.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                           TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi !
 CHUYÊN MỤC

Tư Tưởng

Văn hóa

Giáo Dục

n Học

Diễn Đàn

Chính Luận

Ký Sự - Xã Hội

Khoa Học & Môi Trường

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 TỦ SÁCH

Sophie Quinn-Judge: Hồ Chí Minh những năm chưa được biết đến

Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa

Lê Minh Văn: Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp: Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày


 

 

 Thiền sư Thích Nhất Hạnh

DUY THỨC HỌC

1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30

  • PSN - 6.06.2008 - Pháp thoại của Sư ông Làng Mai trong mùa An cư kiết đông 1989 - 1990
    - Chân Thuyên & Chính Bình
    phiên tả,
    - Chân Tịnh Không & Chân Tịnh Lạc biên tập,
    - Chân Đức & Chân Minh
    hiệu đính.

2.

Khi kiến phần có một khái niệm về tự chứng phần,  tức là khi đứa con có ý thức về mẹ, bà mẹ trở thành tướng phần của đứa con. Ví dụ khi hai cái anten nhìn nhau và phân biệt cái này không phải là cái kia, có nghĩa là quên đi bà mẹ. Nhưng khi anten này trở về nhận thấy mẹ, thấy được kia là người anh em của mình hay chính mình. Bà mẹ trở nên đối tượng nhận thức của mình. Thành ra tự chứng phần trong trường hợp đó là tướng phần của nó. Cố nhiên tự chứng phần trong trường hợp này cũng là (tự) chứng phần cùng một lúc. Trong khi tự chứng phần chứng minh được sự liên hệ giữa kiến phần và tướng phần, như bà mẹ thấy được hai đứa con của mình đang chơi với nhau. Ví dụ như thấy, nghe, hiểu, biết, tưởng tượng, buồn, vui, giận của chúng ta. Tất cả mọi hiện tượng tâm lý đều có ba phần và phần dưới tức là bản thể nương dựa từ đó sinh ra hai phần trên. Ví dụ khi chúng ta thấy một con chó, cái thấy đó gồm có ba phần: kiến phần, chủ thể và hình ảnh con chó. Đối tượng và bản thể, là nền tảng chung của con chó và cái thấy. Con chó này là đối tượng của cái thấy. Chúng ta thấy con Kiki kia, chúng ta có cảm tưởng đó là một vật thể độc lập riêng ra khỏi cái thấy của chúng ta, nhưng đó là điều lầm lẫn. Khi chúng ta nhìn con Kiki, thì nó là tướng phần, nằm ở trong thức của chúng ta và cũng là thức của chúng ta.
 

Căn:

Con mắt của chúng ta gọi là căn, những giác quan sinh lý của chúng ta như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là căn. Căn tức là rễ, là nền tảng. Căn tức là căn cứ để phát sinh ra nhận thức. Ví dụ con mắt của chúng ta là căn cứ để phát xuất ra cái thấy, lỗ tai chúng ta là căn cứ để phát xuất ra cái nghe, lỗ mũi chúng ta là căn cứ phát xuất ra cái ngửi. Đối tượng của căncảnh, có khi gọi là trần.  Những đứa trẻ và những người ngây thơ thường nghĩ rằng: căn là kiến phần và cảnh là tướng phần, nhưng không phải như vậy. Căncảnh không phải là thức, căncảnh là những điều kiện làm phát sinh ra thức. Ví dụ (Thầy diễn giảng bằng hình ảnh trên bản - PS) chúng ta có một con mắt ở đây và đường này chúng ta có một cái đèn cầy. Con mắt này gọi là căn và đèn cầy gọi là trần, hai cái đó chưa phải là thức, đó là những nhân duyên, những điều kiện để làm cho thức biểu hiện, cũng có khi thức không biểu hiện. Ví dụ khi chúng ta ngủ, cái thấy không biểu hiện. Cái thấy không luôn luôn có, cái thấy có khi không biểu hiện, vì vậy nó chỉ biểu hiện khi nào có đủ điều kiện mà thôi. Nếu căn có trần rồi, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy được. Vì vậy có nhiều điều kiện gọi là duyên. Căn và cảnh là hai trong những duyên, những điều kiện làm phát sinh ra thức. Thức nhờ những điều kiện mà phát hiện, nhưng không phải là những điều kiện làm phát sinh ra. Ví dụ như lửa, khi chúng ta quẹt ra, lửa không hẳn do hộp quẹt làm thành. Hộp quẹt là những điều kiện để phát sinh ra lửa.

Trần và căn là hai trong những điều kiện phát xuất ra cái chúng ta gọi là thấy, thấy tức là thức. Theo Duy thức học nói về căn, như con mắt là một căn cứ có tính cách thô phù. Vì nằm sâu trong căn có cái căn rất là vi tế, chính căn vi tế đó mới thật là điều kiện phát sanh ra thức và cái thấy. Căn từ con mắt gọi là phù trần căn, nghĩa là căn cứ có tính cách thô ở bên ngoài. Nhưng trong con mắt có một cái mà chúng ta gọi là võng mô, như màn ảnh vậy. Màn ảnh được nối bằng những dây thần kinh thị giác và đưa tới trung khu cảm giác. Võng mô là trung tâm cảm giác, trong Duy thức học gọi là thắng nghĩa căn. Thắng có nghĩa là trội lên, hơn lên. Thắng nghĩa là sâu sắc hơn, đúng hơn. Trần có nghĩa là khi con mắt tiếp xúc với đối tượng của nó, nhờ ánh sáng mà hình bóng của cây đèn cầy lọt vào và in hình trên võng mô. Ví dụ phim của máy chụp hình, chúng ta thấy nó chổng ngược lại. Nhưng thắng nghĩa căn của chúng ta làm việc rất giỏi, đưa vô trong chúng ta thấy không còn chổng ngược nữa. Đèn cầy của tự thân có thể gọi là phù trần trần, không có trong danh từ Duy thức nhưng đúng là phù trần trần. Khi nó trở thành hình bóng đối tượng của thức thì gọi là thắng nghĩa trần. Tức là chúng ta thấy có hai thứ trần, một thứ trần thô phù và một thứ trần thắng nghĩa. Chúng ta phân biệt rằng hình ảnh làm đối tượng cho cái thấy của chúng ta không phải là anh chàng này, anh chàng này cho một điều kiện thôi. Cái chúng ta thấy chính là hình ảnh ở trên võng mô, là giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ nhất là phù trần căn và phù trần trần. Giai đoạn thứ hai, phù trần căn trở thành thắng nghĩa căn và cái đèn cầy này trở nên đèn cầy trên võng mô. Giai đoạn thứ nhất là vật lý, sinh lý riêng biệt. Giai đoạn thứ hai là vật lý và sinh lý trở nên gần gũi hơn thành một, xáp lại nhau. Giai đoạn thứ ba là chúng ta có thức, kiến phần, tướng phần và tự chứng phần. Gọi là cái thấy, danh từ Duy thức là nhãn thức.

Thầy Huyền Trang sáng tác một bài tụng gọi là Bát thức quy củ tụng, (những bài tụng về hành tướng của tám thức). Tánh cảnh hiện lượng thông tam tánh / Nhãn nhĩ thân tam nhị địa cư / Biến thành biệt cảnh thiện thập nhất. Hồi đó tôi học thuộc lòng hết và học thuộc lòng thì hay lắm, quý vị cũng có thể học thuộc lòng luôn. Trong bát thức quy củ tụng thầy Huyền Trang có nói một câu: Ngu giả nan phân thức dữ căn. Dữ có nghĩa là và, nan có nghĩa là khó. Tức là những anh chàng ngu, những cô nàng ngu khó mà phân biệt được giữa thức và căn, lầm rằng căn tức là thức, con mắt tức là cái thấy. Con mắt không phải là cái thấy, con mắt là căn phát sinh ra cái thấy. Thành ra nói con mắt thấy là trật, nói tôi thấy cũng trật nữa, chỉ có một câu đúng là thấy thôi. Vậy giai đoạn thứ ba chúng ta có cái thấy, trong cái thấy đó chúng ta có thể phân biệt được kiến phần tức là chủ thể, tướng phần tức là đối tượng và tự chứng phần tức là nền tảng của cả hai. Thấy này chỉ có, chỉ tồn tại trong vòng một sát na thôi, tức là trong một giây lát rất ngắn ngủi. Sát na là một đơn vị thời gian có thể gọi là ngắn nhất, chúng ta chỉ có thể tưởng tượng, chỉ có thể có một khái niệm về nó thôi. Trong một sát na có thể có rất nhiều mảnh thời gian nhỏ, nhiều tư tưởng. Nhưng chúng ta cứ tiếp tục nhìn cây đèn cầy thì sẽ có những cái sát na thấy khác và những sát na thấy liên tục, làm thành một dòng thấy mà chúng ta gọi là cái thấy. Hình ảnh của cái đèn cầy tiếp tục in vào trong võng mô của chúng ta, tạo ra sự kích thích thị giác thần kinh, chúng ta tiếp tục truyền những hình ảnh mới vào trong trung khu cảm giác. Chúng ta tiếp tục thấy, có nghĩa là chúng ta có nhiều cái thấy liên tiếp nhau. Giống như một cuốn phim, khi quay phim là chúng ta chụp một cái hình, rồi chụp một hình nữa, chúng ta chụp rất nhiều hình. Khi quay ra chúng ta có cảm tưởng kia là một thực thể linh động đang din biến, kỳ thực đó là một sự ghép lại của nhiều bức hình mà thôi. Khi chúng ta nói tới cái thấy, là nhãn thức, chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta có một cái thấy sẵn trong túi, trong đầu, trong người của chúng ta, cái thấy có tính cách thường tại. Chúng ta đem ra để thấy rồi chúng ta rút lui, một cái thấy thuần túy chủ thể. Tức là chúng ta tưởng tượng chúng ta có một kiến phần, lúc nào cũng giống như lúc nào, chúng ta bỏ túi, nó có thể tồn tại được riêng. Như chúng ta đem ra chiếu cái hình đèn cầy, thấy đèn cầy rồi bỏ túi, rồi chúng ta chiếu con Kiki và thấy con Kiki. Ý niệm về cái thấy như một kiến phần độc lập, đó là mê vọng của con người. Cái đó chúng ta phải đả phá, phải vượt thắng trước hết, đó là cái gây trở ngại căn bản. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có thể tập để đừng có ảo tưởng là chúng ta có cái thấy thường tại, bất biến trong chúng ta để đem ra xài. Thật ra trong khi ngủ chúng ta đâu có nó.

Thấy là một dòng thấy, một dòng cảm giác. Muốn cho dòng đó được liên tục thì những điều kiện phải đầy đủ mới liên tục được. Tắt đèn là không thấy hay nhắm mắt lại thì không thấy, thần kinh thị giác hư là không thấy. Không thấy có nghĩa là cái thấy  không biểu hiện được. Người mù không hẳn là không có cái thấy, nhưng người mù không có đủ những điều kiện để cái thấy có thể biểu hiện được. Những điều đó hơi tế nhị, nhưng chúng ta phải tập nhìn từ từ mới thấy được bản chất của thức. Ví dụ như trong đêm tối chúng ta cầm một que củi đang cháy hay một cây nhang, chúng ta quơ theo vòng tròn và quơ nhanh. Người đứng trước chúng ta khoảng hai ba chục thước  tưởng có một vòng bằng lửa. Nhưng thật ra không có vòng tròn lửa, chỉ có một đốm lửa thôi. Vì nó xoay mau nên chúng ta có một ảo giác là có một vòng tròn bằng lửa. Cái thấy của chúng ta cũng vậy, cái thấy không phải là một thực tại thường tại lúc nào cũng có, nó là những cái chấm, những đốm thấy được nối tiếp nhau mà thôi. Thấy một vòng lửa tức là một ảo tưởng, thấy rằng chúng ta có cái thấy thường tại cũng là một ảo tưởng. Đem ánh sáng của vô thường chiếu vào cái thấy của chúng ta, thì thấy được tự tánh của cái thấy, bản chất của thấy vốn là vô thường.

Tai của chúng ta là một căn cứ của cảm giác. Sau căn phù trần có căn thắng nghĩa, tức là trong lỗ tai có những cơ quan có tính cách tinh vi tế nhị, đó gọi là thắng nghĩa căn. Có năm thức tất cả, chúng ta gọi là ngũ thức. Ngũ thức không có nghĩa là ngủ rồi thức dậy đâu! Nó có nghĩa là năm nhận thức là: thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm. Năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là năm căn. Còn sắc, thanh, hương, vị, xúc gọi là năm trần hay là năm cảnh. (Ngày xưa chúng ta có ông vua tên là Trần Cảnh). Năm thức là năm loại nhận thức được phát hiện khi có sự tiếp xúc giữa năm căn và năm trần với những điều kiện thuận lợi khác.
 

Thức:

Trong một sát na của cái thấy, nếu chúng ta phân tích cái thấy đó ra, chúng ta thấy có tới năm bản chất. Năm bản chất này được liệt kê như năm tâm sở. Cái thấy gọi là tâm hay là thức, còn nội dung của thức là tâm sở. Tiếng Anh gọi tâm là mind, còn tâm sở là mental formation. Trong cái thấy phân tích ra có năm giai đoạn, năm bản chất. Thứ nhất là xúc, tức là sự va chạm, sự tiếp xúc. Thứ hai là tác ý, tức là có một sự kích thích, chú ý vào đối tượng. Thứ ba là thọ, tức là sự tiếp nhận hình ảnh. Thứ tư là tưởng,  tức là tri giác, chấp nhận, hiểu, nhận thức đó là cái gì, là chúng ta có cái thấy về cái đó. Thứ năm là , tức là chiêm nghiệm về cái đó. Ví dụ như chúng ta ăn cái kẹo, chúng ta bỏ cái kẹo vào miệng gọi là thọ. Tưởng là biết đó là cái kẹo và tư tức là khi chúng ta có một kinh nghiệm rõ ràng về chất liệu của cái kẹo trên lưỡi chúng ta. Trong một sát na của cái thấy nó gồm đủ năm yếu tố đó và một sát na rất ngắn. Năm tâm sở, năm tâm tư này trong khi giảng bằng tiếng Anh tôi hay dùng danh từ mental formation. Thức là mental, nhưng nội dung của thức là tâm sở thì gọi là formation mentale. Chúng ta biết rằng năm tâm sở này không phải chỉ là nội dung của cái thấy, mà còn là nội dung của nghe, hiểu, biết. Không phải năm thức cảm giác là nội dung của tất cả các thức khác, thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám đều có năm tâm sở này. Có nhiều loại tâm sở và năm tâm sở này là năm tâm sở biến hành, tiếng Phạn là Sarvatraga.

Tại sao gọi là biến hành? Biến có nghĩa là universal, là cùng khắp, không riêng cho một thức nào mà cho tất cả các thức. Hành tức là hoạt động một cách phổ quát. Trong Duy thức học chúng ta nói tới tám thức. Năm tâm sở biến hành cộng tác, nó là nội dung cho tất cả các thức nên gọi là biến hành, tâm sở biến hành. Nội dung của tâm sở ở mỗi thức mỗi khác. Ví dụ như ở thức thứ sáu là ý thức, nội dung của tưởng khác hơn và ở thức thứ bảy nội dung của tưởng cũng khác hơn nữa, tuy nhiên nó vẫn là tưởng. Từ từ chúng ta sẽ đi sâu vào, nhận xét thì chúng ta sẽ thấy, bây giờ chúng ta chỉ nói như vậy thôi. Tất cả các thức đều có nội dung của năm tâm sở biến hành, nên gọi là năm tâm sở biến hành.

Chúng ta có cái thấy gọi là nhãn thức, nghe gọi là nhĩ thức, ngửi gọi là tỉ thức, nếm gọi là thiệt thức, xúc chạm gọi là thân thức. Những thức này đều có thể hoạt động một cách độc lập. Có khi hai cái hoạt động chung một lần, có khi ba cái hoạt động chung một lần, nhưng có khi chỉ một cái hoạt động thôi. Năm thức này có khi hoạt động chung với thức thứ sáu gọi là ý thức. Phạm vi hoạt động của thức thứ sáu rất rộng gọi là ý thức, manovijnana. Ý thức có thể hoạt động độc lập và cũng có thể hoạt động chung với năm thức khác. Khi nó hoạt động độc lập gọi là độc đầu ý thức. Khi nó cộng tác với năm thức khác gọi là ngũ câu ý thức. Khi nói tiếng Việt chúng ta phải nói ngược lại: ý thức độc đầu và ý thức ngũ câu. Ý thức độc đầu tức là ý thức hoạt động độc lập, không có sự cộng tác của năm thức kia. Ý thức ngũ câu là khi ý thức cộng tác với năm thức trước. Ý thức có khi suy nghĩ lung tung, hoạt động một mình, làm cái này, làm cái kia, nghĩ cái kia, tưởng tượng, suy tư. Làm toán mà không cần năm anh chàng kia cộng tác thì gọi là ý thức tán vị (giống như là danh từ thuốc Bắc). Tán có nghĩa là không có định, có tính cách tản mát, vị tức là một vị trí. Tán vị là ý thức trong vị trí tán loạn, khi suy nghĩ cái này, khi suy nghĩ cái khác, không có định. Hoặc khi nó hoạt động trong mộng thì cũng không có sự cộng tác với năm anh chàng kia. Nó thấy, nó nghe nhưng không phải mắt thấy, tai nghe. Tức là trở về trong tiềm thức lấy những hình ảnh đã có sẵn, rồi biến chế những hình ảnh đó ra dùng mà không cần mắt thấy, tai nghe ở ngoài đưa vô. Gọi là ý thức trong mộng, mộng trung ý thức. Khi ý thức thực tập chánh niệm và đi được vào định, gọi là ý thức trong định, định trung ý thức. Khi bị điên loạn gọi là loạn trung ý thức, tiếng Việt nói là ý thức điên loạn.

Ngũ câu ý thức là ý thức hoạt động chung với năm thức kia. Khi ý thức làm việc chung với cả năm thì không có thức nào mạnh hết. Nhưng nếu ý thức dồn hết sức lực và làm việc với một cái thôi, thì cái đó rất mạnh. Vì vậy ý thức có thể xem như một bình điện, nếu chúng ta chỉ dùng vào một bóng đèn thì bóng đèn đó rất sáng. Nhưng nếu chúng ta dùng cho nhiều bóng đèn một lần thì những bóng đèn sẽ không đủ sáng. Khi chúng ta để hết tâm ý vào một đối tượng của cái thấy, chúng ta thấy rất rõ. Nếu chúng ta phân tán ý thức này vào cả năm thì sẽ không được rõ ràng. Vì ý thức này  là một vùng năng lượng, nếu tản mát ra cho nhiều cửa sổ thì năng lượng đó sẽ trở thành  yếu đi.  

Khi muốn nhìn một cái gì cho rõ, chúng ta phải bịt tai, bịt mũi, bịt những cửa sổ khác của giác quan thì cái thấy sẽ rõ hơn. Ví dụ như chúng ta đang ở trong một phòng triển lãm, chúng ta rất thích một tác phẩm hội họa. Tất cả tâm ý của chúng ta dồn về làm việc chung với cái thấy trong lúc đó, nếu có âm nhạc chúng ta cũng không nghe, có người bạn kêu gọi chúng ta cũng không biết. Tại sao vậy, vì tất cả những năng lượng ý thức của chúng ta dồn vào đây hết rồi. Cho nên những cái khác mờ đi và người bạn của chúng ta đứng cách đó bốn năm thước có gọi chúng ta cũng không nghe. Hay có người tới vỗ vai rất thân thích, chúng ta cũng không thấy sự vỗ vai nữa. Tại vì chúng ta rất chú tâm vào một chỗ rồi. Ngũ câu ý thức có tác dụng như vậy. Trong khi nó cộng tác với nhãn thức thì cũng có xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Nhưng cái thấy không hẳn là phải cộng tác với ý thức, cái thấy có thể hoạt động một mình. Ví dụ như khi đạp xe tới trường, có anh chàng sợ ông thầy la, vì ông giao cho anh ta một bài tập gì đó mà anh ta chưa làm xong. Thành ra anh ta đạp xe đi qua mấy cây số, nhưng cái tâm của anh ta, tức là ý thức của anh ta hoàn toàn không làm việc với cái thấy, tâm của anh ta lo nghĩ ra những câu để trả lời ông thầy giáo. Tuy vậy trong hai cây số đó anh ta không có đâm vào xe hơi, hay là không lái vào những vườn hoa ở sân trường. Khi đi tới trường, bạn hỏi khi anh đi ngang qua cổng trường, anh có thấy hôm nay có những luống hoa mới trồng không. Anh chàng nói là không có thấy. Không thấy là tại vì tất cả những tâm tư của anh đã để vào chỗ tìm cách trả lời ông thầy giáo rồi. Vì vậy tưởng là không thấy, nhưng sự thực anh có thấy. Nếu không thấy, anh đã lái xe cán lên những bông hoa đó rồi. Nếu anh hoàn toàn không thấy gì trong khi đạp xe từ nhà tới trường, anh đã đụng vào xe hơi, anh đã đụng vào cái này hoặc cái kia. Có nghĩa là anh có thấy, nhưng anh không để ý. Vì vậy chúng ta thấy rằng: cái thấy có thể làm việc độc lập và cái thấy có thể làm với chung với thức thứ sáu, tức là ý thức.

Trong Duy thức học thường nói rằng: năm thức này gọi là năm thức đầu, tiếng Hán Việt là tiền ngũ thức, nghe buồn cười lắm nhưng nó có nghĩa là năm thức đầu. Năm thức đầu là: thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm. Về sau chúng ta sẽ học về cảnh, tức là đối tượng, có nhiều loại đối tượng. Khi cái thấy của chúng ta hoạt động độc lập thì cảnh đó nó khác, khi nó cộng tác với ý thức để thấy, nó lại khác nữa. Khi ý thức để sự phán đoán, phân biệt của nó vô thì cảnh lại khác nữa. Trong giây đầu thuần túy của cái thấy thì cảnh đó gọi là tánh cảnh. Nhưng khi đã để vào sự phân biệt, sự giám định của ý thức rồi thì tánh cảnh này bị xóa mờ đi, lúc đó đối tượng không phải là tánh cảnh nữa mà là đới chất cảnh. Khi chúng ta nhắm mắt lại, đóng hết năm giác quan lại chúng ta phục hồi lại những hình ảnh đã thấy, đã nghe, đã biết thì đó gọi là độc ảnh cảnh. Ví dụ như hôm qua chúng ta thấy một con voi ở vườn thú, hôm nay chúng ta ngồi ở nhà, không đi vườn thú nhưng chúng ta nhắm mắt lại, phục hồi hình ảnh con voi ra trong chúng ta, thì hình ảnh con voi đó là độc ảnh cảnh.

Chúng ta đã biết rằng đối tượng của nhãn thức là sắc, đối tượng của nhĩ thức là thanh, tỉ thức là hương, thiệt thức là vị, thân thức là xúc. Vậy chúng ta hỏi đối tượng của ý thức là gì, và căn của nó là gì. Tại vì thức là phải có căn để phát sanh. Vậy ý thức cũng cần phải có căn cứ phát sinh của nó, ý thức cũng có phần đối tượng của nó. Nếu không có đối tượng thì không có chủ thể, chủ thể và đối tượng nương nhau mà thành lập. Vì vậy tướng phần chỉ có thể có khi có kiến phần, kiến phần chỉ có thể có khi có tướng phần. Đối tượng của ý thức là gì? Đối tượng của ý thức theo Duy thức học là pháp. Chữ pháp này chúng ta đã hiểu ý của nó rồi, pháp đây không có nghĩa là giáo lý, pháp đây là tất cả mọi hiện tượng mà đối tượng của ý thức rất rộng, có thể nói đối tượng của nó là rộng nhất. Đối tượng của nhãn thức chỉ có thể là sắc thôi. Chúng ta nên nhớ cái hình của thức, là một thức thì có phần chủ thể kiến phần, phần đối tượng là tướng phần. Nếu cái này là ý thức thì cái này là pháp, kiến phần tức là chủ thể của pháp thôi. Hỏi câu hỏi đó chứng tỏ mình chưa nắm vững được.

Đem ra một ví dụ để thấy đối tượng của nhãn thức là sắc. Sắc theo sự phân tích đơn sơ là hiển sắc, có nghĩa là màu sắc. Ví dụ như vàng, đỏ, tím, đen, trắng, cam v.v… gọi là hiển sắc. Còn những đường nét vuông tròn, dài ngắn v.v… gọi là hình sắc. Thứ ba là biểu sắc, ví dụ như đi, đứng, nằm ngồi, sự vụng về, sự duyên dáng, tất cả cái đó đều là sắc cả. Nhưng nó không phải là vật chất, cũng không phải màu sắc, không phải là ánh sáng nhưng nó phát hiện ra từ những yếu tố đó, đó là sự phân tích đơn sơ nhất ở trong Duy thức học về sắc. Vậy thì thấy tức là nhãn thức, nhận thức được tất cả những cái như một bước chân thô, hay là một nụ cười duyên dáng, tất cả những cái đó đều thuộc về phạm vi của sắc. Sau này chúng ta sẽ học tới sắc gọi là vô biểu sắc.

Đứng về phương diện đối tượng của nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức là thanh, hương, vị, xúc, tức là đối tượng của năm thức sau cũng có những sự phân tích như vậy, nhưng ở đây chúng ta không cần đi sâu quá. Câu hỏi hiện bây giờ của chúng ta là nếu ba thứ sắc này là đối tượng của nhãn thức, vậy đối tượng của ý thức là gì. Đối tượng của ý thức là pháp, pháp tức là tất cả mọi hiện tượng. Cố nhiên những hiện tượng đó bao gồm những hiện tượng của sắc, của thanh, của hương, của vị và của xúc. Nhưng nó rộng lớn hơn nhiều. Từ trước tới nay chúng ta chỉ nghe nói tới ngũ căn và ngũ trần, tức là năm giác quan và năm loại đối tượng. Năm giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Năm đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Bây giờ chúng ta đi đến khái niệm về lục trần. Lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Như vậy nếu có lục trần, tức là sáu loại đối tượng thì cũng phải có sáu loại chủ thể. Sáu loại chủ thể tức là sáu thức, thức thứ sáu là ý thức. Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, đó là sáu thức. Sáu đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chúng ta có sáu trần, sáu thức và cố nhiên chúng ta phải có đủ sáu căn. Tại vì căn tiếp xúc với trần làm phát sinh ra thức. Vậy thì căn nào tiếp xúc với pháp trần để sanh ra ý thức, đó là câu hỏi thứ hai. Duy thức học cho chúng ta biết rằng căn phát sinh ra ý thức, ý vốn là một thức manas. Sáu căn tức là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Quý vị nên nhớ ý là manas, ý thức là manovijnana, chữ mano lấy từ chữ manas ra. Chúng ta thấy rằng trong khi những căn của năm thức trước là sinh lý. Gọi như vậy để quý vị thấy rằng nhãn thức có căn cứ trên con mắt và để thấy rằng ý thức có căn cứ trên ý. Sự khác biệt là những căn cứ của năm thức trước nặng về sinh lý, còn căn cứ của thức thứ sáu nặng về tâm lý, bởi vì ý trước hết là tâm lý. Nói như vậy không có nghĩa là ý thức không có căn cứ sinh lý, nó cũng có căn cứ sinh lý. Ý thức cũng cần phải dựa trên thân và ý thức cũng cần dựa trên não bộ và thần kinh. Nhưng trong trường hợp này não bộ thần kinh và thân thể là một trong những trợ duyên để phát sinh ý thức thôi, không phải là những nguyên nhân duy nhất để phát sinh ra ý thức. Căn cứ từ trên đó mà phát hiện ra ý thức gọi là ý. Ý, định nghĩa một cách đơn sơ là tác dụng tâm lý có tính cách vô thức, có tính cách thầm lặng, một thứ định kiến, một khuynh hướng, một quan niệm do nhiều nhân tố hợp thành. Ý là căn cứ của ý niệm về ngã, về cái ta, như một loại trực giác không có tác dụng suy tư tưởng tượng như ý thức. Duy thức học nói là khuynh hướng chấp ngã, âm thầm chấp ngã, là một bản năng tự vệ. Ở trong ý này có một sự sai lầm, một niềm tin thầm lặng rằng: xác thân này, con người này là mình, những cảm thọ này là mình, những nhận thức này là mình, tên này là của mình. Như vậy là phân biệt với những cái không phải là mình, tức là một sự phân biệt về ngã và phi ngã, đó là tác dụng của ý.

Bây giờ nhìn lại thân thể của chúng ta thì thấy nó là một tổ chức giống như độc lập, có những thành trì, có những quân đội bảo vệ, có hệ thống phòng thủ tổ chức. Ý tức là một khuynh hướng cho rằng: thân này, tâm này là một thực thể biệt lập. Có thể được phân biệt đối với những hiện tượng khác, những thân thể khác, những con người khác, những loài vật khác, gọi là phi ngã. Tác dụng chính của nó là chấp ngã, theo ánh sáng của Phật học thì đó là một sự sai lầm. Vì ngã được làm bằng những yếu tố phi ngã và ranh giới giữa ngã và phi ngã là do anh chàng ý sản xuất ra, không phù hợp với sự thật. Ý thức dựa trên cơ bản của ý, cho nên hoạt động của ý thức chịu ảnh hưởng một cách rất sâu đậm khuynh hướng thâm trầm và chấp ngã. Khi chúng ta hỏi, nếu ý cũng là một loại thức trong Duy thức học thì ý là thức thứ bảy, trong khi ý thức là thức thứ sáu. Vậy đối tượng của ý thức là gì và căn cứ trên đó phát sinh ra ý là gì. Chúng ta phải nhớ cho kỹ, ý khác và ý thức là khác. Câu trả lời của Duy thức học là căn cứ phát sinh ra ý tức là một thức khác, tên của nó là A lại da. Chữ A lại da này dịch là tàng, có nghĩa là chứa, chất chứa, cất giữ, duy trì, giữ gìn, giống như là tàng cổ viện. Cất chứa cái gì, duy trì cái gì, giữ gìn những gì, đó là đối tượng của nó. Tác dụng, bổn phận của A lại da  là cất chứa, giữ gìn những chủng tử (bija). Chữ tàng này có ba nghĩa, nghĩa thứ nhất là năng tàng, tức là tác dụng khả năng có thể cất chứa và duy trì được. Như là tàng cổ viện thì phải có một ông giữ gìn nó. Năng tàng tức là chủ thể của thức A lại da, tức là tác dụng cất chứa và giữ gìn đừng cho rơi mất. Cất chứa những hạt giống gọi là chủng tử. Thứ hai là sở tàng, là những cái được cất giữ, là đối tượng được cất giữ. Nghĩa thứ ba là ngã ái chấp tàng, ngã ái tức là sự dính mắc vào quan niệm ngã, chấp tức là ôm lấy, ghì lấy, nắm lấy, chấp ngã tức là ôm lấy cái ngã, ái tức là dính vào. Ngã ái chấp tàng nghĩa là: thức A lại da là đối tượng của sự níu kéo thức thứ bảy, đối tượng níu kéo ý tức là thức thứ bảy. Nghĩa là ý nắm lấy A lại da, cho A lại da là đối tượng. Níu kéo lấy A lại da và cho A lại da là ngã của nó. A lại da trở thành nô lệ, trở thành một tên tù của ý, tên tù nhân đó có tên là ngã ái chấp tàng, tức là kho bị níu kéo và chấp là ngã. Chúng ta nhớ rằng: năng tàng là tác dụng cất giữ, sở tàng tức là đối tượng cất giữ, ngã ái chấp tàng tức là đối tượng chấp ngã của thức thứ bảy. 
 

Chủng tử :

A lại da là người giữ kho và cũng chính là nội dung của kho. Người giữ kho là năng tàng, nội dung của kho bị giữ là sở tàng và tiếp theo lại bị làm nạn nhân của thức thứ bảy, được coi như là ngã, thật ra không phải là ngã. Ví dụ như có cục đá đang an lành ở trên núi, có một người leo lên thấy cục đá, cho đó là thần linh và quỳ xuống lạy cục đá, tự nhiên cục đá đó trở nên đối tượng cúng lại của người kia. A lại da cũng vậy, tự nhiên trở thành ra đối tượng chấp ngã của thức thứ bảy. Chủng tử có nghĩa là hạt giống, đó là một danh từ triết học có tính cách tượng trưng. Có thể nói chủng tử tức là mầm mống, chất liệu của tất cả mọi hiện tượng, nhưng nó ở trong cái thế gọi là tiềm phục, chưa phát hiện, gọi là chủng tử. Những pháp nào, những hiện tượng nào khi đang ở trong thế tiềm phục, gọi là hạt giống. Khi nó biểu hiện ra là pháp thì được gọi là hiện hạnh. Hiện hạnh là một sự phát hiện của chủng tử ra một hình thái mà chúng ta có thể quan niệm được, nhận thức được. Ví dụ hôm kia chúng ta đi ngoài đường thấy một con voi, con mắt của chúng ta tiếp xúc với con voi và đưa tới sự phát sanh cái thấy về con voi. Thấy, phải là thấy về cái gì, thấy về con voi. Đối tượng của nhãn thức rơi vào lĩnh vực của ý thức, tức là tôi thấy con voi và biết rằng đây là con voi. Đó là sự hợp tác của thức thứ nhất và thức thứ sáu. Hình bóng của con voi truyền sang và đi ngang qua thức thứ bảy, rơi xuống ở dưới đáy của A lại da trở thành một chủng tử, một hạt giống. Sau đó chúng ta đi qua khỏi chỗ đó, chúng ta không thấy con voi nữa, chúng ta thấy cây cối, nhà cửa v.v… Lúc đó chúng ta không còn thấy con voi trong giờ phút hiện tại nữa. Nhưng ở trong A lại da của chúng ta đã có một hạt giống về con voi. Hạt giống đó có thể có nhiều mặt, nếu chúng ta chỉ thấy hình dáng con voi thôi, thì đó là một hạt giống thuần túy về sắc. Nếu trong khi chúng ta thấy con voi, chúng ta nghe con voi hú một âm thanh đi vào trong ý thức và rơi xuống song song, ở đây chúng ta có một hạt giống thứ hai liên hệ tới con voi, đó là hạt giống về thanh. Chúng ta có hạt giống sắc và thanh.

Giả dụ hồi hôm chúng ta nằm mơ thấy con voi, nếu trong giấc mơ chúng ta thấy con voi tức là ý thức đã trở về, thức là A lại da, lục lạo làm sống dậy những hạt giống trong phạm vi ý thức trong mộng. Ý thức trong mộng phát hiện thành hiện hạnh. Chủng tử phát hiện thành hiện hạnh. Trong giấc mộng kia chúng ta có thể nhìn ngắm con voi giống hệt như con voi ngày hôm qua. Hình bóng con voi này là độc ảnh cảnh. Hôm qua chúng ta đã thấy cảnh có ba loại, một là tánh cảnh, hai là đới chất cảnh, ba là độc ảnh. Vậy con voi ngày hôm qua chúng ta thấy là con voi của tánh cảnh. Con voi đêm hôm nay chúng ta mơ thấy là con voi độc ảnh. Đối tượng ý thức ngày hôm qua là tánh cảnh, đối tượng ý thức hồi hôm là độc ảnh cảnh.

Nếu đây là lần đầu tiên chúng ta thấy con voi, như vậy hạt giống voi là hạt giống mới sinh lần đầu. Có một người chưa bao giờ thấy con voi, lần đầu thấy con voi không biết là con gì, thấy một con như vậy thôi. Sau khi được người ta cho biết đây là con voi thì hạt giống sắc và hạt giống thanh phát sinh cùng một lúc. Hình bóng con voi và tên gọi con voi phát sinh cùng một lúc. Lần đầu tiên nghe tiếng voi và thấy được hình dáng con voi. Như vậy chủng tử đầu tiên được vào trong A lại da gọi là huân sinh. Chữ huân này có nghĩa là ướp, ví dụ trà chúng ta ướp hoa sen,  mùi hoa sen thấm vào trong trà. Trong trà vốn chưa có hương sen, bây giờ chúng ta ướp hương sen vào trong trà thì trà có hương sen, đó gọi là huân sinh, có nghĩa là ướp vào. Giả dụ hạt giống đó đã có sẵn rồi, nhưng yếu, bây giờ chúng ta ướp thêm cho mạnh lên. Ví dụ như trà của chúng ta đã ướp hoa sen rồi, nhưng ướp sơ sơ thành ra mùi thơm không đủ để làm cho trà ngon, chúng ta lấy nhụy hoa sen ướp thêm, đó gọi là huân trưởng. Đây là một ý niệm rất quan trọng về vấn đề giáo dục cũng như vấn đề trị liệu tâm lý. Ví dụ chúng ta hát một bài hát, hay học một bài thi kệ lần đầu, chúng ta có thể học bằng nhiều cách. Có một bài thi kệ trước mắt, bài thi kệ đi vào bằng ngưỡng cửa của nhãn thức, chúng ta thấy bài thi kệ. Đồng thời chúng ta đọc bài kệ lên thì bài thi kệ đi vào cửa ngõ của nhĩ thức. Chúng ta biết rõ ràng khi chúng ta học bài, nếu chúng ta học thầm, không đọc lên tiếng thì lâu thuộc bài hơn. Nhưng nếu chúng ta học bài mà đọc lên tiếng lớn thì rất mau thuộc, tại vì chúng ta huân bằng hai con đường. Cho nên khi dạy trẻ em học, chúng ta khuyên các em phải đọc lớn lên. Ví dụ như chúng ta tụng kinh, nếu chỉ học thầm thì lâu thuộc. Nếu chúng ta tụng lên, đọc lên thì âm thanh và âm nhạc giúp cho chúng ta thuộc kinh mau. Khi em bé đọc bài thi kệ một lần, thì ở trong A lại da của em có bài thi kệ với hình thái của một chủng tử. Chúng ta nói em đọc lại bài thi kệ đó, thì em đọc không được. Tại vì hạt giống, chủng tử còn yếu, không đủ sức để trở nên hiện hạnh. Muốn cho một chủng tử trở nên hiện hạnh dễ dàng thì chủng tử đó phải mạnh, điều này rất là đúng. Nếu chúng ta hái hạt tía tô lúc còn non, khi gieo hạt không thể mọc lên cây tía tô được. Do đó phải đem cây tía tô vào nhà cho ấm và để nó thật chín mới hái cái hạt đó. Khi chúng ta gieo hạt già thì chắc chắn cây tía tô sẽ lên. Vì vậy những chủng tử non yếu trong ta có thể tiêu tan, tản mát, hư hoại, nếu chúng ta không gìn giữ và không làm cho nó già dặn thêm. Em bé được chúng ta dạy phải đọc lại bài thi kệ đó lần thứ hai, thứ ba, thứ tư và mỗi lần đọc bài thi kệ như vậy hạt giống ở đây càng mạnh lên. Sau khi em bé đã đọc lần thứ sáu rồi chúng ta lấy tờ giấy thi kệ đi, chúng ta nói em đọc và em đọc lên được. Trong trường hợp này chủng tử đủ sức mạnh tự biến thành hiện hạnh. Chủng tử là một pháp, pháp tiềm phục. Hiện hạnh cũng là một pháp, pháp biểu hiện. Có những pháp nằm trong trạng thái chủng tử, thì chúng ta không thể nói là không có được. Ví dụ có một anh kia, anh cười như điên vậy, chúng ta nói anh ta không có những sự buồn đau, cái đó không đúng. Anh ta có những sự buồn đau, những sự buồn đau đó đang được cất với hình thái chủng tử trong tâm. Cứ ngồi đợi đi, sau khi anh hát anh sẽ khóc, khi anh khóc tức là những chủng tử ở trong tâm thức của anh bắt đầu trở nên hiện hạnh.

Khi chữ huân nằm ở trước là một động từ. Huân sinh tức là làm cho sinh ra, là huân tập cho sinh ra. Chữ huân là tiếng tắt của hai chữ huân tập, tập có nghĩa là gom lại và tạo thành, trong chữ tập quán hay là chữ biên tập. Huân tập là một phương pháp giáo dục có thể rút ra từ Duy thức học của đạo Bụt, giáo dục theo đường lối huân tập. Huân tập làm cho sinh ra gọi là huân sinh, huân tập để làm cho lớn mạnh lên gọi là huân trưởng. Khi chủng tử mạnh quá, hạt giống mạnh quá, không những chúng ta làm cho nó hiện hành dễ dàng, đôi khi chúng ta không muốn, nó vẫn tự động hiện hành như thường. Ví dụ như chúng ta có hạt giống buồn, hạt giống buồn hơi lớn, không muốn buồn gì hết, không nói buồn ơi chào mi lên đây, nhưng nó vẫn lên như thường. Những lúc đó nó trở nên mạnh và có thể thống trị chúng ta. Hiện hành là một động từ, hiện hạnh là một danh từ. Chữ hành có nghĩa là làm, chữ hạnh có nghĩa là việc làm, nghĩa là action, nhất hạnh nghĩa là một action, một việc làm, làm đi thì chúng ta dùng chữ hành. Chủng tử sanh hiện hạnh, tôi vừa nói khi một chủng tử mạnh quá thì nó tìm đường phát hiện trên mặt phẳng của ý thức. Ví dụ như một người đang yêu thì chủng tử yêu rất  mạnh, thành thử khi người đó làm việc, quét nhà, đi chợ, nấu ăn, làm toán, anh chàng chủng tử này cũng tìm cách len lén nổi lên. Trong khi đi làm việc như vậy mà cứ nghĩ tới người yêu của mình. Điều đó cũng đúng với cái giận, cái ghét. Khi nào chủng tử đó mạnh quá, nó sẽ tìm cách đi lên và trấn ngự ý thức của chúng ta. Những lúc đó là lúc bất thường. Mỗi khi chủng tử được dịp phát sinh thành hiện hạnh thì hiện hạnh lại làm cho chủng tử mạnh thêm. Tại vì một sát na được hiện trú trong ý thức thì sát na đó làm rơi xuống một hạt giống mới để huân trưởng hạt giống đã có sẵn. Vì vậy hễ chủng tử nào có dịp tái hiện trên ý thức, là chủng tử đó có cơ hội huân trưởng. Có những chủng tử chúng ta muốn huân trưởng, có những chủng tử chúng ta không muốn huân trưởng. Những chủng tử chúng ta không muốn huân trưởng, nó cứ tìm lối lên trên ý thức để phát hiện, chúng ta thấy nó hơi nguy cho chúng ta, phải tìm cách giải quyết. Khi chúng ta không muốn chủng tử của chúng ta phát hiện, nó cứ phát hiện và trấn ngự ngày đêm ở trên, lúc đó chúng ta rất đau khổ. Làm cho chúng ta thất điên bát đảo, làm chúng ta buồn, chán, không muốn sống, có thể xô đẩy chúng ta đi tự tử hay đi kiếm súng bắn người kia hoặc tự bắn mình. Đó là quá trình của sự huân trưởng mà chúng ta không kiểm soát được. Sống nếp sống tỉnh thức và chánh niệm, tức là sống như thế nào để những hạt giống như vậy không huân sinh và nếu đã huân sinh rồi thì không có huân trưởng. Đến nỗi trở nên một hiện tượng trấn ngự chúng ta, độc tài và chúng ta luôn luôn chịu ảnh hưởng, bị sự thống trị của nó. Ví dụ như hồi còn nhỏ, lúc hai ba tuổi, chúng ta bị một bà dì ghẻ ác nghiệt hành hạ, hay bị ba la, má rầy. Đôi khi ba hay má không ghét chúng ta, nhưng vì sự vô tâm và dại khờ, thành ra họ gây ra những ấn tượng rất sâu đậm trong con người còn mong manh yếu đuối của chúng ta. Những dấu tích ba má gây lên trong tâm khảm chúng ta, lúc chúng ta đang còn trong trứng nước, sẽ trở thành những chủng tử bền bỉ. Khi lớn lên, chúng ta sống, ăn, thở, suy nghĩ, tưởng tượng và chịu ảnh hưởng của những chủng tử đó. Nhưng khi nào sống tỉnh thức, chúng ta mới nhận diện ra được những ảnh hưởng của những chủng tử đó.  

Xem tiếp...

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường.

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

LÊN TRÊN=  | GỬI BÀI  |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.