cấp phù sa cho đồng bằng nam bộ để sản
xuất khoảng 14 triệu tấn lúa gạo nuôi sống trên 80 triệu dân
Việt và còn dư để xuất khẩu. Làm thiệt hại đồng bằng nam bộ
là làm bể nồi cơm của dân Việt. Mekong là nguồn sống của 65
triệu người trong vùng hạ lưu. Làm thay đổi sinh thái của
Mekong là bóp chết sự sống của họ. Có 76 tổ chức của 25 quốc
gia đã từng lên tiếng nhưng Trung Cộng bất chấp lời khuyên
và sự phản đối.
He Daming, một nhà nghiên cứu của Trung Quốc tại Yunan, đã
biện hộ là những cái đập thủy điện này có ích cho việc điều
hòa lượng nước của Mekong bằng cách giữ lại lượng nước trong
mùa lụt và xả nước trong mùa khô. Những lời này của He
Daming hé lộ cho thấy một điều đáng sợ vì tính cách chiến
lược của những đập thủy điện mà Trung Quốc đang xây hoặc sắp
xây.
Đó là (a) nó cho Trung Cộng khả năng để làm nên những trận
lụt giả tạo và những hạn hán giả tạo đối với những vùng đất
thấp nằm cuối nguồn Mekong như là Việt Nam, Cao Miên, Thái
Lan và Lào; (b) nó cho Trung Cộng quyền quyết định mạng sống
và sự sống của 65 triệu người trong 4 quốc gia Việt, Miên,
Lào, Thái; và từ đó (c) nó cho Bắc Kinh cây “gậy đánh chó”
để buộc những quốc gia nằm trong tầm ảnh hưởng phải nhượng
bộ những yêu sách của nó.
Trong mùa lụt năm 2000, tính chung cho cả hai nước Việt Nam
và Cao Miên, đã có tới 800 người bị mất mạng, thiệt hại 430
triệu USD, và 8 triệu người bị ảnh hưởng. Chỉ với cái đập
thủy điện Manwan thôi mà ba nướcVML đã khổ sở và thiệt hại
vì nó không ít. Nếu Trung Cộng thực sự thực hiện tất cả
những dự án của nó thì liệu VML sẽ ra sao?
Chưa hết, nhiều chuyên gia còn báo động là nước thải công
nghệ từ khu vực Yunnan (Vân Nam) ra Mekong, nếu không kiểm
soát, sẽ biến Mekong thành ống cống lớn và Biển Hồ thành bồn
chứa nước dơ. Những thiệt hại môi sinh này liệu những người
lãnh đạo yếu hèn của VML có thể gánh nổi và ngẫng mặt nhìn
thế hệ mai sau?
MRC (Mekong River Commision) đã nhiều lần mời Trung Quốc gia
nhập để có thể bàn cãi biện pháp “sử dụng con sông này một
cách có trách nhiệm hơn” thì bị Trung Cộng thẳng thừng từ
chối. Điều đáng buồn là trong lúc các NGOs và các nước khác
quan tâm cho môi sinh của các quốc gia có dòng Mekong đi
ngang qua bị làm hại bởi những quyết định “du côn” của Trung
Quốc thì ba quốc gia VML hình như không dám tích cực lên
tiếng, nhất là VN.
Nếu VML chuyển hóa và kết hợp thành một quần thể LBĐNAC nhân
bản, dân chủ, pháp trị thì nhất định không ai, kể cả Trung
Cộng, có thể tự tung tự tác làm hại môi sinh của nhân loại
và chắc chắn giải pháp cho việc khai thác tiềm năng của dòng
Mekong sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Đó là chỉ mới nói tới một dòng
Mekong chứ chưa nói tới những tài nguyên khác, thí dụ như
rừng của VML bị tàn phá để lấy gỗ bán cho thị trường chế
biến Trung Quốc và thú rừng bị lùng bắt đến độ diệt chủng để
cung cấp cho thị hiếu ăn uống của người Tàu.
Hiểm Họa Nội Trị Và Ngoại Giao - Chưa hết, trong lúc
đất nước đang bị Trung Cộng lũng đoạn chính trị, đánh phá
kinh tế, thôn tính văn hóa và lấn chiếm lãnh thổ thì kèm
theo đó áp lực chính trị và ngoại giao tiếp tục gia tăng.
WTO, WB, ADB đang thúc hối phải cải tổ nhanh hơn và sâu rộng
hơn. USAID, UNICEF, WHO, NGOs phát biểu lo ngại về tình
trạng bất bình đẳng ngày càng cách xa và tình trạng nghèo
đói bệnh tật của dân Việt ở vùng sâu vùng xa.
Những tổ chức của quốc tế, của người Việt hải ngoại trên
khắp thế giới và quốc hội Hoa Kỳ đang ầm ĩ tố cáo đòi hỏi
quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận cho người dân trong
nước.
Những nhân vật cộng sản phản tỉnh đang móc nối thành phần
thứ ba và thành phần cấp tiến đứng lên đòi dân chủ hóa bộ
máy cầm quyền.
Những dân tộc Thượng vùng cao nguyên đang ra mặt chống trả
sự áp bức bất công và đòi ly khai Việt Nam để thành lập một
quốc gia DEGAR độc lập.
Nông dân nhiều nơi biểu tình và đánh nhau với công an vì bất
mãn những lạm dụng qui hoạch cướp đoạt đất đai của họ.
Chưa hết, nhiều bằng chứng cho thấy bên trong guồng máy nhà
nước và đảng (a) thành phần chóp bu đang đấm đá nhau để
tranh giành quyền lực và quyền lợi, (b) những cánh tay kinh
tế của nhà nước và đảng choảng nhau thường xuyên để dành địa
bàn hoạt động, (c) cán bộ nhà nước và cán bộ điều hành công
ty quốc doanh từ trên xuống dưới đua nhau hoang phí phá tán
của công, nạo hút máu mỡ của dân, gạ bán tài nguyên của
nước, rồi tìm cách chuyển tài sản ra hải ngoại đầu tư và đưa
con du học. Tất cả những tệ trạng này đe dọa đến sự mất còn
của chế độ. Và dường nhiều người đang âm thầm chuẩn bị cho
một cuộc “di tản chiến lược ra hải ngoại” phòng hờ nếu chế
độ bị sụp đổ.
Hiểm Họa Lực Lượng Lao Động Bị Băng Hoại - Trong tất
cả những hiểm họa, ngoài hiểm họa bị Tàu hóa, có lẽ hiểm họa
con người bị băng hoại là đáng sợ hơn cả. Nhìn vào lực lượng
lao động tại Việt Nam, từ thượng tầng tới hạ tầng, từ trái
qua phải, từ trong ra ngoài, từ công sở nhà nước tới nông
trường tới xí nghiệp tới cửa hàng tới bến xe, từ trí thức
tới bình dân, đâu đâu cũng thấy có vết đen kém khuyết đức
tính tốt mà một người nhân viên cần phải có.
Đánh cắp vật liệu, đánh cắp thời gian, đánh cắp tiền bạc,
đánh cắp tin tức, đánh cắp phương tiện, đánh cắp giao kèo,
đánh cắp dịch vụ, đánh cắp danh tiếng, đánh cắp công trình,
đánh cắp sáng tạo, đánh cắp bản quyền, gian lận báo cáo,
gian lận hồ sơ, gian lận bằng cấp học vị, lừa gạt khách
hàng, khiếm nhã với người chung quanh, thiếu thiện chí phục
dịch . . . hoặc nhận thức rõ hoặc không nhận thức rõ về hành
vi của mình, hoặc không vui hoặc hả hê về hành vi của mình.
Hiểm họa một lực lượng lao động thiếu những đức tính tốt
hoặc đi xa hơn là một lực lượng lao động bị băng hoại nhân
cách sẽ đe dọa trực tiếp tới tiềm năng sản xuất và nội lực
của Việt Nam.
Hiểm Họa Lực Lượng Trẻ Bị Dồn Nén - Nhìn vào giới
trẻ, những rường cột của đất nước trong tương lai, thì lực
lượng thanh niên thanh nữ của Việt Nam quả thực là một một
tiềm lực lớn, một biển hỏa nham dưới lòng đất cần có chỗ để
phát tiết năng lực và năng lượng. Thông minh, hiếu học, muốn
tiến thân, có kiến thức, sáng tạo, quyền biến, đa năng đa
dạng, thực tế và lãng mạn hiện diện cùng một lúc trên bản
thân để thể hiện sức sống mang nét nhân bản . . . là một số
đặc tính đáng ngưỡng mộ của tuổi trẻ Việt Nam.
Tuy nhiên, trong một môi trường què quặt hãm bức như hiện
nay, biển hỏa nham này thực sự không có hướng đi và không có
chỗ để phát tiết. Nhiều hiện tượng tiêu cực được ghi nhận
như là nghiện ma dược, nghiện coi phim tình dục, tập trung ở
những tụ điểm trụy lạc, băng đảng phá phách, đua xe sống
chết trên đường phố, làm thơ “siêu ấn tượng” tình dục, tự
kết liễu cuộc sống.
Hoặc hành nghề giải quyết sinh lý cho các mệnh phụ, làm gái
gọi có nhãn hiệu người mẫu hay hoa hậu, đóng phim tình dục,
làm vợ hờ cho sếp lớn, làm gái ôm đủ loại đủ kiểu, làm vợ
ngoại kiều, bán thân cho Tàu . . . để kiếm tiền hưởng thụ
theo kiểu Mỹ [một sự ngộ nhận đáng tiếc!].
Những hiện tượng tiêu cực diễn ra ở một diện rộng đến độ báo
chí trong nước phải lên tiếng báo động và phê phán là chủ
nghĩa vật chất đang thống trị giới trẻ Việt Nam hoặc đạo đức
của họ đang bị băng hoại. Có lẽ sự phê phán nặng lời này
cũng không sai.
Tuy nhiên, những hiện tượng tiêu cực cần phải được hiểu là
những dấu hiệu tiền báo của một sự thật cực kỳ quan trọng:
một biển hỏa nham không có hướng đi, chưa có lối phát tiết
và sẵn sàng tìm khe hở để bộc phát. Và khi nó bộc phát, hậu
quả sẽ khó lường.
Hiểm Họa Phân Cách Giữa Ba Miền - Ba miền
Bắc-Trung-Nam tuy cùng một đất nước nhưng luôn luôn nhìn
nhau với con mắt “phân cách” hoặc ngấm ngầm hoặc biểu lộ. Từ
khi Chúa Nguyễn Hoàng vào đất Quảng Trị mở ra giai đoạn Nam
Bắc phân tranh, cho đến khi con cháu được đất ở phương Nam,
cho đến giai đoạn chống Pháp, cho đến cuộc chiến tranh
Việt-Mỹ chia đôi hai miền Nam Bắc và cho đến nay thái độ
phân cách giữa ba miền luôn luôn tồn tại.
Thái độ phân cách này không phải do người Pháp tạo ra vì nó
đã hiện hữu suốt và hơn 4 thế kỷ, người Pháp chỉ lợi dụng
vào cái sẵn có. Thái độ phân cách phát sinh không phải vì
khối dân tộc Việt mang bản chất chia rẽ hay oán ghét nhau
nhưng vì những va chạm đến từ hai nguyên do chính.
Thứ nhất, phần lớn là do “một cái mền chính sách” đắp lên
cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Cái mền có thể làm ấm áp
thoải mái dân Bắc nhưng làm nóng nực dân Nam và khó chịu dân
Trung. Không thể đắp chung một cái mền chính sách vì quần
chúng trong ba vùng mang ba bản chất khác nhau và có những
nhu cầu khác nhau. Không may là từ trước đến nay chế độ nào
cũng vấp phải lỗi lầm này.
Thứ hai, phần khác là do cái nhìn cục bộ, thiếu cảm thông,
thiếu tin tưởng và muốn áp chế của những người cầm quyền.
Không may từ trước đến nay chế độ nào cũng đi vào con đường
u tối này.
Chính sách “siết chặt” của Lê Duẩn, từ 1975 cho đến gần đầu
thập niên 1990, là một chính sách hình thành do sự thúc đẩy
bởi cái nhìn thiếu thiện cảm đối với dân miền nam vì cho
rằng “dân miền nam thiếu kỷ luật, khó dạy” và bởi cái thái
độ hạ cấp “con chúng ta sai, vợ chúng ta xài, nhà chúng ta
ở.”
Thử nhìn lại lịch sử và con người. Một phần đất trong cái
gọi là miền nam thì nam bộ là một vùng đất mới “mượn” được
từ tay của người Miên không lâu, từ khi Chúa Sải Nguyễn
Phước Nguyên gã công chúa Ngọc Vạn cho quốc vương Chey
Chetta II năm 1620 rồi lợi dụng quan hệ với con rể mượn đất
Prey Nokor [Sàigòn-Chợ Lớn] và Kas Krobey [Bến Nghé] để lập
trạm thuế năm 1623 mở đường cho cuộc nam xâm.
Đến khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lược Cao
Miên năm 1668 thì vùng đất nam bộ đã có sẵn hơn 4 vạn hộ và
lập nghiệp hàng trăm năm rồi. Ngoài những bộ tộc cố cựu như
Mạ, Chu Ru, Stiêng, Rơ Giai còn lại đa số là người Việt.
Nguyễn Hữu Cảnh chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai đặt làm
huyện Phước Long dựng Trấn Biên [Biên Hòa], lấy xứ Sài Côn
[Sài Gòn] dựng Phiên Trấn [Gia Định] rồi chiêu mộ dân phiêu
bạt từ Bố Chánh trở vào trong nam đưa về ở cho đông đảo thêm
đồng thời thiết lập hệ thống hành chánh để thu thuế và bắt
lính.
Như vậy cha ông của nhân dân miền nam trước đây là một tập
hợp của nhiều sắc tộc gồm một phần là những hảo hán Việt đi
khai phá vùng đất mới, một phần là những người Khmer còn bám
đất ở lại trước sự bành trướng của người Việt, một phần khác
là những người Chàm khẩn hoang định cư và người Thượng từ
miền cao bị bán hoặc tự nguyện tìm đến làm gia nô cho những
người giàu có. Người Minh Hương tị nạn chính trị cũng hòa
vào dòng sống đó.
Nhóm Trần Thượng Xuyên phát triển đất Đồng Nai, nhóm Dương
Ngạn Địch phát triển đất Mỹ Tho, nhóm Mạc Cửu phát triển đất
Kiên Giang, Long Xuyên và Cà Mau.
Những người Việt hảo hán này, những người Khmer, Chàm yêu
đất này, những người Thượng với bản tính ít đố kỵ bỏ sơn
cước xuống đồng bằng này, những người Minh Hương giỏi buôn
bán này . . . tất cả đã đổ mồ hôi xương máu đóng góp vào cái
gọi là lãnh thổ Việt Nam.
Họ mới chính là những người mở cõi cho Việt Nam, không phải
là vua chúa hoặc triều thần nhà Nguyễn như những sử gia
triều đình đã cho quá nhiều credit và quên mất một sự thật
là chính những bàn tay, những khối óc, những con tim, những
giọt máu và mồ hôi của quần chúng miền nam đã làm nên nó.
Chính họ, quần chúng nam bộ, làm nên miền nam của Việt Nam.
Dân miền nam là một khối hợp chủng đến từ mọi miền đủ mọi
giai cấp hòa vào dòng sống nam bộ. Họ nhiệt tình và dễ dãi.
Con cháu họ về sau mang truyền thống “chịu chơi, không màu
mè và không đố kỵ” trong máu. Nhờ quá trình đó cộng một thời
gian dài giao tiếp với người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà
Lan, Pháp, Mỹ dân miền nam vốn dĩ đã ít cục bộ càng thêm
phóng khoáng.
Dầu vậy, dân miền nam vẫn là dân nam thủy chung của đất
nước.
Dân quê miền nam yêu miền nam sông nước của họ. Họ sống với
lũ. Họ làm nhà sàn ngay trên nước. Họ sống đời gạo chợ nước
sông. Họ trôi nổi bềnh bồng trên sóng nước theo ghe thương
hồ. Họ chăn vịt, nuôi cá tôm, trồng lúa sạ trên ruộng đồng
trắng nước.
Dân thành miền nam thì chưng diện bảnh bao. Tiêu xài rộng
rãi. Giao lưu mọi giới, mọi cấp, mọi nơi “thượng vàng hạ
cám” đều có đủ. Tất cả đều muốn xuề xòa xí xóa cho xong
chuyện.
Dầu quê hay thành, dân nam đều mang nặng bản sắc “giang hồ
tứ hải giai huynh đệ.” Dân nam hâm nóng keo sơn gắn bó dân
tộc từ trong mỗi hớp rượu đế cho đến từng gấp cá nướng
truôi. Dân nam ôm ấp tự tình dân tộc một cách không chải
chuốc trong trái tim và thể hiện cũng bình dị, như câu hò ca
dao như tiếng hát cải lương trên miệng họ.
Tập đoàn Lê Duẩn không hiểu được sức mạnh này và có ý nghi
ngờ đố kỵ nên muốn hủy diệt cách sống rộng mở của miền nam
để áp đặt “văn hóa Bắc Hà nặng son phấn Bắc Kinh” và “giáo
điều lai căn” lên miền nam. Chính vì những áp chế này, và
những áp chế tương tự, mà những xung đột trầm trọng nảy
sinh.
Nói về trung bộ của miền nam, từ khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
lìa Thanh Hóa vào đàng trong dấy nghiệp cho đến đời Chúa
Nguyễn Phước Chu thì trung bộ hình thành trọn vẹn.
Lãnh thổ của đàng trong dưới thời Nguyễn Hoàng là một phần
đất đã lấy từ tay của dân tộc Chămpa. Vào thế kỷ thứ 11, Vua
Chế Củ của Chămpa đem quân xâm lấn Đại Việt bị vua Lý Thánh
Tông bắt được nên dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính
[Quảng Bình, Quảng Trị] để chuộc mạng.
Đến đầu thế kỷ thứ 14 Vua Chế Mân của Chămpa dâng hai châu
Ô, Lý [Thuận-Quảng: Thừa Thiên, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng] cho
Vua Trần Nhân Tông làm sính lễ cưới Huyền Trân Công Chúa.
Sau đó dân Việt tiến xuống phương nam lấy nốt phần đất còn
lại của Vương Quốc Chămpa lập thành tỉnh huyện sát biên giới
Cao Miên.
Năm 1611 quân Chămpa từ Đồ Bàn kéo ra xâm phạm Thuận Quảng,
Chúa Tiên sai tướng đánh dẹp, đẩy quân Chămpa lùi về tận
Diên Ninh, lấy đất mới lập thành Phủ Phú Yên.
Năm 1653 Vua Bà Tấm của Chămpa đem quân xâm phạm Phú Yên bị
đánh bại nên dâng đất Ninh Hòa và Diên Khánh chuộc mạng.
Chúa Tiên cho lập thêm Phủ Thái Khang và Phủ Diên Ninh, địa
giới mở rộng tới Phan Rang bây giờ.
Đến năm 1692, Vua Bà Tranh của Chămpa kéo quân đánh phá Phủ
Diên Ninh. Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu sai quân đánh dẹp, bắt
được Bà Tranh, đổi tên Phủ Diên Ninh thành Trấn Thuận Thành
rồi thành Phủ Bình Thuận.
Từ đó dân Chămpa trở thành một sắc tộc thiểu số của dân Việt
và toàn bộ đất đai của người Chămpa biến thành lãnh thổ
trung bộ của Việt Nam.
Xét về mặt địa lý, miền trung là một tập hợp của 4 khu vực
đồng bằng không được phì nhiêu so với đồng bằng bắc bộ và
đồng bằng nam bộ: khu vực đồng bằng Bình-Trị-Thiên, khu vực
đồng bằng Nam-Ngãi-Định, khu vực đồng bằng Phú Yên-Khánh
Hòa, khu vực đồng bằng Ninh Thuận-Bình Thuận. Mỗi khu vực
địa lý từ bắc trung bộ cho đến nam trung bộ đều có những nét
chung và riêng về mặt cấu tạo địa hình, địa lý lẫn khí hậu.
Xét về mặt sinh hoạt và nguồn gốc văn hóa, trung bộ là vùng
đất hội nhập của nhiều nền văn minh: Sa Huỳnh, Chămpa và
Việt.
Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu mong muốn trở thành là một nước
độc lập nên luôn luôn cải cách phát triển nội trị, ngoại
giao, giáo dục, võ bị theo một qui mô riêng mang tính miền
nam. Về mặt tính tình, có lẽ một chuỗi dài đấu tranh và khai
phá đất mới đã làm cho dân trung huân tập nhiều quán tính
tốt như là cần mẫn, tiết kiệm, luôn tìm kiếm và nắm lấy cơ
hội, phấn đấu, chịu đựng, kiên trì, bao bọc che chở nhau,
pha trộn với một chút lãng mạn. Thêm vào đó dân trung sâu
sắc và kín đáo hơn dân nam. Tất cả những đặc tính vừa nêu đã
làm cho dân trung không giống dân nam và cũng chả giống dân
bắc.
Tập đoàn Lê Duẩn không hiểu được sức mạnh này và có ý nghi
ngờ đố kỵ nên muốn hủy diệt cách sống rất Trung của dân
Trung để áp đặt “văn hóa Bắc Hà nặng son phấn Bắc Kinh” và
“giáo điều lai căn” lên miền trung bộ. Chính vì những áp chế
này, và những áp chế tương tự, mà những xung đột trầm trọng
nảy sinh.
Tóm lại, hoặc vì một cái mền chính sách đắp chung cho cả ba
miền hoặc vì cái nhìn cục bộ của thành phần nắm quyền lực
điều hành đất nước đã tạo nên thái độ phân cách giữa ba
miền. Điều này đe dọa đến sự ổn định quốc gia và đến sự sống
còn của chế độ.
Hiểm Họa Chèn Ép Dân Tộc Thiểu Số - Nhằm lợi dụng
những dân tộc thiểu số, theo lệnh của Hồ Chí Minh, hai khu
vực tự trị đã được khai sinh vào giữa thập niên 1950.
Khu tự trị Thái Mèo gồm hai tỉnh Sơn La và Lại Châu nằm ở
góc Tây Bắc ba biên giới Lào-Việt-Hoa với dân số 1.8 triệu
dưới sự chỉ đạo của một ủy ban gồm 23 ủy viên, trong đó có
hai người kinh, đã ra đời ngày 29 tháng 4 năm 1955.
Khu tự trị Tày Nùng gồm 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn sát biên giới Đông Bắc Việt-Hoa với dân số
1.9 triệu dưới sự chỉ đạo của một ủy ban gồm 72 ủy viên,
đứng đầu là tướng Chu Văn Tấn gốc Nùng, đã ra đời ngày 10
tháng 8 năm 1956.
Cũng trong khoảng thời gian đó, trong năm 1957, thì tại Tây
Nguyên những người trẻ trong bốn bộ lạc Bhanar, Jarai, Rhade
và Koho đã đứng ra thành lập Phong Trào BAJARAK tại buôn Ale
A nằm trong thị xã Buôn Mê Thuột của tỉnh Daklak, do Y-Bham
Enoul làm chủ tịch.
Lúc đầu tổ chức này chỉ nhằm mục đích vận động đồng bào
Thượng xuống đường để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm (a) đã
hủy bỏ qui chế tự trị với những đặc quyền dành cho người
Thượng trong vùng đất Cao Nguyên có từ thời vua chúa nhà
Nguyễn và (b) đã áp dụng chính sách đồng hóa/diệt chủng
(assimilative/genocidal program) đối với người Thượng.
Sau đó BAJARAK lôi kéo được nhiều bộ lạc khác tham gia và
cuối cùng đã xuống đường biểu tình. Họ đã lên tiếng tố cáo
là chế độ Ngô Đình Diệm đã: (a) đốt sách, dẹp trường học,
dẹp tòa án, tịch thu vũ khí săn bắn. ..nhằm hủy diệt văn hóa
và phong tục Thượng; (b) đưa 850,000 người di cư từ Bắc vào
Nam lên vùng Cao Nguyên để chiếm đất canh tác của những dân
tộc Thượng trong vùng và đẩy họ vào vùng sâu; (c) vu cáo họ
theo VC để bắt giam, tra tấn, giết chết, và cho máy bay ném
bom tàn phá buôn làng của họ. . . nhằm diệt chủng.
Đáp lại lời tố cáo của dân tộc Thượng, chế độ Ngô Đình Diệm
đã phản ứng mạnh bằng cách điều động lực lượng vũ trang để
đè bẹp cuộc biểu tình của phong trào BAJARAK vào ngày 15
tháng 9 năm 1958. Nhiều người bị giết chết và nhiều thủ lãnh
của phong trào bị bắt giam trong đó có Y-Bham Enuol, Paul
Nur, Nay Luet, YThih Eban, Siu Sip Y-Du Eban, Touneh Yoh.
Từ đó BAJARAK phải hoạt động chui và trở thành lực lượng du
kích chiến đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng tại Tây
Nguyên.
Tin vào lời hứa trả lại quyền tự trị Tây Nguyên cho người
Thượng của Hồ Chí Minh, những thủ lãnh BAJARAK đang chiến
đấu trong rừng - trong đó có Nai Der, Nai Phin, R'com Briu,
Y-Bhi Aleo, Y-Ngong Nie Kdam - chấp nhận liên minh với Bắc
Việt, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, trong buổi lễ
ra mắt quần chúng ngày 20 tháng 12 năm 1960, đã long trọng
cam kết quyền tự trị của các dân tộc thiểu số. Theo đó Mặt
Trận Giải Phóng Tây Nguyên đã ra đời ngày 19 tháng 5 năm
1961, do Y-Bhi Aleo gốc Rhade làm chủ tịch.
Một mặt khác, cũng trong năm 1961, CIA đã hối hả chiêu mộ và
vũ trang cho dân Thượng theo chương trình Phòng Vệ Bản Làng
(village defense program) và chương trình Thám Báo (Commando
program). Tin vào lời hứa trả lại quyền tự trị của CIA,
người Thượng đã làm chấp nhận làm việc cho Hoa Kỳ.
Thế là dân tộc Thượng hoàn toàn bị cuốn hút vào cuộc chiến
Việt Nam.
Với sự khuyến khích của Pháp và của Norodom Sihanouk, ngày
20 tháng 9 năm 1964 lực lượng FULRO (Front Unifié de
Libération des Races Opprimées/ United Front for the
Liberation of Oppressed Races) đã ra đời tại Phnom Penh do
Tướng Y-Bham Enuol gốc Rhade lãnh đạo. Mục tiêu của FULRO là
đòi quyền tự trị cho DEGAR (danh xưng cho người Thượng Tây
Nguyên được sử dụng lần đầu tiên từ miệng Enuol trong Hội
Nghị Đông Dương tổ chức tại Phnom Penh).
Cũng trong ngày 20 tháng 9 năm 1964 năm trại lính Thượng
thuộc chương trình CIDG (Civilian Irregular Defense Group)
tại Buôn Sar Pa, Muôn Hô, Buôn Mega . . . thuộc tỉnh Daklak
đã đồng loạt nổi loạn, giết chết 5 sĩ quan và 27 hạ sĩ quan
người kinh của Lực Lượng Đặc Biệt.
Trước đó 3 tuần lễ trại Buôn Mega đã nổi loạn bắt giam
trưởng trại là một đại úy người kinh. Đại Tá Trần Cửu Thiên
(lúc đó là Thiếu Tá) chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt đã
nhảy dù vào trại để điều tra. Nhiều cuộc thương thuyết đã
diễn ra trong khoảng thời gian một năm, cho tới khi đạt thỏa
hiệp vào tháng 9 năm 1965.
FULRO đã đòi quyền tự trị, có quốc kỳ riêng, và có lực lượng
vũ trang riêng với 50,000 quân. VNCH không đáp ứng những đòi
hỏi này đồng thời lên tiếng chỉ trích biến cố này là âm mưu
của CIA.
Tuy nhiên, hai bên cuối cùng cũng đã đồng ý một số giải
pháp. Nhà cầm quyền Miền Nam Việt Nam cho thành lập bộ phát
triển dân tộc thiểu số để chăm lo kinh tế, xã hội và giáo
dục cho đồng bào Thượng và ban hành một số quy chế đặc biệt
dành cho đồng bào Thượng. Và, lực lượng FULRO không liên
hiệp với cộng sản.
Sau 1975, tình trạng của những dân tộc thiểu số càng đáng
thương hơn. Trong đợt cải tổ hành chánh ban hành ngày 25
tháng 2 năm 1976, khu tự trị Thái Mèo và khu tự trị Tày Nùng
bị khai tử, không khác cái chết âm thầm của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam và Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên.
Những cột trụ gốc dân tộc thiểu số, điển hình là Thượng
Tướng Chu Văn Tấn hoặc Lê Quảng Ba bị giam cầm và thủ tiêu.
Những điều hứa hẹn dành cho dân tộc thiểu số trước đây đều
là bánh vẽ. Bên Cao Miên thì Khmer Rouge đã xử tử Y-Bham
Enoul cùng với vợ con ông ta và khoảng 100 quân FULRO.
Năm 1986, khoảng 200 quân FULRO vượt biên giới qua Thái xin
tỵ nạn chính trị và sau cùng định cư tại North Carolina. Năm
1992 thêm 400 quân FULRO ra trình diện với LHQ tại tỉnh
Mondukiri và cuối cùng đã sang định cư tại North Carolina.
Phong trào FULRO chính thức bị khai tử từ năm đó.
Riêng tại Tây Nguyên, cũng từ sau năm 1975, với khoảng
40,000 người Thượng đã từng là quân nhân hoặc cán bộ phục vụ
cho Hoa Kỳ, dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã là đối tượng của
những chính sách thiếu khoan dung. Giống như tình trạng của
những quân nhân và cán bộ VNCH, họ đã bị giam cầm trong
những trại học tập cải tạo. Một số bị tra tấn và bị giết.
Nhưng bất hạnh của những người DEGAR không phải chỉ có thế.
Chương trình định canh định cư đã cưỡng đoạt quyền sống của
họ một cách thô bạo. Chương trình di dân Thanh Hóa-Nghệ
An-Hà Tỉnh từ miền bắc vào Tây Nguyên đã cưỡng đoạt đất sống
của họ một cách trắng trợn. Chương trình cưỡng bức kế hoạch
hóa gia đình đã cố ý triệt khả năng sinh đẻ của họ để diệt
chủng dần dà (creeping genocide) một cách thâm độc. Thêm vào
đó họ còn bị cầm tù, bị hãm hiếp, bị tra tấn và bị giết hại
một cách tàn ác chỉ vì theo đạo Tin Lành DEGAR.
Rồi trong tháng 2 năm 2001, một cuộc biểu tình lớn đã nổ ra
tại Dak Lak. Hàng chục ngàn người Thượng đã tập trung về thị
xã Buôn Mê Thuột để phản đối nhà cầm quyền CSVN đã đối xử
tàn tệ với họ. Cuộc biểu tình bị đàn áp và dẹp tan bằng vũ
lực. Tiếp theo đó là những đợt bắt bớ, tra tấn và giết hại.
Hàng ngàn người Thượng đã bỏ trốn vào rừng và vượt biên giới
sang Cao Miên. Dọc biên giới, công an và bộ đội CSVN đã mở
những cuộc hành quân săn đuổi và bắn giết họ như là săn giết
những con thú nơi hoang dã. Con số tử vong thực sự có lẽ cao
hơn rất nhiều so với những con số đã được những tổ chức quốc
tế báo cáo.
Rồi ngày 20 tháng 4 năm 2004 một cuộc biểu tình khác, quy mô
hơn và nhịp nhàng hơn, đã nổ ra tại Tây Nguyên. Hàng trăm
ngàn người Thượng đã tập trung biểu tình tại nhiều nơi: Buôn
Mê Thuột, Ayunpa, Dak Mil, Cu Jut, Phước Long, Kon Tum. Dầu
những người tham dự biểu tình đã có chủ trương không bạo
động, máu vẫn đổ dưới sức ép của bạo quyền. Hàng trăm người
bị thiệt mạng và hàng trăm người khác bị đã thương. Cũng như
lần trước, sau khi đàn áp và dẹp tan cuộc biểu tình là những
đợt càn quét, bắt bớ, tra tấn, và giết hại một cách dã man.
Điển hình là trường hợp của nạn nhân Y-Rung Nie, một người
đàn ông của buôn Kna tham dự biểu tình, đã bị công an xử tử
tại một vườn cà phê bằng cách đóng đinh lên một thập tự giá
với 4 cây đinh lên hai chân, 4 cây đinh lên hai tay, 1 cây
đinh lên ngực và 2 cây đinh lên đầu.
Có thể nói một cách khẳng định, những lời hoa mỹ “bình đẳng,
đoàn kết tương trợ giữa các sắc tộc” lập đi lập lại trong
những kỳ đại hội đảng lần 7 và 9 đều là những lời dối trá.
Tây Nguyên có khoảng 3 triệu người Thượng dưới thời Pháp
trị. Đến nay chỉ còn lại khoảng 1.1 triệu người. Trong đó
Jarai chiếm 320,000; Rhade chiếm 258,000; Bahnar chiếm
181,000; Stieng chiếm 66,000; Koho chiếm 122,000; và Mnong
chiếm 89,000. Hơn 40 sắc tộc đã bị xóa tên.
Đứng trước âm mưu diệt chủng của chế độ, đứng trước tình
trạng bất công và áp bức của giới cầm quyền, đứng trước tình
trạng quyền sống căn bản của con người bị tước đoạt thô bạo,
người Thượng Tây Nguyên không thể không đứng dậy để đấu
tranh và chắc chắn là sẽ tiếp tục đứng dậy để đấu tranh.
Những chính sách thiếu độ lượng, những tham lam quá đáng,
những ứng xử thất đức và kém cỏi đã làm cho đại thể dân tộc
của đất nước Việt Nam bị rạn nứt trầm trọng. Chỉ một tác lực
từ bên ngoài, đúng lúc và đúng tần số, cái gọi là khối dân
tộc Việt Nam đó có thể sẽ vở ra thành nhiều mảnh.
LBĐNAC Là Một Lối Thoát Tốt Đẹp Duy Nhất Cho
Việt Nam
Nếu muốn hóa giải những đe dọa triền miên vừa nêu, một sự
chuyển hóa kịp lúc để đưa đến những thay đổi tận gốc rễ là
một lộ trình phải thực hiện. Nhu cầu này có thể khẳng định
được. Vấn đề chỉ là làm thế nào. Trên căn bản đó, LBĐNAC là
một giải pháp tốt đẹp cho Việt Nam.
Tốt đẹp vì nó mở ra một cơ hội hiếm hoi và tuyệt vời để thực
hiện một cuộc chuyển hóa nhịp nhàng và khá ổn định.
Tốt đẹp vì tiết kiệm được xương máu.
Tốt đẹp vì bảo vệ được quyền lợi của mọi phía.
Tốt đẹp vì mở ra một tiền đồ đầy hứa hẹn cho dân tộc.
Tốt đẹp vì xua được bóng tối của một thời.
Tốt đẹp vì thể hiện một tình thương lớn.
Và dĩ nhiên là tốt đẹp vì những lợi ích chung.
Một Việt Nam hiện tại nên được tách thành nhiều tiểu bang
trong tương lai, và nếu cần thiết cứ cho lập lại những khu
vực tự trị. Nhiều tiểu bang độc lập và những khu tự trị cùng
nằm trong quần thể LBĐNAC - bảo đảm bởi một hiến pháp tốt
đẹp - để ước vọng mỗi miền, nhu cầu mỗi miền, phong tục văn
hóa mỗi miền được đáp ứng đúng mức và đáp ứng một cách hiệu
quả [tránh tình trạng một chiếc mền đấp cho cả ba miền
Trung, Nam, Bắc hoặc đấp chung cho người kinh lẫn thượng].
Xem tiếp... |