Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ
Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày
|
DUY THỨC HỌC
1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
| 21
| 22
| 23
| 24
| 25
| 26
| 27
| 28
| 29
| 30
Sắc pháp
Thường thường khi nói tới những tông phái đạo Bụt ở Á Đông, chúng ta
có từ mười đến mười ba tông phái. Trong đó Duy thức thuộc về một tông
phái gọi là Pháp tướng tông. Pháp tướng tông tức là một tông phái
nghiên cứu về tướng trạng của các pháp, nó không cùng phương pháp với
những tông phái nghiên cứu về bản tánh của các pháp. Pháp tướng tông
nghiên cứu về những hành tướng của các pháp, có tới một trăm pháp gọi là
bách pháp. Có một tác phẩm chúng ta nên đọc là Bách Pháp Minh
Môn luận, hay là Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn luận. Trong đó
một trăm pháp được trình bày ra, đây là một tác phẩm được coi như là căn
bản của Pháp tướng tông. Ở trong pháp này chúng ta đã học tám tâm vương
và năm mươi mốt tâm sở. Tám tâm vương tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý, ý thức và a-lại-da thức. Năm mươi mốt tâm sở chúng ta có học rồi. Bây
giờ chúng ta nói tới sắc pháp. Sắc tức là vật chất thuộc
về hình tướng, hình thể, tiếng Phạn là rupa. Trước hết là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, rồi đến năm đối tượng của nó tức là sắc, thanh,
hương, vị, xúc. Năm giác quan và năm loại đối tượng. Và có một thứ đối
tượng nữa gọi là pháp, nhưng pháp này có nội dung trong một phạm vi rộng
lớn hơn. Hình sắc cũng là một pháp, âm thanh cũng là một pháp, những chữ
pháp này gồm tất cả các hiện tượng. Ví dụ như núi, sông, cây, cỏ, người.
Những gì mà đối tượng không những của năm thức đầu, mà còn là của thức
thứ sáu, và nó cũng thuộc về sắc. Ví dụ như thức thứ sáu đang quán sát
một cái bàn, thì cái sắc đó có thể là đối tượng của nhãn thức, nhưng
cũng là đối tượng của thức thứ sáu nữa. Ví dụ như khi chúng ta có một ý
niệm về nguyên tử, tuy rằng con mắt không thấy được nguyên tử, nhưng
nguyên tử vẫn là đối tượng của ý thức và nguyên tử là một sắc pháp. Thì
sắc pháp đó vượt ra khỏi tầm nhận thức của năm thức trước. Khi chúng ta
phân tích nguyên tử thành ra những điện tử, trung hòa tử thì những điện
tử đó cũng là sắc pháp và nó chỉ có thể duyên tới được do ý thức mà
thôi, còn năm thức trước không động tới được. Và khi nó nhỏ cho đến nỗi
như là láng giềng của hư không - lân hư trần thì cũng chỉ có ý
thức mới duyên tới được thôi. Trong định chúng ta có thể duyên tới những
pháp mà năm thức trước không duyên tới được, thì cái đó cũng thuộc về
sắc pháp. Phạm vi của sắc pháp rất là rộng. Sắc ở đây không chỉ có nghĩa
là hình và sắc, nó còn có nghĩa là vi tế nữa. Thành ra danh từ vật chất
(matière) là đều nằm trong phạm vi này, dầu là vật chất của nhà vật lý
học nguyên tử vốn không phải là vật chất của người thường. Người thường
thấy cái bàn nó khác, nhưng nhà vật lý nguyên tử khi họ nhìn cái bàn, họ
thấy vật chất của cái bàn khác hẳn cái vật chất của chúng ta. Giờ đây
các nhà khoa học về nguyên tử, họ không thể phân biệt giữa cái sắc và
cái tâm được. Họ nói gần như là những nhà Phật học. Họ nói rằng: một
điện tử (electron) trước hết là một ý niệm của chúng ta về điện tử. Vậy
thì điện tử trước hết là một ý niệm về điện tử. Cũng như chúng ta nói
cái bàn này trước hết là cái tướng phần của nhận thức chúng ta, nó là
một khái niệm về cái bàn. Cái bàn đối với chúng ta là khái niệm mà chúng
ta có trong đầu về cái bàn. Còn thực chất của cái bàn, tự tánh của cái
bàn lại là một chuyện khác. Do đó khái niệm của chúng ta có thể tới gần,
hay là đi xa với thực thể là tùy theo chiều sâu nhận thức của chúng ta.
Nhờ khoa học và nhờ thiền quán mà khái niệm của chúng ta càng ngày càng
bớt thô đi, ngày càng tế lại. Càng tế lại là càng gần với sự thật, và
ranh giới giữa vật và tâm hầu như không còn nữa. Tôi nhớ là ngày xưa đọc
sách của Edison, ông viết như thế này: chúng ta đi rất xa và chúng ta đi
qua một bến bờ xa lạ. Chúng ta nghĩ là chúng ta chưa bao giờ tới. Nhưng
bên bến bờ xa lạ kia chúng ta tìm thấy những dấu chân, mà khi chúng ta
nhìn kỹ lại, chúng ta hoảng hồn mà nhận thấy rằng, đó là những dấu chân
của chính chúng ta.
Các nhà khoa học bây giờ cũng thấy như vậy, họ đi tìm rất sâu vào
trong thế giới của điện tử, của vật chất và càng đi sâu vào thì họ thấy
cái thế giới của cảm giác thông thường là sai lầm, là ảo tưởng. Và khi
họ càng đi sâu vào thế giới của sắc, của vật chất chừng nào, thì họ càng
thấy cái đó là tâm của họ. Bây giờ những nhà khoa học tiên tiến nhất
trong nghành vật lý đều nghĩ như vậy, và rất nhiều người quay trở về với
đạo học Đông phương tìm cảm hứng để đi xa hơn nữa. Quý vị nào muốn học
khoa học, thích khoa học thì nên đọc sách của các nhà vật lý hiện giờ
nổi tiếng như: Davis Bohm, hay Fritzjof Capra thì quý vị sẽ thấy rằng, họ
rất có khuynh hướng trở về với đạo học Đông phương để họ nghiên cứu.
David Bohm viết nhiều cuốn sách rất hay, trong đó có một cuốn tên là
The Implicalé Order. Ông nói đại khái như thế này: thường thường
mình nghĩ rằng vạn sự, vạn vật có mặt, cái này ngoài cái kia. Ví dụ như
là núi có mặt ngoài sông, sông có mặt ngoài núi, mây có mặt ngoài không
khí, không khí có mặt ngoài mây, thì cái đó gọi là existed other. Trong
một cái người ta thấy được tất cả, một tức là tất cả. Quan niệm đó
rất sát với quan niệm nhất tức nhất thiết trong kinh Hoa Nghiêm.
Họ nói rằng một điện tử không phải là điện tử riêng biệt, không phải là
một thực thể riêng biệt. Một điện tử tức là một biểu hiện của tất cả các
điện tử khác. Một điện tử là do tất cả các điện tử khác làm ra. Ngôn ngữ
đó đối với những người sơ cơ về khoa học thì không hiểu, nhưng đó là thứ
ngôn ngữ mà hiện giờ họ nói chuyện với nhau. Cũng như là ngôn ngữ của
Bát nhã, hay là của Duy thức cũng vậy. Những người mới học đạo Bụt thì
thấy như là khó hiểu được, nhưng đi sâu vào thì sẽ thấy như vậy. Trong
cuốn Trái tim mặt trời tôi có nói sơ sơ về một vài cái như vậy.
Chúng ta sống trong thời đại này thì chúng ta phải biết nói ngôn ngữ của
thời đại chúng ta và khoa học bây giờ cũng là một phần của ngôn ngữ thời
đại. Vì vậy cho nên chúng ta nói chuyện âm nhạc, nói chuyện khoa học với
ngôn ngữ của thời đại thì chúng ta mới có thể diễn tả được cái thấy, cái
hiểu của chúng ta về đạo Bụt. Trong ý niệm về sắc pháp chúng ta thấy như
vậy. Tuy rằng ban đầu chúng ta có phân chia tâm pháp ra khỏi sắc pháp,
nhưng sự phân chia đó từ từ bị xóa nhòa đi và cái này nó trở thành cái
kia, cái này không thể có được nếu không có cái kia. Khi được hỏi rằng
vũ trụ là cái gì, tất cả mọi cái là cái gì thì Bụt trả lời rằng: năm
giác quan, năm đối tượng và thức phát hiện đó là tất cả mọi cái. Tại
vì không có pháp nào ra ngoài những yếu tố đó. Ý niệm về mười hai xứ hay
là mười tám giới mà chúng ta thấy trong kinh điển, hay là trong Bát Nhã
tâm kinh là như vậy. Mười hai xứ tức là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ, thiệt, thân
xứ, ý xứ, rồi sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ tức là
mười hai xứ. Và khi cộng thêm với sáu thức nữa thì nó thành ra thập
bát giới là mười tám giới, đó là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức. Ngày xưa lúc bắt đầu thì ý thức gồm luôn
cả mạt-na và a-lại-da. Tại vì người ta nắm lấy một mà khai thác cái
chiều sâu của nó, nó thành ra mạt na và a-lại-da của thức. Thành ra
người ta chỉ cần kể sáu thôi, sáu cái này, sáu cái kia, sáu cái nọ, nó
thành ra mười tám, gọi là mười tám giới. Vì vậy tất cả các pháp đều được
liệt vào trong mười tám cái đó, không có cái nào vượt ra khỏi. Nhưng
hiện tượng về vật chất, về tinh thần đều nằm trong mười tám cái đó, gọi
là thập bát giới. Nhãn giới cho đến ý thức giới, vô nhãn giới, nãi chí
vô ý thức giới. Giới thứ nhất là nhãn giới và ý thức giới là giới thứ
mười tám. Tức là tất cả những hiện hữu vật và tâm đều nằm ở trong mười
tám giới đó và trong đó có mười một cái về sắc.
Tâm bất tương ưng hành pháp
Những pháp không phải là sắc và không phải là tâm thì gọi là những
pháp bất tương ưng hành. Tương ưng tức là nó hòa hợp, nó đi theo.
Cittaviprayuktasankhara dharma là tiếng Phạn, dịch là tâm bất
tương ưng hành. Cittaviprayuktasankhara là bất tương ưng
hành. Ý niệm về các pháp bất tương ưng hành này được hệ phái
Sarvastivada phát triển ra rất rộng rãi.
1. Trước hết là đắc, tiếng Phạn là prapti. Ví dụ như mình
được một đồng bạc thì gọi là đắc, nó không phải là một sắc pháp, sắc
pháp là đồng bạc. Sự mừng vui của mình là tâm pháp, nhưng sự kiện mình
xí được là một pháp, gọi là tâm bất tương ưng hành pháp. Những
tâm sở thì tương ưng, còn những cái này nó không tương ưng.
2. Mạng căn, tiếng Bắc gọi là mệnh căn. Mạng căn tức là sự sống,
đời sống, sinh mạng của mình, nhưng không nói về cái thân thể, cũng
không nói về tâm thức. Tức là mỗi người nó có một cái sinh mạng sống ba
mươi năm, hay là năm mươi năm, hay là một trăm năm, cái giai đoạn của
sinh mạng, cái sự sống hay là không sống.
3. Chúng đồng phận, tiếng Phạn là nikayasanbhaga, có nghĩa là
tính cách tương tợ thuộc về cùng một chủng loại. Ví dụ như những cây
viết chì có một cái chung với nhau và được liệt vào một phạm trù là viết
chì, thì tụi nó có tính cách chúng đồng phận với nhau. Hay là
người chẳng hạn, khi mình nói người tức là có tính cách người ở trong
cái đó, gọi là chúng đồng phận.
4. Dị sinh tánh, nó là danh từ như vậy nhưng rất quan trọng. Dị
là khác nhau, dị sinh tánh tức là sự ngược lại của chúng đồng phận tức
là sự khác nhau giữa những chủng loạI, ví dụ như giữa con người và cục
đá nó có cái dị sinh tánh.
5. Vô tưởng báo.
Báo tức là kết quả, vô tưởng tức là một trạng thái không có tri
giác. Trong một loại thiền định nào đó, trong một chỗ, một hình thức
sinh mạng nào đó, có những loài không có nhận thức (a nonperception).
Con người trong khi thực tập thiền định có thể đi tới cái trạng thái vô
tưởng đó. Sự kiện vô tưởng hay là phi tưởng có mặt thì pháp đó gọi là vô
tưởng báo. Ví dụ như ban ngày mình có những nhận thức về cái này cái
kia, nhưng đôi khi bất tỉnh thì mình cũng vô tưởng, không có nhận thức.
Trong thiền định ở trạng thái đó, đôi khi chim tới làm tổ trên đầu mình
cũng không biết, đó là vô tưởng báo.
6. Vô tưởng định, vô tưởng báo với vô tưởng định nó khác nhau
ở chỗ là vô tưởng báo là một quả báo, là một kết quả, một trạng thái.
Còn vô tưởng định tức là phép thiền định mà khi thực hiện chúng ta có
thể đạt tới vô tưởng báo. Vô tưởng định tức là sự tạm vắng mặt của tâm
sở tưởng. Chuyện này mình có thể thực hiện được, là trong khi mình đi
vào định một cách chăm chú, mình không có nhận thức (perception) nữa,
mình ngưng lại, mình có một sự tập trung tâm ý rất là mạnh, đôi khi cái
lạnh, hay giải thoát là tại vì mình không có cảm giác nữa thì mình đỡ
khổ. Nhưng Bụt nói cái đó chưa phải giải thoát. Vì vậy cho nên cái đó
không phải nơi Bụt ở, nơi Bụt ở có thể là có cảm giác, có tri giác nhưng
không có khổ.
7. Diệt tận định, là mục tiêu đạt đạo của giới Tiểu thừa.
Trạng thái tắt ngấm của những phiền não, những cái vô minh, như là niết
bàn vậy. Diệt tức là không còn có mặt nữa, tận là hết, nhưng đó là đứng
về phương diện tiêu cực. Diệt là phải diệt cái gì, diệt của một cái có
thể là cái sanh của một cái khác, vì vậy cho nên Đại thừa tiếp tục cái
đó. Ví dụ như khi mình có một cái phiền não, mình diệt phiền não rồi thì
sự vắng mặt của phiền não có nghĩa là sự phát sanh của an lạc. Mình chỉ
cần chuyển hóa cái phiền não thành cái an lạc thôi. Vì vậy cho nên diệt
tận định có thể hiểu là sự vắng mặt của tất cả những yếu tố làm cho mình
khổ đau, phiền não. Nhưng đứng về phương diện tích cực nó lại có nghĩa
khác, cũng như vô tham cũng có nghĩa là tâm trạng muốn bố thí, muốn chia
sẻ.
8. Danh thân, chữ danh đây có nghĩa là danh từ, là chữ nghĩa.
9. Cú thân, cú có nghĩa là câu, ví dụ bát cú tức là một câu
tám chữ.
Chữ là danh mà câu là cú.
10. Văn thân, văn tức là văn chương. Tại vì một câu chưa phải là
văn, ít nhất phải là một chương (paragraph) mới gọi là văn. Văn chương
là một pháp, nó không phải là tâm, cũng không phải là vật. Một cuốn sách
là vật, sự hiểu biết là tâm, nhưng chính tự thể của văn chương là một
pháp tâm bất tương ưng.
11. Sinh, sinh khác với mạng căn. Mạng căn tức là giai đoạn nằm ở
giữa sinh và tử. Sinh tức là vào lúc đó phát khởi một pháp thì gọi là
sinh. Sinh là pháp thấp tâm bất tương ưng.
12. Trú
tức là sự có mặt trong một thời gian nào đó, ví dụ như mình có một người
khách tới thăm, người khách đó ở với mình một tuần rồi người khách đó
đi, thì cái tuần lễ có mặt của ông ta gọi là trú.
13. Lão tức là già đi.
14. Vô thường cũng là một pháp, nó không phải là tâm cũng không
phải là vật.
15. Lưu
chuyển tức là cái dòng của những hiện tượng, nó kế tiếp, chuyển biến
và vâng theo luật nhân quả thì gọi là lưu chuyển, như là một dòng sông.
16. Định vị tức là sự sai khác giữa các hiện tượng nhân quả.
17. Tương ứng, tương ứng nó khớp với nhau nó đi với nhau, tương
ưng hay là tương ứng. Nhưng thường thường đọc là tương ưng.
18. Thế tốc, tốc tức là mau, thế tốc tức là thế mau, cái này ở
trong khoa học rất quan trọng.
19. Thứ đệ, tức là một trật tự hợp lý. Ví dụ như mình để abcd
theo thứ tự, không có để lộn. Còn thứ đệ là luật này trước, luật kia kia
sau. Sinh trú dị diệt chẳng hạn thì mình phải để sinh trước rồi mới trú
rồi mới dị mới diệt.
20. Phương tức là không gian (space).
21. Thời tức là thời gian, time.
Trong cái thuyết tương đối của Einstein thì ông nói thời gian và
không gian không phải là hai thực thể riêng biệt, cái này và cái kia hai
cái không có thể có mặt riêng biệt được và ông nói thời gian chính là
không gian, rất là gần với đạo Bụt, thời gian và không gian là hai mặt
của cùng một thực tại.
22. Số tức là number.
23. Hòa hợp tánh, là tính cách hòa hợp giữa cái này với cái kia.
Ví dụ cái giảng của thầy hôm kia với hôm nay nó không có chống nhau, nó
phù hợp với nhau, hay là những cái điều thầy nói những cái điều thầy làm
nó không có mâu thuẫn nhau cái đó gọi là hòa hợp.
24. Bất hòa hợp tánh tức là sự vắng mặt của hòa hợp
tánh. Ví dụ như nước với lửa, giữa hai cái nó có một cái gọi là bất hòa
hợp tánh.
Những pháp này gọi là tâm bất tương ưng, là một thực hiện rất vẻ
vang của phái Thiết Nhất Thiết Hữu Bộ - Sarvastivada. Quý vị biết rằng
thầy Vasubandhu ngày trước đã thừa hưởng nền triết học của phái Hữu Bộ
và thầy học rất là giỏi về các học phái sau đó như là Kinh Lượng Bộ. Vì
vậy Duy thức của thầy có nền tảng rất vững chãi trong Phật giáo bộ phái.
Trong đó có Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ. Nếu nghiên cứu
sâu xa nữa thì chúng ta thấy rằng thầy nắm rất vững những học thuyết
triết học đương thời như là thắng luận, số luận. Ngài có bị ảnh hưởng
một phần nào những triết học của Thắng luận đương thời. Vì vậy cho nên
người học Bụt phải luôn luôn sống trong thời đại của mình. Phải biết
những gì xảy ra chung quanh mình trong lĩnh vực khoa học, triết học,
nghệ thuật. Để cho mình sống thực ngay trong thời đại và nhờ vậy mình
mới có thể cung cấp được giáo lý, phương pháp tu thích hợp với hoàn
cảnh. Đó là điều các thầy ngày xưa, những vị sáng tạo ra những luồng
sinh khí mới của đạo pháp đều làm như vậy. Không phải mình chỉ bắt chước
lại một cách nghèo nàn những cái mà người xưa đã làm, mà cho là có thể
làm đạo pháp trường tồn được.
Vào thập niên ba mươi ở Trung Hoa có một nhà cách mạng Phật giáo tên
là Thái Hư đại sư. Thái Hư đại sư có ít nhiều các thầy ở Việt Nam là học
trò hàm thụ. Chính tôi cũng là học trò hàm thụ của thầy Thái Hư, đọc
sách của thầy rất nhiều. Thái Hư đại sư lập Phật học viện, ra tạp chí.
Tạp chí Hải Triều Âm là một cái tạp chí rất là nổi tiếng ở Trung Hoa.
Thái Hư đại sư học và giảng về Duy thức rất nhiều. Ngày xưa tôi cũng có
sử dụng tài liệu Duy thức của thầy Thái Hư đại sư. Hiện bây giờ ở xóm
Thượng có một Thái Hư toàn tập, vào khoảng 50, 60 tập (volume). Nhưng
quý vị phải biết chữ Nho mới đọc được. Ngày xưa tôi soạn bài học để dạy
tại Phật học đường cũng dùng tài liệu của thầy Thái Hư khá nhiều.
Tôi có nêu ra ba khẩu hiệu là cách mạng giáo lý. Chữ cách
mạng đã được tôi dùng vào khoảng sau năm 1930. Cách mạng giáo lý có
nghĩa là phải làm cách mạng trong phạm vi này. Tại sao phải làm cách
mạng trong giáo lý? Tại vì giáo lý cần phải được hiện đại hóa để phù hợp
với người đương thời. Nhưng hiện đại hóa không có nghĩa là làm ra một
giáo lý mới. Đó cũng là giáo lý của đạo Bụt, cũng vẫn là những nguyên
tắc căn bản của đạo Bụt, nhưng trình bày như thế nào để cho người đương
thời có thể hiểu được và có thể thực hành được. Tại vì một giáo lý dầu
hay đến mấy đi nữa mà người ta không chấp nhận, người ta không thể thực
hành được, thì giáo lý đó không có khế cơ. Ý nghĩa khế cơ rất quan trọng
trong đạo Bụt. Khế tức là phù hợp, khế cơ tức là phù hợp với hoàn cảnh
và tâm trạng con người trong thời đại đó. Khế cơ nhưng phải khế lý, khế
lý tức là không trái chống những nguyên tắc căn bản của đạo Bụt. Có hai
cái yếu tố đó thì mới có thể được gọi là giáo lý linh động, giáo lý có
ích lợi, kế cơ và khế lý.
Nếu chỉ khế lý mà không có khế cơ thì cái đó cũng bỏ đi, không phải
là Phật pháp. Tại vì nó không có ích lợi, có nó cũng như không. Vì vậy
cho nên một trong những việc mà người học Bụt phải làm là phải cách mạng
giáo lý, tức là phải làm cho giáo lý lột xác, nó trở thành ra mới, nó
trở thành ra thích hợp, có thể hiểu được với con người thời đại và có
thể thực hiện được. Nếu nói hay đến mấy mà không hiểu, hay là không thực
hiện được thì cũng không phải là giáo lý. Thành ra giáo lý đích thực
phải gồm có hai cái điều kiện là khế lý và khế cơ. Cách mạng giáo lý tức
là làm thế nào để cải lão hoàn đồng. Giáo lý như là một cái cây già cỗi
rồi, mình phải làm thế nào để chăm sóc cho nó trở nên một cây rất là
mới, rất là trẻ trung. Có thể cắt bớt những cái rễ đã thúi, có thể bón
phân, có thể trồng nó trong một môi trường mới, thì đó gọi là cách mạng
giáo lý. Cách mạng giáo lý nhưng giáo lý vẫn là giáo lý, một giáo lý hay
hơn, tươi mát hơn và hữu hiệu hơn.
Thứ hai là cách mạng giáo chế, giáo lý là một chuyện nhưng
giáo chế là một chuyện khác. Chế đây tức là chế độ, tức là hiến chương,
đường lối sinh hoạt gọi là giáo chế. Trong đó có giới luật, giới luật
cũng cần phải được cách mạng. Tại vì có những giới luật không còn phù
hợp nữa, có những lề lối hoạt động không còn thích hợp nữa. Ví dụ như
chuyện trong bao nhiêu năm các thầy đã đi khất thực, ôm bình bát mặc áo
sanghati đi ra để khất thực. Thế nhưng khi đạo Bụt truyền sang bên Trung
Hoa thì vấn đề khất thực nó trở thành khó khăn. Hay là đạo Bụt truyền
tới thành phố Paris, đi khất thực chắc là sẽ bị đói. Thành ra phải thay
đổi giáo chế, thay đổi nếp sống, cách sống, cách thực hiện giới luật. Ví
dụ như bây giờ các thầy ở Paris muốn đi New York là phải có tiền, phải
mang theo tiền hoặc là một cái card. Nhưng trong giáo chế ngày xưa, tức
là mình không được đụng tới vàng, bạc, tiền. Thành ra nếu không cách
mạng giáo chế thì ông thầy hay là ni cô sẽ không thể đi hoằng pháp ở New
York được. Do đó cho nên giáo chế là đường lối sinh hoạt, lề thói sinh
hoạt, sự tu tập hàng ngày, trong đó kể cả giới luật. Phải cách mạng giáo
chế là như vậy.
Ngày xưa có những cái rất đẹp nhưng bây giờ nó bớt đẹp đi rồi. Ví dụ như
có một ông thầy rất có lòng từ bi, đi đâu ông cũng mang một cái chổi. Vì
ông sợ dẫm lên những côn trùng, thành ra trước khi đặt bước chân lên chỗ
đó ông lấy chổi ông quét một cái, rồi ông mới giẵm chân lên, ông quét
cái nữa, rồi ông giẵm chân lên. Ngày xưa người ta thấy như vậy và họ tôn
sùng như là thần thánh. Họ coi đó là một hiện thân của lòng từ bi. Nhưng
bây giờ nếu mà quý vị ra Paris mà làm như vậy thì người ta sẽ nói là quý
vị điên và sẽ nhốt vào nhà thương. Như vậy là cái đó không có khế cơ và
vì không khế cơ cho nên nó không khế lý. Vì vậy cho nên phải thay đổi,
đó là cách mạng giáo chế.
Và khẩu hiệu thứ ba là cách mạng giáo sản. Tại vì giáo sản
quan trọng lắm, giáo sản tức là tài sản của giáo hội. Ngày xưa giáo sản
trong giáo đoàn của Bụt, chỉ có những tu viện do người giàu có quyền thế
cho thôi và cơm ăn áo mặc là của người bổn đạo cúng dường. Nhưng giờ đây
nó khác, ở Việt Nam chẳng hạn, có khi các thầy các sư cô làm ra những
xưởng để làm dầu, làm nhang. Mình có những phương tiện để tự túc. Tại vì
nếu không có những phương tiện tự túc mà phải hoàn toàn phụ thuộc vào
người cư sĩ bổn đạo, đôi khi mình không có tự do để làm những sự cải
cách mà mình thấy là cần thiết. Mình phải chiều theo ý những thí chủ
giàu đó. Vì vậy cho nên một số các vị trù trì chùa lớn là phải o bế bổn
đạo. Khi những người đó tới thì mình phải để thì giờ ra tiếp cho nhiều.
Còn những người trẻ trẻ mà không có tiền tới chùa thì mình không có thì
giờ nhiều cho họ. Như vậy đạo pháp có thể suy tàn, mình có thể có chùa
to nhưng không có được cái sinh khí trong đạo Bụt. Người xuất gia nếu bị
điều kiện hóa bởi cách thức sinh hoạt như vậy thì những hoạt động về
Phật sự, về tu học của mình bị hạn chế lắm. Vì vậy cho nên phải cách
mạng luôn về giáo sản.
Ở Việt Nam đã có từ ngàn năm truyền thống là nghĩ rằng là sau khi
mình mất đi thì sẽ không có ai cúng giỗ cho cha mẹ. Vì vậy cho nên mình
cúng cho chùa một số ruộng với điều kiện là chùa sẽ làm giỗ cho cha mẹ
mình trong tương lai. Đó là cái điều kiện duy nhất, tại vì mình là con
một chẳng hạn. Chùa chấp nhận điều đó và trong hiến chương của chùa là
mỗi năm đến ngày giỗ phải làm một mâm cúng cho hương linh đó, và chùa
làm rất đàng hoàng. Cái đó không có trong thời Bụt còn tại thế, nó là
một điều kiện thuộc phạm vi của giáo sản phải không? Thành ra người học
Bụt, người hành đạo trong thời đại này phải nghĩ tới những phương pháp
nào để cải biến, để cách mạng giáo sản, để cho mình đừng bị phụ thuộc
vào một số người tín chủ. Thường thường khi những người đó cúng tiền, họ
có những điều kiện của họ, mình làm ngược lại thì họ không có thích. Vì
vậy những người không có chùa sướng lắm, có tự do để làm những điều mình
có thể làm. Nhưng khi có chùa một cái là phải tử tế với một số bổn đạo
để có thể giữ chùa. Cho nên khi mà Chân Sắc mất chùa thì tôi nói:
mừng quá đi, chị Chân Sắc đạt tới cái tự do mà lâu nay chị không có.
Chị Chân Sắc bây giờ sướng lắm, dịch sách rồi đi dạy học.
Ở Làng Mai mình cũng có một chế độ giáo sản, nó khác với các chùa là
mình không phải tùy thuộc vào sự cúng dường của những bổn đạo. Vì vậy
cho nên mình muốn học Duy thức thì mình học, mình nói rằng: quý vị
gọi điện thoại nhằm giờ chúng tôi ngồi thiền, xin gọi lại trong một giờ
đồng hồ, thì bổn đạo và các bạn của Làng không có la. Nhưng những
chùa khác họ không làm như vậy, phải có một người không ngồi thiền để
ngồi bên điện thoại, đó là trường hợp của những thiền viện của Tây
phương. Bởi vì Tây phương biết rằng cái điện thoại có thể là một tài
nguyên rất là quan trọng, nếu mình đối xử với quần chúng không đàng
hoàng thì mình có thể mất nguồn tài nguyên đó. Cho nên cái tự do của
mình, sự thanh tịnh của mình, sự thành công hay thất bại trong sự tu học
của mình tùy thuộc rất nhiều tới chế độ kinh tế, cái đó gọi là giáo sản.
Cách mạng giáo lý, cách mạng giáo chế, cách mạng giáo sản. Thì khẩu hiệu
đã được đưa ra từ gần sáu mươi năm rồi, mà những cái thành quả mà chúng
ta đạt tới nó đang còn khiêm nhượng.
Vô vi pháp
Sau phạm trù những pháp gọi là tâm bất tương ưng hành pháp thì có
một loại pháp khác gọi là vô vi pháp, có nghĩa là không chịu cái
luật sinh diệt, không có bị điều kiện hóa. Vô vi là một chữ mượn tạm của
lão giáo để dịch chữ asamskrita - bên bờ suối vô vi.
1. Pháp thứ nhất là hư không vô vi, tại vì các thầy nghĩ là,
hư không là một cái không sanh, không diệt, lúc nào nó cũng như vậy. Hồi
nãy mình có một cái pháp thuộc về tâm bất tương ưng hành mà mình gọi là
phương thì tiếng Phạn là desha.
2. Trạch diệt vô vi, chữ trạch mình học rồi trong cái danh từ
trạch pháp, trạch có nghĩa là nghiên cứu là quán chiếu trong cái bản
chất nội dung của nó, trạch diệt vô vi tức là cái vô vi mà do cái sự
quán chiếu để hiểu biết được cái bản chất của các pháp mà mình đạt tới
thì gọi là trạch diệt vô vi tức là cái vô vi do sự tu hành nó đem tới.
3. Phi trạch diệt vô vi tức là một thứ vô vi mà không phải do
sự tu hành của mình đưa tới, nó có sẵn rồi. Mình tu hay không tu thì nó
cũng có sẵn rồi. Ví dụ như là bản hữu, nó sẵn có rồi. Cũng như căn bản
trí và hậu đắc trí, căn bản trí tức là cái trí tuệ nó vốn có sẵn, hậu
đắc trí tức là trí tuệ mình đạt được sau này nhờ sự tu hành.
4. Bất động diệt vô vi, bất động tức là không có
lay chuyển.
5. Tưởng thọ diệt vô vi, tưởng tức là perception tri giác,
thọ tức là cảm thọ. Tưởng thọ diệt là một loại thiền định, một loại
phương pháp thực tập. Nó đi tới sự vắng mặt của tưởng và thọ, thì trạng
thái đó là một trạng thái vô vi.
6. Và cuối cùng là chân như vô vi, tức là thực tướng muôn đời
của vạn pháp, cái thể tính muôn đời của vạn pháp mà mình không có thể
diễn tả được. Chân như này khác với chữ chân như mà tôi giảng trong một
bài giảng trước. Chân như này có tính cách triết học hơn, nó giống như
một nền tảng căn bản của các pháp. Nó là thể tánh chân thật của vạn
pháp, nó luôn luôn như vậy, không thay đổi.
Khi mình đếm lại thì thấy rằng sắc pháp có mười một chàng, tâm vương
có tám, tâm sở có năm mươi mốt, sắc pháp có mười một, tâm bất tương ưng
hai mươi bốn, rồi tới vô vi là một trăm pháp. Nhưng mình đã thêm một số
các pháp và có thể mình sẽ bớt một vài pháp. Bây giờ Làng Mai mình chọn
độ chừng tám pháp thôi, thêm bớt làm sao đó để thành 108 pháp, làm thành
một học phái mới về Duy biểu học cho thích hợp hơn, cách mạng giáo lý
mà. Có một điều quý vị nên nhớ, là khi thầy Huyền Trang sang Ấn Độ và
học tại đại học Nalanda, lúc đó Duy thức đang đi vào vị thế rất phát
triển, đang ở trên đà phát triển như một cái cây đang ra hoa. Nhưng sau
khi thầy Huyền Trang về thì sự hưng thịnh của đại học Nalanda đã chậm
lại rồI, cuối cùng nó bị suy tàn là vì quá chú trọng đến tri thức, đến
sự biện luận, đến sự dựa vào những cái thế lực, các thí chủ lớn có quyền
thế và không có một liên hệ tốt đối với các giáo phái triết học đương
thời. Thành thử sau đó đạo Bụt bị suy đồi ở Ấn Độ, coi như là tới thế kỷ
thứ mười hai thì bị quét sạch ra khỏi Ấn Độ. Thành ra giáo lý Duy thức
không được tiếp tục phát triển, tức là hồi đó có hàng chục vị luận sư
bây giờ gọi là đại luận sư. Một dịp nào đó tôi sẽ đọc tên mười vị đại
luận sư Duy thức mà thầy Huyền Trang có trích dẫn trong tác phẩm thành
Duy thức luận. Trong đó có Hộ Pháp, là một thầy rất có nhiều ảnh hưởng
đến nhiều đệ tử. Thầy Huyền Trang sang bên đó thì bị ảnh hưởng sự hiểu
biết của thầy Hộ pháp rất là nhiều, qua viện trưởng viện đại học Nalanda
hồi đó tức là thầy Giới Hiền. Nhưng từ khi Duy thức được truyền sang
Trung Hoa do thầy Huyền Trang và đệ tử của thầy là thầy Khuy Cơ thì
không có một phong trào nghiên cứu phát triển và cứ tiếp tục duy trì
những thành quả của sự nghiên cứu từ Ấn Độ. Cho đến bây giờ khi chúng ta
học, chúng ta vẫn học cái còn lại đó. Tôi muốn rằng chúng ta phải làm
khá hơn, chúng ta phải bắt chước đàn anh của chúng ta là chúng ta phải
tiếp tục làm cho cây Duy thức học này nó lớn, phải đem giáo lý Duy thức
này nhúng vào trong môi trường của khoa học, của tâm lý học hiện đại.
Nhất là tâm lý học hiện đại để chuyển đổi, để hiện đại hóa Duy thức học,
làm cho nó thành ra một pháp môn có thể được áp dụng cho thời đại này.
Quý vị học là học như vậy, đừng chỉ làm những công việc của máy cassette
thu thanh mà thôi.
Thị vô phú vô ký,
xúc đẳng diệc như thị,
hằng chuyển như bộc lưu,
A-La-Hán vị xả.
Thị vô phú vô ký tức là vô phú vô ký. Xúc đẳng diệt như thị: chữ đẳng
này có nghĩa là v.v. (?) Xúc v.v (?) cũng như vậy, xúc v.v (?) có nghĩa
là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Tức là những tâm sở tương ưng với
a-lại-da cũng là vô phú và vô ký. Hằng chuyển như bộc lưu: hằng tức là
tiếp nối liên tục hoài hoài, nhưng nó luôn luôn thay đổi trong từng giây
phút gọi là hằng chuyển. Thành ra tính chất của a-lại-da như là dòng
sông, như bộc lưu. Bộc lưu tức là một dòng nước chảy xiết, lưu là một
dòng nước. A-La-Hán tức là một quả vị của sự chứng đạo, quả vị cao nhất
của Phật giáo Tiểu thừa, A-La-Hán nó có nghĩa là sát tặc, nghĩa là giết
giặc, giết giặc phiền não. Nó có nghĩa là phá ác, còn có nghĩa là ứng
cúng nữa. Vị tức là quả vị, địa vị, cái chỗ, cái vị trí. Xả có nghĩa là
bỏ, không còn nữa, không còn cái tên đó nữa, không còn sự vướng víu đó
nữa, không còn làm nô lệ cho thức thứ bảy nữa. A-lại-da thuộc về phạm
trù vô phú và vô ký. Những tâm sở tương ứng với a-lại-da như xúc v.v.
cũng như vậy.
Diệc là cũng, như thị là như vậy. Thức này vừa
hằng mà vừa chuyển như là một dòng nước xiết và đến địa vị A-La-Hán thì
mới bỏ cái tên của thức này. Không phải là không còn nhưng mà nó chuyển,
nó không còn là nô lệ nữa. Quả vị đó gọi là quả vị chuyển y, nó không
còn gọi là tàng nữa, nó không còn gọi là ngã ái chấp tàng nữa. Ngã ái
chấp tàng tức là đối tượng bị nắm lấy bởi thức thứ bảy, tới quả vị
A-La-Hán là được buông ra, gọi là xả.
Thứ đệ nhị năng biến,
thị thức danh mạt na
y bĩ chuyển duyên bĩ,
tư lượng vi cánh tướng.
Thứ đệ nhị năng biến
có nghĩa là tiếp đến, thứ tức là tiếp đến cái năng biến thứ hai.
Năng bíến thứ nhất là a-lại-da, năng biến thứ hai là mạt-na. Câu thứ đệ
nhị năng biến này tới gatha thứ tám mới có tiếng Phạn. Vì thầy Huyền
Trang dịch ra đây là cái thứ hai, nhưng trong nguyên văn thì thầy
Vasbandhu đợi cho hết rồi thầy mới nói cái đó là cái thứ hai. Thứ đệ nhị
năng biến, năng biến thầy dịch là chuyển hóa. Chuyển hóa gồm có ba, tiếp
đến là chuyển hóa thứ hai, đó là thức tên là mạt-na. Thị tức là
đó là, đó là một thức tên là mạt-na. Y bĩ chuyển duyên bĩ: y
tức là nương vào, bĩ là cái kia, nương vào cái kia. Chuyển
là xoay lại chuyển biến, chuyển là chuyển lại từ duyên kia, nó từ cái
kia mà phát sinh, nó quay trở lại, nó duyên với cái kia. Duyên
tức là nắm cái đó làm đối tượng, nương vào nó và trở lại duyên nó, gọi
là y bĩ chuyển duyên bĩ. Tư lượng vi tánh tướng : vi
là là, chữ vi này nó cũng hơi giống như là chữ thị, cái tánh và cái
tướng của nó.
Tôi nhắc lại : kế đến tức là thức năng biến thứ hai, thức đó tên là
mạt-na, nó từ cái kia là a-lại-da, nó nương cái kia và chuyển lại nắm
cái kia làm đối tượng. Duyên tức là lấy làm đối tượng, căn duyên cảnh
tướng phần, duyên kiến phần và cái tư lượng vốn là cái tánh tướng của
nó. Đây là nói về thức thứ hai, tới bài kệ thứ năm là chúng ta đi vào
lãnh vực của thức mạt-na. Chúng ta nhớ rằng trong bài học trước, mình có
nói rằng chuyển hóa này có ba cái, là dị thục, tư lượng và liễu biệt
cảnh.
Dị thục tức là thức thứ nhất, bây giờ mình sang cái thức thứ hai là tư
lượng.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường (Thích Nhất Hạnh) |
|
...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực
tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn
nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...)
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có
thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ
hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang
nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (...)
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các
nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc
thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới,
tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu
hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên
hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|