Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ
Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày
|
DUY THỨC HỌC
1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
| 11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
| 21
| 22
| 23
| 24
| 25
| 26
| 27
| 28
| 29
| 30
Vài phương pháp để tạm qua cơn điên
Hôm trước tôi có nói về những phương pháp làm cho người ta bớt điên,
trong đó có phương pháp đánh gối. Phương pháp này cũng có ích lợi, nhưng
chỉ có ích lợi một cách tạm thời thôi. Nó đỡ ngạt lúc đó, nó giúp tiết
ra năng lượng của cái giận hay là của cái bực tức. Có nghĩa là đôi khi
nếu bí quá, chúng ta có thể sử dụng phương pháp đó được. Còn phương pháp
kia của thầy
Sansonin ở Florida Zen Center
là bắt các thiền sinh phải lạy mỗi ngày cả
ngàn lạy. Thường thường chúng ta lạy sám hối là một trăm lẻ tám lạy, lạy
hồng danh là trong khoảng đó. Nhưng thầy Samsonim bắt thiền sinh phải
lạy mười lần như vậy, tức là vào khoảng một ngàn tám mươi lạy. Thành ra
khi một ngày phải lạy nhiều như vậy, họ phải chia những thời lạy ra làm
nhiều thời, và trong khi lạy phải dùng hết tất cả thân và tâm để hướng
về chuyện sám hối. Vì vậy năng lực được tiết vào trong đó, thành ra đỡ
điên. Cho nên có nhiều người rất thích thầy Samsonim. Nó có ích lợi
thật, nó không giải quyết được căn bản của vấn đề nhưng nó làm cho đỡ
ngạt. Nghe nói rằng trong tập thể đó, có một vị mạnh thường quân cho
thiền viện rất nhiều tiền, có khi cho cả mấy trăm ngàn. Nhưng ông đó
cũng điên lắm. Có những lúc ông điên quá, ông cầm dao chạy rượt mọi
người. Nhưng nhờ phương pháp của thầy Samsonim, những lúc điên và bắt
buộc phải lạy như vậy, nó làm giảm thiểu chuyện điên đi. Tức là năng
lượng của cái điên được tiết ra, nhờ vào những phương pháp như lạy
xuống, thở và đọc kinh... Chúng ta đừng vội vàng chê phương pháp đó là
sai, tuy sai vậy nhưng nó có thể giúp được một số người. Có khi mê tín
dị đoan cũng có thể giúp được một số người. Ví dụ như con mình bị nóng
sốt, mình cuống lên và chưa biết làm gì vì không có bác sĩ. Mình tới gốc
đa, tới miễu thánh mình lạy xin nước lạnh của ông thầy phù thủy về cho
con uống, đôi khi trong tâm nó an lại, thánh thần phò hộ nó an lại. Khi
cái tâm an lại thì mình có thể sáng suốt hơn. Thành ra những cái đó tuy
là mê tín dị đoan, nhưng nó cũng có tác dụng tâm lý. Chúng ta là người
học Bụt, chúng ta phải có thái độ cởi mở. Chúng ta thấy được giá trị của
những lối thực tập khác, chúng ta tìm hiểu chứ không lên án một cách quá
rạch ròi.
Có những khóa tu rất cực khổ, thức dậy từ lúc bốn năm giờ để ngồi
thiền, rồi phải chấp tác. Ngồi thiền luôn một ngày mười giờ, mười hai
giờ, có khi ngồi luôn cả hai chục giờ. Những thiền sinh cũng khổ đau
lắm, tại vì ngồi nhiều làm đau chân, đau chịu không thấu, đau như ở dưới
địa ngục vậy mà không được đi ngủ, làm luôn như vậy trong bảy ngày, mười
ngày. Nhất là người Nhật có những khóa tu như vậy và có rất nhiều người
đi tu. Có thể là họ cảm thấy rất đau khổ trong khi làm những việc như
vậy, nhưng tất cả những đau nhức khó chịu đó thay thế cho niềm đau ở
trong tâm, cái điên nó không còn nữa, cái điên nó được biến chất trong
những cái đau khổ kia. Ngồi như vậy làm chân đau quá mà không dám thay
đổi chân, bởi vì thay đổi chân sẽ bị đánh. Luật ở thiền viện là sẽ bị
đánh một phát rất mạnh trên vai. Ngồi đó lo cho cái chân đau, và khổ đau
vì cái chân nên chuyện điên loạn kia không có cơ hội để phát hiện. Chúng
ta phải thấy giá trị của những lối thực tập đó. Thời này có nhiều người
điên loạn lắm, nhất là ở Tây phương. Thành ra pháp môn gọi là đánh gối,
hoặc là đánh cột nhà, hoặc là lạy một ngàn lạy, hoặc là theo những khóa
tu rất cực khổ, rất là nặng nhọc như vậy cũng có ích lợi.
Ở Việt Nam cũng có một cách là liệng chén bát khi giận vợ giận con.
Đánh vợ đánh con thì hơi nguy, thành ra mình cứ lấy chén bát liệng xuống
kêu cái rầm. Bể bình bông, bể hết bát chén, nhờ vậy nó làm hả cái giận
của mình. Nhưng cách đó hơi tốn, thành ra các bà từ đó về sau đi mua đồ
bằng plastic để cho đừng có bể chén bể đĩa. Cái đó không phải là riêng
của Việt Nam đâu, ở bên này cũng có, chỗ nào cũng có cái kiểu đó. Nó có
nhiều cách để tiết hận, nhưng cái cách tiết hận hay nhất là ra làm lao
động, có lẽ vì vậy mà chính quyền xã hội bắt người ta đi làm lao động
quá trời, để người ta không có thời gian nghĩ tới chuyện chống đối này
nọ. Đó là thiền cả, thiền do Đảng thiết kế.
Nội kết - kết sử
Nói về câu chuyện Trương Chi và Mị Nương. Khi anh chàng Trương Chi
được diện kiến Mỵ Nương rồI, hình ảnh của Mỵ Nương rơi vào a-lại-da của
Trương Chi và từ đó về sau anh ta thương cô nàng. Nhưng anh đâu có hy
vọng gì để cưới được con của quan thừa tướng, vì vậy cho nên anh mang
cái nội kết đó đi theo. Tiếng hát của anh càng não nùng hơn, càng hay
hơn, nhưng chất tuyệt vọng càng ngày càng nhiều. Thành thử khi anh chết
rồi nó thành một khối nội kết. Cái nội kết đó đến khi thiêu nó vẫn còn
một khối. Thời đó người Việt đang theo tục lệ Ấn Độ, chết rồi thì thiêu.
Thiêu xong thì trái tim hay là cái khối nội kết đó vẫn còn, và người ta
đã tạc ra một chén trà rất đẹp bằng cái ngọc nội kết đó. Sau khi người
ta đem dâng lên ông quan thừa tướng, chén trà được để vào trong phòng
cho Mỵ Nương uống trà. Giọt nước mắt của Mỵ Nương rơi xuống cái chén đó,
làm cái chén tan vỡ. Chúng ta nói là tình thương của người thiếu nữ có
thể làm tan cái nội kết ở nơi anh chàng Trương Chi. Nhưng đó là một biểu
tượng thôi. Hình bóng người chèo đò hiện ra trong đáy chén, hình bóng đó
cũng từ thức a-lại-da của cô nàng mà ra.
Trong a-lại-da của chúng ta không phải chỉ có những cái ẩn ức về
sinh lý như là Freud nói. Không chỉ là có la sexe mà thôi, nó còn
có những cái khác nữa, nó còn có nhiều cái nội kết nữa. Tình yêu là một
nội kết, tại vì một chàng với một nàng ở trong trường trung học khi yêu
nhau thì không còn làm ăn gì được nữa, học hành không được nữa. Những
thất vọng, những khổ đau đều trở thành nội kết. Nội kết là một danh từ
tôi lượm được ở trong kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm. Nhưng đó là danh từ
dùng trong tụng bản thứ hai, tức là tụng bản Niệm xứ kinh trong Trung A
Hàm. Bản chữ Hán trong kinh Trung A Hàm dịch là nội kết, tức là những
cái đóng cục bên trong. Khi so ra tiếng Phạn là samyojana, có chỗ dịch
là kết sử. Chữ sử có nghĩa là nó điều khiển mình, nó sai sử mình, nó
trói buộc mình. Vì vậy chữ kết sử này người Tây phương thường hay dịch
là fetters, tức là những cái dây ràng buộc. Kết tức là nó tới với nhau,
nó đóng lại và nó sai sử.
Cửu kết
Trong tự điển Phật học có nói tới chín cái kết sử, gọi là cửu
kết, phân biệt ra chín loại kết:
- Loại đầu là ái kết, ái tức là yêu, nhưng yêu ở đây
không theo cái nghĩa là từ bi, yêu có vẻ chiếm cứ là ái kết. Kế
đến là ái dục, nó có cả sinh lý và tâm lý. Chúng ta nên biết rằng
học Bụt là phải làm quen với ý niệm: sinh lý với tâm lý là một. Nếu cái
gọi là ẩn ức của Freud nằm ở trong này, không phải khi lớn chúng
ta mới có cái đó. Khi còn nhỏ xíu, còn trứng nước chúng ta đã có cái đó
rồi, khi nút vú mẹ đã có cái đó rồi. Khi bị rứt ra là bắt đầu có sự bất
bình, có sự khổ đau, có sự thất vọng.
- Thứ hai là nhuế, tức là sân nhuế, tức là một
mối giận hờn, thù hận. Nhuế gồm hai chữ thổ và chữ tâm. Cái trái tim bị
đổ đất lên đè nặng xuống hai ba lần.
- Ba là mạn kết, mạn tức là cho mình là quan trọng hơn
hết, giỏi hơn hết, đẹp hơn hết.
- Bốn là si kết, chữ si trong ngôn ngữ thông thường có
nghĩa là trồng cây si, nhưng cái nghĩa trong này thiếu sự hiểu biết, mờ
ám. Tức là sự ngu dốt của mình là một cái cục nội kết nó che hết. Vì vậy
cho nên tu là một quá trình đập vỡ cái nội kết của si. Tại vì si có
trách nhiệm về mấy cái khác, cái si tan thì mấy cái khác cũng tan. Ví dụ
như cái sân là do si mà ra, si là vô minh. Thành ra tình si cũng có
nghĩa vô minh ở trong đó, nhưng si tình còn có nghĩa là bám vào, không
nhả ra. Ở đây si kết có nghĩa là không hiểu được sự thật, không thấy
được sự thật.
- Năm là nghi kết, khi có nghi ngờ trong tâm rồi thì
nó là một cái cục rất là lớn. Nghi một cái là nguy lắm, chẳng làm ăn gì
được. Cái liên hệ của mình đối với người kia bị phá hỏng tại vì có cái
tâm nghi ở trong đó.
- Sáu là kiến kết, kiến là cái thấy, một cái thấy lầm
lạc, một cái thấy sai lầm, một thành kiến, một định kiến. Tức là mình đã
hiểu như vậy, đã thấy như vậy rồi thành ra mình không thể thấy và hiểu
cách khác được nữa, và cái đó rất là nguy hiểm.
Chúng ta đã biết có năm kiến là: thân kiến, biên kiến, tà kiến,
kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Giới cấm thủ kiến tức là những
điều mình kiêng cử, những nghi lễ cũng thuộc về giới cấm thủ. Ví dụ như
phải tôn trọng con bò chẳng hạn, đó là một thứ nghi lễ. Ví dụ như là Nam
Giao phải tế trời bằng con bò, phải hy sinh những sinh mạng này để cho
trời đất an vui. Những nghi lễ như vậy đều thuộc về giới cấm thủ hết.
Khi người ta kẹt vào nghi lễ, hình thức mà mất nội dung, cái đó cũng là
giới cấm thủ. Kiến kết ở đây là thân kiến, biên kiến và tà kiến, có ba
cái thôi.
- Thứ bảy là thủ kết, thủ là níu lấy, khăng khăng nắm
lấy, không thả ra một ý kiến, một quan điểm, một đối tượng của sự mê
thích là thủ. Vì vậy kiến thủ này có ba kiến là thân kiến, biên kiến, tà
kiến. Thủ kiến thuộc về kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến.
- Thứ tám là san kết, ví dụ như mình biết một cách làm
bánh bông lan rất tốt, mà mình không chia sẻ cho người khác, cái đó gọi
là san. Ở trong giới tu hành có cái gọi là pháp san, tức là biết về giáo
pháp nhiều mà không dạy, không chia sẻ cho người khác. Pháp san là mình
keo kiệt về chuyện chia sẻ giáo pháp.
- Và cái thứ chín là tật kết.
Tật là sự đố kỵ ganh ghét. Ví dụ như sự chia rẽ hai chị em Tấm và Cám.
Cô em thì đẹp, dễ thương, được các chàng trai rất quý mến. Còn cô chị
thì không được đẹp, tánh tình xấu, các chàng trai không đi theo, thành
ra cô càng dễ ghét. Cô càng dễ ghét thì cô càng xấu và các chàng trai
càng sợ, đó là tật kết. Có những cái kết như vậy, nó làm thành cái cục ở
trong người mình, nó sai sử mình làm những điều có hại cho mình, nó làm
cho mình xấu thêm, nó làm cho mình dễ ghét thêm. Thành ra những người
nào muốn làm đẹp thì phải biết tranh thủ tiêu diệt những cái kết sử của
mình.
Thường thường khi chúng ta có một nội kết, và nội kết đó không phải là
vô thức, nghĩa là nó có hiện hành trong tâm rồi.
Ví dụ chúng ta có một chuyện buồn sầu não, hay là tức giận phát hiện
trong tâm. Chúng ta cố gắng thở, mỉm cười tiếp xúc với những mầu nhiệm
của vũ trụ nhưng không được. Chúng ta biết là bông hoa đẹp thiệt, biết
là nắng mai đẹp thiệt. Trên nguyên tắc chúng ta biết như vậy và cố gắng
nghe lời thầy, thở và tiếp xúc với những cái mầu nhiệm đó của vũ trụ.
Nhưng cái nội kết kia biểu hiện ra như là một màn che, nó ngăn cản không
cho chúng ta tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm đó. Nếu chúng ta biết rất
rõ nguyên tắc nhận thức và tiếp xúc được với thực tại mầu nhiệm, thì
chúng ta sẽ đưa vào trong tâm, trong a-lại-da của chúng ta rất nhiều
chủng tử của sự tươi mát. Khi nó vô, nó sẽ tới săn sóc niềm đau của
chúng ta. Nhưng chúng ta làm không thành công, tại vì nội kết đứng chặn
ở giữa hiện tại mầu nhiệm và chúng ta. Những lúc như vậy chúng ta phải
làm gì? Chính những câu trả lời đó được cho vào trong luận án tốt nghiệp
thì tốt nhất! Vì nó đến từ những kinh nghiệm, những khó khăn cũng như
những thành công của chúng ta. Tôi nghĩ rằng mỗi người tu nên có một sổ
công phu. Khi nào có những khó khăn, những thất bại, những sự thành công
về sự tu học, những ví dụ, những kinh nghiệm, chúng ta đều ghi chép vào
trong sổ đó. Giống như một cuốn nhật ký của sự tu tập. Những chất liệu
đó được đưa vào trong luận án của mình, thì thế nào cũng thành công. Vì
luận án này không phải do mình lấy tư tưởng của những người khác, của
những vị thiền sư, của các vị tổ. Những cái đó không có giá trị. Cố
nhiên chúng ta có thể dựa vào những vị đó để lấy kinh nghiệm, sử dụng
những kinh nghiệm, nhưng là những nguyên lý thôi. Còn những chất liệu
làm nên một thực tế sinh động là phải do chính những kinh nghiệm của
mình đưa vô, thì luận án đó mới thật có giá trị. Đọc vô là thấy rằng,
người này do sự tu tập làm ra chứ không phải do sự khảo cứu. Chúng ta
làm luận án khác ở trường học là chỗ đó. Thành ra mỗi người nên giữ một
tập công phu, ngồi thiền, đi thiền hành thấy gì, có kinh nghiệm gì đều
ghi vào hết. Sau này nếu chúng ta muốn viết văn, những cái đó chính là
những tư liệu rất tốt, đừng vay mượn của người khác. Trong trường hợp đó
chúng ta làm gì? Đó là một câu hỏi mà chúng ta phải tự tìm ra câu trả
lời và có khi chúng ta tìm ra được một phương pháp. Có những phương pháp
được áp dụng thành công cho mình, nhưng không thành công cho người khác,
tại vì có nhiều pháp môn khác nhau.
Theo nguyên tắc là khi có một niềm đau, niềm đau đó có thể nằm yên ở
dưới hay là phát hiện ra. Một là nó phát hiện một cách trực tiếp lên ý
thức, hai là ý thức đè nó xuống và nó lừa những lúc ý thức vô ý thì nó
phát hiện. Đôi khi chúng ta đang nói chuyện hay đang làm cái gì đó, thì
cái tiềm thức, cái mạt-na của chúng ta tìm cách đưa lên một yếu tố, đôi
khi là một cái thở dài hoặc là một chữ hoặc là âm của chữ đó. Cái đó tâm
lý học nói là một bước sảy của tiềm thức. Trong một bài văn, trong một
cuốn sách hay trong một diễn văn, nếu chúng ta chú ý thì thấy những phát
hiện như vậy của thức thứ bảy. Trong câu chuyện cũng thường xảy ra như
vậy, chúng ta đang nói chuyện với một người, tự nhiên thấy được nơi
người đó có một dấu hiệu phát xuất từ tiềm thức của họ. Mặc dù người đó
không muốn nói nhưng mình vẫn thấy như thường. Các nhà bác sĩ phân tâm
thường phải tinh ý như vậy, nói chuyện với người đối diện rồi rình rình
tóm được những cái đó, và nhờ vậy mới có thể giúp được cho người kia.
Tại vì chính người bệnh cũng không biết. Mình biết rằng mình có nội kết
và nội kết nó làm cho mình khổ. Nó sai sử mình một cách có ý thức hay
không có ý thức, vì muốn giải quyết những nội kết đó nên mình không muốn
làm con đà điểu chúi đầu xuống cát để không thấy vấn đề. Chúng ta có
nhiều cách, cách thứ nhất là mời nó lên và nói chuyện với nó, đó là
phương pháp trực tiếp. Giống như chúng ta có một điều gì thắc mắc với
người bạn, mình mời người đó tới ngồi uống trà và nói chuyện với nhau,
đó là phương pháp trực tiếp, rất hay. Nhưng khi mời người bạn đó tới
mình phải biết lúc nào nên mời. Ví dụ như giữa hai người muốn giải quyết
một vấn đề gì với nhau, thì phải có một khung cảnh tạm gọi là ổn để ngồi
với nhau, phải không? Nếu cùng ngồi trên xe điện ngầm mà hét vào tai
nhau là không giải quyết được gì hết. Thành ra phải ngồi dưới gốc cây,
uống trà với nhau, hay là trong phòng của mình, phải nhẹ nhàng thanh
thoát và tâm mình phải khá thanh tịnh thì mới có thể nói được. Cho nên
khi có nội kết mình không nên mời nó lên trong lúc mình không có sẵn
sàng.
Phần lớn chúng ta sợ nội kết, thành ra nó không lên được là sướng
quá, để quên nó đi, thôi nằm yên dưới cho rồi, lên chi cho cực khổ. Vì
vậy nên khi mời nó lên, điều kiện thứ nhất là chúng ta phải có đủ sức
khỏe, đủ sự trầm tỉnh. Nếu không, khi mời lên nó sẽ giết mình, nó làm
cho mình gục ngã, tại vì nó ghê lắm. Nếu nó là nội kết lớn thì chúng ta
phải rất cẩn thận. Vì vậy phương pháp của người tu là đừng đợi cho nội
kết lớn rồi mới lo giải quyết, nội kết còn nhỏ phải lo liền. Cho nên tôi
thường hay giảng cho những cặp vợ chồng mới cưới, là đừng bao giờ để cho
những nội kết lớn rồi mới đem giải quyết. Một buổi sáng nào đó trong
buổi tiếp tân, cô vợ thấy anh chồng nói một câu nào đó, chứng tỏ có một
cái gì bất ổn, có cái gì không thật, có cái gì đó không có làm cho cô ta
kính phục người chồng của mình. Cố nhiên là trong khi tiếp tân cô ta đâu
có hạch hỏi chồng được, vì vậy cho nên cô im lặng. Nhưng trong tâm cô ta
đã có cái chủng tử của sự không kính trọng chồng rồi, đó là một loại kết
sử, một loại nội kết, nó còn nhẹ nhàng lắm. Có thể sau khi tiếp tân xong
rồi cô ta lo bận rộn chuyện nhà, đôi khi hai vợ chồng phải tiếp tục đi
làm, hay là phải lo chuyện cơm nước thành ra không có thì giờ. Chính
chuyện không có thì giờ là một cái khuyết điểm lớn của nền văn minh mới.
Nền văn minh mới của chúng ta có chuyện bận rộn, khiến cho chúng ta
không có đủ thì giờ để sống và để quán sát sự sống của mình. Bận rộn ghê
gớm lắm, không có thì giờ để thở. Vì vậy, tu trước hết là để chống lại
cái đó, chống lại nếp sống bận rộn ở trong đời, để bắt đầu khôi phục
được chủ quyền của mình. Nếu không mình chỉ là một cái nút chai, nó trôi
bập bềnh trên mặt nước thôi. Nếu hai vợ chồng bận rộn quá như vậy, thì
những nội kết đó rơi xuống và không có thì giờ giải quyết, nó nằm yên,
thôi qua rồi. Nhưng lần thứ hai hay lần thứ ba cái đó xảy ra nữa và cái
nội kết ở trong lòng người đàn bà hay người đàn ông sẽ lớn hơn lên và cứ
như vậy mà sống, vì bận rộn quá thành ra không đề cập tới. Đến khi nó
lớn gần bằng cục nội kết của Trương Chi rồi thì không thể giải quyết
được nữa. Thành ra hai vợ chồng phải ly dị, hay là phải nghĩ tới những
chuyện tương tự như vậy. Khi có một hoặc hai đứa con rồi mà nghĩ tới
chuyện ly dị thì tội nghiệp cho những đứa con lắm. Mình đã làm tùm lum
ra rồi, tức là những cái nghiệp của mình đã trải ra rất là lớn. Nên nhớ
là khi mình có một hoặc hai đứa con như vậy, mình gởi nó đi vào trong
tương lai với những cái nội kết của nó, thì tội nghiệp vô cùng, không có
lòng từ bi. Tại vì không khí của gia đình trở thành ra địa ngục, mấy đứa
con của mình sống trong không khí đó vài ngày là đã có nội kết rồi,
huống hồ là nó sống năm này sang năm khác, và cái khổ đau nó truyền đi
từ kiếp này sang kiếp khác. Hôm trước tôi có nói rằng chấm dứt luân hồi
là chấm dứt cái đó, chấm dứt ngay trong giờ phút hiện tại. Vì vậy nếu
một cặp vợ chồng trẻ biết tu học thì cuộc sống hàng ngày cho có chánh
niệm, tức là khi có nội kết mình biết rằng có nội kết.
Trong kinh có nói: khi nội kết bắt đầu sanh thì mình biết rằng
nội kết bắt đầu sanh, khi nội kết đã sanh trưởng và đang lớn dần mình
biết rằng nội kết đã sanh trưởng và đang lớn dần, khi nội kết được tiêu
diệt mình biết là nội kết đang được tiêu diệt. Tức là chúng ta phải
ý thức được những gì xảy ra trong phạm vi nội kết. Trong kinh bảng chữ
Hán cũng như bảng chữ Pali đều nói rất rõ. Có những nội kết mà chúng ta
quên và nó có thể phát hiện, nhờ sống có chánh niệm nên chúng ta thấy nó
ngay. Và khi thấy được rồi, chúng ta biết sự có mặt của nội kết. Trong
thiền tọa mình đi về quá khứ, mình tìm tới gốc và mời nó lên. Trong
trường hợp đó chúng ta không cần phải có một ông bác sĩ tâm lý để giúp
mình. Phải nhờ bác sĩ là vì mình hoàn toàn không làm được gì hết. Nếp
sống có ý thức hàng ngày giúp mình nhận diện được đầu mối của nội kết,
dầu là một thứ nội kết đã được quên đi, đã được đàn áp, đã được đè nén.
Nguyên tắc đầu là đừng để cho nội kết lớn quá, để đến khi trào lên thì
nó chận đường, không cho mình tiếp xúc được với thế giới của thực tại,
những mầu nhiệm của thực tại, đồng thời nó làm cho mình thất điên bát
đảo. Nguyên tắc thứ hai là khi mình mời nội kết lên thì mình phải sẵn
sàng, mình phải biết rằng mình có đủ sức khỏe để có thể đối trị với nội
kết. Có trường hợp mình biết rằng mình đang yếu, mình chưa muốn mời chú
ta lên, nhưng chú ta cứ tự động tự mời lên, thì mình phải giải quyết như
thế nào? Nó khó lắm, chính những lúc đó mình cần tới tăng thân (sangha)
của mình, bạn của mình, đoàn thể tu học của mình, mình cần tới thầy.
Thầy cũng là tăng thân, bạn cũng là tăng thân. Mà bạn không phải tự
nhiên có được, bạn cũng do mình xây dựng ra.
Cũng như là cây thông, cây tùng, cây bách không phải tự nhiên có được,
mà là do mình trồng lên. Cây trong rừng cũng vậy, mình cũng phải bảo vệ
thì cây trong rừng mới sống được. Tăng thân tức là một công trình vun
tưới của mình và khi nào mình lâm vào tình cảnh khó khăn, thất điên bát
đảo thì mình phải cần tới chúng. Vì vậy cho nên có một tăng thân dễ
thương, có một tăng thân có thể yểm trợ cho mình là một hạnh phúc lớn.
Chúng ta không cần một tăng thân lớn, một cái nhỏ thôi, nhưng gồm những
người có thể im lặng đứng sau lưng trong lúc chúng ta khó khăn, đó là
điều quan trọng. Đôi khi người kia không cần làm gì hết, không cần nói
gì hết, người kia chỉ nhìn mình im lặng thôi, tới ngồi gần mình chừng
một giờ đồng hồ, cái đó cũng là một yếu tố rất tích cực của tăng thân.
Huống hồ là người kia có sự tươi mát, có sự hiểu biết. Sự tươi mát và
hiểu biết là hoa trái của sự tu tập.
Có những lúc mà nội kết trào lên, mình thấy là mình không sống được,
mình có thể tự tử bất cứ lúc nào. Chuyện này xảy ra ở đời nhiều lắm,
những lúc đó rất nguy hiểm, mình phải nghĩ tới một người bạn liền lập
tức. Dù cho vé máy bay có đắt bao nhiêu đi nữa, cũng phải mua liền để đi
tới với người đó, đây là đìều rất quan trọng. Không thể nói là bận quá,
không có thì giờ, tốn tiền nhiều quá… Vì nếu không thì mình sẽ chết. Nếu
mình có một tăng thân dễ thương, dầu cho có xa mấy ngàn cây số thì mình
cũng phải đi tới. Hoặc là không có tăng thân, ít nhất mình cũng có một
người bạn để có thể thổ lộ tâm tình. Có một người bạn ngồi một bên, mình
thấy rất đỡ khổ. Nói tóm lại là phải có một thực tại tươi mát, nó mầu
nhiệm đủ để thiết lập sự thăng bằng trong người của chúng ta. Tức là có
counter balance
- sự kiểm soát quân bình niềm đau ở trong lòng mình. Một ngày có hai
mươi bốn giờ đồng hồ, có những giờ chúng ta đi ngủ là những giờ khó
nhất, tại vì chúng ta không ngồi với bạn được. Nên nhớ rằng, đối với
những người đau khổ hai mươi bốn giờ đồng hồ là nhiều lắm, chịu không
nỗi. Hai mươi bốn giờ đồng hồ sống với sự lo sợ, sống với sự khắc khoải,
sống với sự khổ đau là nhiều lắm. Vì vậy cho nên khi mình có một người
bạn ngồi bên cạnh, tiếp xúc được với người bạn đó, tự nhiên mình thiết
lập được sự thăng bằng, mình sẽ đối xử với người bạn một cách dễ thương.
Sự có mặt của mình với người bạn tạo ra một thực tại như vậy, tạo ra
thăng bằng trong cơ thể và trong tâm lý của mình. Mình thấy dễ chịu hơn,
mình sống được: ngồi gần bên anh tôi thấy tôi có thể sống được.
Và khi một người bạn nói với mình câu đó, mình biết rằng, mình rất quan
trọng đối với người đó. Nếu trong cuộc đời có một người bạn như vậy thì
mình may mắn lắm. Thành thử mình đừng có tiêu diệt tình bạn của mình,
đôi khi mình tiêu diệt bạn của mình bằng những câu nói rất là vụng về,
hay là những hành động rất là vụng về. Bạn tức là cái kho dự trữ của
mình. Chúng ta cũng có thể viết một bài về bạn : bạn là kho dự
trữ của tôi, cũng như rừng là kho dự trữ của dưỡng khí. Anh cứ ngồi
với bạn anh, anh đi thiền hành với bạn anh, anh bàn bạc chuyện này
chuyện khác, chuyện gì cũng được. Nhưng thái độ khôn ngoan nhất là cùng
thực tập với bạn anh, một mình anh đi có thể anh không thấy được cái đẹp
của núi tuyết, nhưng cùng với bạn anh đi một bên, anh có thể thấy được
cái đẹp của núi tuyết đó. Cho nên thực tập với bạn là điều rất là quan
trọng, nếu người bạn này là một người biết tu. Nếu tới gần bên bạn để
nói chuyện chính trị, nó cũng khoẻ. Nhưng mình lại có ít ngày nghỉ thôi,
những ngày đó nó sẽ qua đi và mình trở về với trạng thái ốm yếu của
mình, ốm yếu về hạnh phúc, ốm yếu về tuệ giác. Cho nên những ngày ở với
bạn là những ngày thực tập với bạn. Tại vì chính những ngày đó mình lấy
vào được những chất bổ của sự tươi mát, của trí tuệ.
Thành ra điều thứ nhất phải đi tìm tới người bạn đó, thứ hai là phải
thực tập với người bạn đó. Phải lợi dụng thời gian bên bạn, thực tập để
gây thêm vốn liếng của sự tươi mát, tức là chúng ta phải cho chủng tử đi
vào, nếu không chúng ta sẽ trở về với nghèo khổ như xưa. Cũng như nếu
chúng ta thấy Làng Mai dễ thương, về Làng Mai được gặp các bạn trong mùa
Hè vui quá, rồi hết mùa Hè về lại trú sở của mình, nếu chỉ có vậy thôi
thì không có lợi ích mấy, tại vì chúng ta sẽ rơi trở lui vào trạng thái
trước mùa Hè, trước khi về Làng Mai. Cho nên khi về Làng Mai cùng với
các bạn, đừng chỉ vui chơi một cách cạn cợt, tức là phải thực tập với
bạn. Để khi rời bạn, rời Làng Mai, tuy rằng không còn bạn, không còn
Làng Mai nữa nhưng chúng ta vẫn có cái gì đó làm tư lương cho sự sống,
trong những tháng kế tiếp. Đó là con đường chúng ta phải đi theo. Đi tìm
con đường là chúng ta đi tìm sự ngọt ngào, sự tươi mát để thiết lập một
sự thăng bằng của tâm lý. Và nên nhớ là trong thời gian đó phải dự trữ,
phải thực tập, phải thấy được bông hoa, phải thấy được ánh sáng, phải
thấy được núi tuyết.
Theo kinh nghiệm của tôi thì có một con đường khác nữa, con đường này
ngược lại với con đường trước là con đường đi tìm sự tươi mát nâng đỡ.
Con đường này là đi tìm một sự khổ đau lớn hơn cái khổ đau của mình. Đi
tìm tới một chỗ mà người ta thật sự khổ đau, và trong sự tiếp xúc với
khổ đau đó mình thấy cái khổ đau của mình không có nghĩa lý gì mấy. Ví
dụ như chuyện tiếp xúc của tôi vào năm 1978 ở trên bờ biển Mã lai. Hồi
đó trên thế giới người ta chưa biết tới sự có mặt của thuyền nhân, chỉ
có Liên Hiệp Quốc biết sơ sơ, nhưng nó chưa trở thành một hiện tượng.
Đồng bào tới bờ biển Mã Lai hay là Thái Lan thường thường bị kéo ra
ngoài biển, đuổi ra ngoài cho chết. Tại vì mấy nước đó không muốn gánh
những gánh nợ vào thân. Tổ chức Liên Hiệp Quốc thì không có quyền nhiều,
việc làm hồi đó tắc trách lắm, nhưng chúng ta không thấy được. Lúc đó
tôi tìm ra được, khám phá ra được vấn đề thuyền nhân, cho nên tôi bí mật
tổ chức một chiến dịch để giúp thuyền nhân. Làm một cách bí mật, chương
trình này tiếng Việt gọi là chương trình : Máu chảy ruột mềm. Vì
biết rằng những chánh phủ ở đó không thích mình làm một cách công khai,
cho nên tôi mới đặt văn phòng bí mật ở Tân Gia Ba. Rồi tôi gởi những
người cộng sự như là chị Kirsten ở bên Hòa Lan. Chị Mobi người Mỹ, người
dịch cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức. Chị Chân Không, những người
thân tín được kêu tới để làm việc với tôi. Tôi có vào khoảng mười mấy vị
phụ tá như vậy. Chúng tôi thuê ba chiếc tàu để đi vớt đồng bào. Hai
chiếc, mỗi chiếc vớt vào khoảng ba bốn trăm, và một chiếc thứ ba để tiếp
tế lương thực, nước uống. Một số người được tôi gởi đi Thái Lan, một số
người được gởi đi Indonesia, một số người được gởi đi Malaysia.
Cách chỗ văn phòng của tôi độ chừng bốn trăm cây số về phía Bắc, gần bờ
biển Morson Malaysia, nơi đó có một lần chúng tôi được trực tiếp chứng
kiến chuyện đẩy thuyền ra khơi để cho chết. Một hôm đó người của mình
khám phá được một nơi, trong đó họ nhốt vào khoảng sáu mươi mấy thuyền
nhân. Những thuyền nhân đó đang đau khổ lắm, vì họ biết rằng trong vài
giờ đồng hồ nữa họ sẽ bị đẩy ra biển. Khi chúng tôi phát hiện ra họ thì
thấy rằng, những người đàn ông không có người nào nói chuyện hết, chỉ có
đàn bà với con nít khóc thôi. Đàn ông không nói chuyện được, vì họ không
thể ngờ rằng cái tình người ở trên trái đất này nó tệ như vậy. Họ ngồi
trừng trừng nhìn vào khoảng không, không nói được nữa, họ coi như là
không thể hiểu được, không thể tin được chuyện đang xảy ra cho họ là
chuyện có thiệt. Các bà kể rằng, họ tới bằng hai chiếc thuyền, mỗi
thuyền vào khoảng sáu chục người. Khi họ tới bến gần đó, thì cảnh sát
nói rằng: ở đây không có nhận thuyền nhân tị nạn, ở miền Singapore
người ta sẽ nhận. Và họ nói rằng hai thuyền phải đi ra, nhưng họ sẽ
giúp cho một ít dầu xăng và một ít nước uống, để có thể đủ phương tiện
đi về Singapore. Họ nói như vậy tức là nói dối, vì tại Singapore là một
xứ rất nghiêm khắc. Chính sách của Singapore đối với thuyền nhân rất tàn
nhẫn.
Tôi có
quen với một người làm về ngành hàng hải, ông là người Anh. Ông nói
chính sách của Singapore là khát máu, tức là những thuyền nhân khi tới
Singapore có thể bị thủ tiêu. Một là bị đẩy ra biển để chết, hai là giam
làm sao đó rồi cuối cùng không có ai biết nữa. Những ngư nhân lỡ vớt một
thuyền nhân ở ngoài biển đem về thì bị phạt, phạt rất là lớn, phạt sạt
nghiệp luôn, thành ra không ai dám làm. Trong thời gian tôi đang ở đó,
tôi lân la đi tìm tới ngư dân và làm việc bí mật với họ. Mỗi khi vớt
được một thuyền nhân thì họ cho mình biết, mình tới cúng dường cho họ
một số tiền để an ủi và mình bí mật chở thuyền nhân đó đi. Chở thuyền
nhân sống đi đâu? Phương pháp của tôi hồi đó là thầm chở họ trong ban
đêm, tới rồi bỏ họ vào trong khuôn viên của tòa đại sứ Pháp. Vì hồi đó
ông đại sứ Pháp tên là Jacques Gasseau, ông rất thương người. Bữa sáng
khi thấy thuyền nhân xớ rớ ngồi trên bãi cỏ, tức thì ông cho gọi điện
thoại đến police tới để chứng nhận rằng, đây là những thuyền nhân bất
hợp pháp, ghé vào đây và lúc đó thì cảnh sát sẽ bắt mấy người thuyền
nhân đó đem về trại giam. Và như vậy là những thuyền nhân đó được an
toàn. An toàn là vì những người này do tòa đại sứ cho biết tên và chứng
nhận. Thành ra những người đó sẽ không bị thủ tiêu.
Sự thủ tiêu có nhiều cách, trong đó có một cách là bỏ họ lên một chiếc
thuyền nhỏ và đẩy ra ngoài biển cho chết, dữ lắm. Nhờ phương pháp của
tôi làm như vậy và ông đại sứ đã làm cho bao nhiêu thuyền nhân theo kiểu
đó qua được nước Pháp. Đến khi phỏng vấn, ông phỏng vấn rất là dễ. Có
những nhân viên cho tôi biết, cách họ phỏng vấn rất dễ về tiếng Pháp,
cũng như những vấn đề này kia kia nọ. Điều này chứng tỏ rằng, trên đời
có nhiều người tốt và đời cũng đáng sống, không đến nỗi gì lắm. Nếu chỉ
có cái kia thì buồn quá.
Trở lại
chuyện khì gần Morson, mình khám phá ra cái thuyền với sáu mươi mấy
người. Họ nói rằng, khi nhận thêm dầu nhớt với thêm nước thì họ đi với
rất nhiều hy vọng, Họ đâu biết rằng Singapore là như vậy. Khi đi ra
ngoài thì có sóng gió và một trong hai chiếc thuyền đó bị đắm. Tất cả
đàn ông, đàn bà và con nít của chiếc thuyền đó chết ở dưới biển, trước
mắt những người đang ngồi trên thuyền này. Có khoảng bốn năm người đàn
ông bơi được vào bờ sống sót, nhưng sau đó không thấy những người đó
nữa. Không biết là họ đi về đâu, không ai tìm thấy gì được. Còn chiếc
thuyền này, khi thấy chiếc thuyền kia như vậy thì biết rằng không thể
nào đi được, thà rằng về bị giam ở đây thôi. Thành ra họ nhất định trở
lại bờ. Tới bờ rồi họ đục thuyền cho nó lủng, phá thuyền cho hư để không
có bị đẩy ra ngoài nữa. Khi đó cảnh sát tới và bắt giam họ, nhưng cảnh
sát làm việc theo chỉ thị phía trên, là cho thợ tới sửa chiếc thuyền và
độ trong ba giờ đồng hồ nữa thì thuyền sẽ sửa xong. Những người đàn ông,
đàn bà và trẻ con sẽ bị cho lên thuyền và đẩy ra như cũ. Đó là lời nói
của những người đàn bà, còn đàn ông thì không nói lời nào. Phương pháp
của tôi làm việc hồi đó là phải cho một người cấp tốc đi ra một thị trấn
gần đó, gọi điện thoại cho những hãng thống tấn như là AFP hay Reuters
và mời họ tới để thấy. Chúng tôi rất là mong họ tới trước ba giờ đồng hồ
và mình nói với họ, nếu họ đến sau thì sáu chục người này sẽ chết. Cho
nên có nhiều người họ thương và cũng muốn viết bài cho đàng hoàng thành
ra họ tới sớm. Họ tới sớm và ngồi đó. Đến khi cảnh sát ra thấy những
phóng viên, những ký giả của các hãng thông tấn lớn thì không dám đẩy
thuyền ra ngoài biển nữa, và những người đó được chính thức chấp nhận là
người tị nạn. Phương pháp làm việc là như vậy, không phải đi vớt rồi chở
về chỗ này hay chỗ khác mà thôi.
Khi chúng ta tiếp xúc được với những cái khổ đau như vậy rồi, chúng ta
có thể thấy rằng những khổ đau của mình do sự ganh ghét, do sự buồn
phiền, do sự thù hận nó không có nghĩa nữa. Nếu chúng ta có được một
chút năng lượng, một chút sức lực của tâm linh hay là của thân thể,
chúng ta phải đem ra để phụng sự cho những việc khổ đau, tự nhiên cái
đau của mình sẽ nhẹ đi và đây là một điều rất là có thể. Trong trường
Thanh niên phụng sự xã hội cũng vậy, các em làm việc rất giỏi. Mỗi khi
có một thiếu nữ, hay một thanh niên nào lâm vào tình trạng tâm lý khổ
đau, các em tới với tôi, tôi nói : bây giờ con nên đi làm tác viên xã
hội. Các em tìm thấy trong con đường phụng sự một liều thuốc rất là
hữu hiệu để đối trị với những khổ đau của mình. Những điều tôi giảng là
những điều có gốc rễ từ sự thực tập. Trong trường hợp có một nội kết lớn
trào lên như vậy, thì chỉ có ba con đường: con đường thứ nhất là mình
đối trị được nó, khi mình mạnh. Con đường thứ hai là vì mình yếu quá,
mình phải tìm tới một người bạn, với đại chúng trong tăng thân.
Và con đường thứ ba là tìm tới những người khổ hơn mình, tìm tới địa
ngục. Khi Bồ tát Địa Tạng vương tìm tới địa ngục có lẽ ngài cũng có nội
kết, nhưng sau khi đã phụng sự chúng sanh rồI, cái nội kết của ngài tan
đi. Tất cả, Địa Tạng Bồ tát và chúng ta, Đức Quan Âm cũng vậy, các vị
không phải là những thực tại tách biệt, trong chúng ta mỗi người đều có
Địa Tạng Bồ tát, đều có Quan Âm Bồ tát. Chúng ta chỉ cần cho Đức Địa
Tạng và Đức Quan Âm trong ta một cơ hội thôi, đó là sự tu học. Vì vậy
khi đi thiền hành mà không tiếp xúc được với nắng mai, bông hoa mặt trời
như trái tim đỏ tươi thì quý vị biết mình nên làm gì rồi: mình nên biết
rằng bạn tu rất là quý, cho nên gọi viên ngọc thứ ba shanga là như vậy.
Bụt hay lắm, không những Bụt là một viên ngọc, Pháp là một viên ngọc và
Tăng cũng là một viên ngọc. Với điều kiện tăng phải là chân tăng, tức là
những người có tu học thật, những người có sự tươi mát. Nếu nộI kết còn
ngủ ở trong, mai mốt đôi khi nó có chất liệu để lớn lên trở lại. Nhưng
khi nó còn tùy miên thì mình có thể tu tập dễ dàng hơn, nó không khó
khăn, không nguy hiểm như trong trường hợp trước. Có hai phương pháp,
phương pháp thứ nhất là mời nó lên, phương pháp thứ hai là cứ để nó ở
dưới đó và gởi tới cho nó những người bạn.
Phương pháp của phân tâm học là phải mời nó lên, phải ý thức được
những niềm đau, những nội kết của mình. Phải làm cho bức tường che giữa
id và cái ego nó phún ra,
để cho có sự thông thương thì nó nhẹ đi. Vì vậy các bác sĩ tâm lý thường
hay bảo mình là ngồi lại, và viết ra cho hết những điều gì hồi còn nhỏ.
Hồi anh ba tuổi anh làm gì, má anh nói gì, những bão tố trong gia đình
xảy ra như thế nào. Lúc đó anh ngồi ở đâu, má anh ngồi ở đâu, ba anh
ngồi ở đâu, chị anh ngồi ở đâu. Ngồi tưởng tượng, hồi tưởng lại hết và
nhớ, nhớ tới đâu thì viết tới đó, trong trường hợp mình không có thì giờ
ngồi nói chuyện với ông phân tâm học. Ngồi với ông tốn tiền lắm, cho nên
ngồi viết tốt hơn. Mình viết ra hết và càng viết nó càng trào ra, những
điều thấy vô ích mình cũng cứ viết, nhớ được chi tiết nào thì viết chi
tiết đó. Đó là phương pháp của phân tâm học mới. Những cái đó mình có
thể làm được, ngồi ghi chép lại. Cái đó không phải là đánh mất mình
trong quá khứ, kỳ thực là mình về để tìm lại hồ sơ.
Đó là tầm từ và cũng là một lối tu.
Thứ hai
là chúng ta thực tập để tạo ra những chủng tử tươi mát, và gởi nó xuống
trong chiều sâu của tiềm thức. Tức là chúng ta có bạn, có thầy, có nắng,
có hoa, có hiện tượng, có nụ cười, có câu niệm Bụt, có thiền hành. Rồi
chúng ta đưa vào trong mình những chủng tử, những hạt giống đẹp tươi
mát. Những hạt giống đó sẽ đi vào vây quanh những nội kết kia, và sẽ làm
công việc trị liệu một cách âm thầm mà mình không cần phải biết. Rồi một
ngày đó nội kết sẽ tiêu tan, nó tiêu đi mà mình không biết.
Như là ngày xưa, tôi có kể chuyện về những năm đầu bị lưu đày. Khi tôi
đi ra nước ngoài làm việc và không được trở về quê nhà. Trong lúc ở bên
ngoài tôi cũng có công việc cho bên nhà. Những thời gian đó tôi cũng có
thể viết sách, có thể đi dạy học, có thể vận động viện trợ cho viện đại
học Vạn Hạnh và trường Thanh niên phụng sự xã hội. Thành ra tuy ở ngoài
mà vẫn làm việc được ở trong. Trong những năm đầu tôi hay nằm mơ thấy
mình trở về Phương Bối, mà giấc mơ đó không thành, mộng không thành !
Tức là gần tới nơi thì có một trở lực gì nó khiến cho mình trở về với
thực tại. Cái thiên đường của tôi được tượng trưng cho thời làm chú
tiểu, leo lên trên cây để hái bồng quân rồi ném xuống cho chú tiểu khác.
Tuy rằng cuộc sống trong chùa cực khổ về vật chất nhưng nó vui lắm, nó
là một thế giới của lý tưởng, của thương yêu. Thành thử khi nằm mơ là
trở về khu đồi của tuổi thơ, với mấy chú tiểu nhỏ mà mình thương như là
em ruột của mình. Đi trở về quê hương, nghĩa là trở về cái đồi quê hương
tuổi nhỏ. Giấc mơ đó lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng mỗi lần như vậy đều
thất bại, không về được là vì có một trở lực gì đó. Nhưng mà tôi vẫn tu,
hồi đó vẫn tu rồi quán tưởng trong khi mình đi thiền hành, trong khi
mình làm việc, đi tới đâu là tu ở đó. Vì vậy mình thấy được quê hương
của mình là cả trái đất, không phải chỉ là một khu đồi. Dần dần những
giấc mơ đó không xảy ra nữa, tức là cái nội kết tự nhiên hết. Đó là do
sự thực tập tiếp xúc và nhận ra rằng, quê hương của mình là mọi nơi chứ
không chỉ một chỗ. Nội kết đó không cần phải giải quyết, mà tự nó đã
được giải quyết. Cũng như khi mình bị một con vi trùng xâm nhập vào cơ
thể, tuy rằng mình không ra lệnh để trị con vi trùng đó, nhưng những
kháng thể của mình nó biết, nó tới bao quanh con vi khuẩn cô lập và
chuyển hóa con vi khuẩn đó. Nếu con người của mình sống mạnh khỏe, không
có bệnh là nhờ những kháng thể đó chứ không phải tại mình giỏi. Nếu
không có sức đề kháng trong ngườI, mình sẽ bị nhốt vào trong một nhà
kiếng, mình không được ra ngoài, nếu không thì vi trùng tấn công mình
chết liền lập tức.
Những chủng tử chúng ta đưa vào trong khi tu học là những cái chủng tử
lành, những chủng tử thiện. Vô lậu tới bao quanh, nó chăm sóc, nó trung
hòa những chủng tử của khổ đau, những nội kết nặng nề, vô minh của mình.
Phương pháp đó là phương pháp làm giàu, tu là làm giàu cho a-lại-da của
mình với những chủng tử của sự an lạc. Vì vậy cho nên tu là một cách để
sống cuộc đời có hạnh phúc. Không phải tu là chịu cực chịu khổ để mua
lấy một cái hạnh phúc ở tương lai. Thường thường nhiều người cứ nghĩ
rằng, tu tức là mở một trương mục tiết kiệm để xài sau khi mình chết. Vì
vậy cho nên đánh đổi hiện tại để lấy tương lai, chịu cực khổ ngày này,
hôm nay để ngày sau có hạnh phúc, và đó là thiên đường. Còn phương pháp
tu theo đạo Bụt cho chúng ta thấy rằng, nếu chúng ta học Bụt cho sâu thì
chính mình phải sống ngày hôm nay cho an lạc. Ngày hôm nay an lạc sẽ bảo
đảm ngày mai cũng an lạc. Điều đó Bụt nói rất rõ: có những người tu,
họ làm cho ngày nay không an lạc thì ngày mai cũng khổ luôn, đó là tu
khổ hạnh. Tu khổ hạnh làm cho thân xác bệ rạc ngày hôm nay, cố nhiên
ngày mai cũng sẽ khổ lắm. Có những người làm cho an lạc ngay bây giờ và
cho ngày mai nữa, đó là phương pháp của Bụt vậy.
Duy thức – Duy biểu
Các nhà học giả mới đây ở Trung Hoa thấy rằng, chữ Duy thức không hay
lắm, tôi cũng thấy như vậy. Trước kia mỗi khi nói theo Duy thức về danh
từ biến, chúng ta có cảm tưởng là không có cái gì thiệt cả, là vì
tất cả đều do thức của mình biến ra, như là phù thủy. Vì vậy chữ biến
không hay lắm, chữ thức cũng không hay. Cho nên chúng ta phải duy tân
Duy thức học, không phải làm một mình, mà làm với những nhà học giả
khác. Trước hết chữ thức là dịch từ chữ
vijnana của tiếng Phạn. Chữ vi có nghĩa là một cái gì
riêng ra, khác nhau, như là một đối tượng vậy. Còn ở phần này có nghĩa
là biết, hiểu, do đó chữ này dịch là thức, điều này không còn gì để nghi
ngờ. Nhưng khi nói về Duy thức thì lại không dùng chữ
vijnanamatra, mà dùng chữ
vijnaptimatra. Duy thức tánh là
vijnaptimatrata. Như vậy là có một sự khác biệt giữa chữ
vijnana và
vijnapti. Trong nguyên văn của thầy
Vasubandhu thì Duy thức là
vijnaptimatrata, không bao giờ nói là
vijnanamatrata. Chữ
vijnapti có khi cũng được dịch là thức, nhưng nghĩa chính
của nó là sự biểu hiện. Thành ra
vijnapti có nghĩa thường của nó là biểu hiện, là
manifestation. Vì vậy dịch cho đúng là Duy biểu luận. Tức là vũ
trụ này, đối tượng của thế giới này, đối tượng nhận thức của chúng ta là
do a-lại-da thức phát hiện ra, biểu hiện ra. Sự biểu hiện có nghĩa là
như vậy, có nghĩa là manifestation. Chữ Duy thức là của thầy Huyền Trang
dịch, nhưng chữ
vijnapti có khi tôi dịch là biểu. Ví dụ như là sắc, tức là
rupa, tức là hình thể vật chất. Nó có hai loại sắc, một là biểu
sắc tức là
vijnapti
rupa,
tức là những hình sắc mà chúng ta có thể thấy được. Ví dụ như vàng,
xanh, trắng, tròn, dài, lớn nhỏ gọi là biểu sắc. Còn sắc mà chúng ta
không thấy được, nhưng nó có mặt, ví dụ như là một điện tử. Chúng ta
không thể nào thấy được điện tử, nhưng tất cả các nhà khoa học đều nói
rằng, điện tử có mặt. Như là trong kinh thường nói: mỗi khi mình thọ
giới xuất gia, hay là thọ giới tam quy, thì trong người mình có một cái
gì mới, mà cái đó mình không thấy được. Cái mới đó có cái tác động trên
đời sống của chúng ta, vật chất và tinh thần nhưng chúng ta không thấy
được, cái đó gọi là vô biểu sắc. Chính thầy Huyền Trang cũng dịch là
biểu, nhưng tại sao chỗ này dịch là thức, có lẽ là cho nó giản dị. Thành
ra chữ Duy thức làm cho người ta tưởng tới duy tâm của triết học Tây
phương. Mà duy tâm là một lý thuyết nói rằng: thế giới hiện tại không có
thiệt, là do chúng ta tưởng tượng ra mà có. Điều đó không phải là không
có trong Duy thức học, nhưng mà nó khác. Tại vì chữ tâm trong đạo Bụt
không giống chữ tâm ở ngoài. Chữ tâm ở ngoài chỉ là ý thức thôi, ý thức
hay là một phần của a-lại-da thức, tức là phần của độc ảnh, hữu chất độc
ảnh. Từ nay về sau có thể sẽ dùng theo tân dịch, là Duy biểu luận.
Vijnapti là cái biểu hiện từ thức, nó có tính cách đối tượng hơn
là chủ thể.
Vijnana có thể gọi là năng và
vijnapti có thể gọi là sở. Người ta không dịch thẳng như vậy,
nhưng trong ngữ nguyên học thì nó hàm chứa cái ý đó. Do đó một số các
nhà trí thức ở Trung Hoa bây giờ dịch
vijnapti là biểu biệt, tức là biểu hiện ra để có thể được
nhận thức. Ở đây cũng có ý về thức ở trong đó, nhưng nó còn có thêm cái
ý về sự biểu hiện ra nữa. Ví dụ thế giới này là một biểu hiện của thức,
trong đó dùng chữ
vijnapti mà không phải là chữ
vijnana.
Thành ra biểu hiện ra là để có thể được nhận thức. Có nhiều tự điển dịch
prasati là
making non, nó là cái nghĩa đó. Vì vậy cho nên Duy biểu luận hay
hơn danh từ Duy biểu học. Trong chữ biểu có hàm ý nghĩa của thức trong
đó, biểu lộ ra để được nhận thức và nghĩa của nó là biểu biệt. Còn chúng
ta dùng chữ biến trong văn mạch là tự biến và cộng biến. Chúng ta có thể
sửa lại thành ra tự biểu và cộng biểu. Một
manifestation collective của tất cả các thức, hay là một
manifestation có tính cách
individual (riêng biệt) của a-lại-da thức.
Biểu tức là biểu hiện, một sự biểu hiện cộng đồng và một sự biểu hiện
riêng biệt. Nó sẽ ít gây ra sự hiểu lầm hơn danh từ tự biến, cộng biến
hay là duy tâm, duy thức. Chúng ta thường gặp trong kinh điển những danh
từ về tâm thức khá nhiều và sự sử dụng nó cũng không đồng nhất với nhau,
nó có ba chữ là tâm, ý và thức. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng, tam giới
duy tâm, có nghĩa là ba cõi từ tâm mà phát hiện, chữ tâm đó chỉ có nghĩa
là a-lại-da thôi. Tại vì a-lại-da có tính cách nền tảng, chính từ nơi đó
nó được biểu hiện ra thế giới và căn thân. Thế giới là khi thế gian, còn
căn thân là tình thế gian. Căn thân cộng với thức là tình thế gian. Bảy
thức kia trong đó có ý tức là thức thứ bảy là
matna. Thức này tức là
visaya vijnapti, là biểu biệt cảnh hay là liễu biệt cảnh. Liễu
biệt cảnh là dịch theo lối cũ. Vì vậy tâm tức là thức thứ tám, ý là thức
thứ bảy và thức tức là sáu thức trước. Tất cả bảy thức này đều được
chuyển hiện từ thức thứ tám, cho nên gọi là chuyển thức. Chuyển hiện từ
đó mà được phát sinh, biểu hiện ra. Chuyển thức có bảy cái, còn anh
chàng thứ tám gọi là bản thức,
mulavijnana, mula tức là cái gốc. Có lẽ mình nên giảng là, chữ
duy thức là cựu dịch, còn chữ duy biểu là tân dịch. Cũng như chữ Quán
Thế Âm là cựu dịch, còn Quán Tự Tại là tân dịch. Thay vì nói tự biến
cộng biến, mình có thể nói là tự biểu cộng biểu. Phương pháp thực tập
thiền quán của Bụt, là quán sát những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện
tại một cách rất là thanh thản, không xua đuổi cũng không vồ vập đón
tiếp. Ví dụ như chúng ta phải nhận diện được cái giận, cái buồn, hay là
cái vui khi nó xảy ra. Chúng ta nhận diện một cách đơn thuần thôi, đừng
đưa tới sự xét xử, ghét bỏ hay là ước muốn vào trong đó. Nhận diện đơn
thuần tức là không đưa cái tư dục, không đưa sự giận hờn của mình vào
trong đó. Khi cái giận phát hiện thì mình nói đây là cái giận, mình đừng
nói: trời ơi tức quá tại sao mình giận, tức là mình giận cái giận
của mình. Đó không phải là phương pháp hay. Cái vui xảy ra thì mình nói
đây là cái vui thôi, tức là đừng phán đoán vào, đừng lên án và cũng đừng
khen tặng nó, phải để cho nó là nó. Phương pháp này rất hay, nó làm cho
mình không đè nén mình. Nếu có một cái gì nó phát hiện ra mà mình đè
nén, mình chê trách, tức là mình đã làm công việc giúp cho sự ẩn ức càng
ngày càng mạnh. Cho nên phương pháp thiền quán của chúng ta rất hay, nó
có khả năng nhận diện đơn thuần về những cái đang xảy ra. Đối với người
khác cũng vậy, người đó làm cái gì, hay là nói cái gì thì ban đầu chúng
ta nhận diện là người đó nói cái đó, làm cái đó. Đừng đưa sự phán đoán
của chúng ta vào đó. Chúng ta đưa vào đôi khi không có thấy được cái nội
dung, cái bản chất của nó. Chúng ta chỉ đi tìm tại sao người đó nói cái
đó, làm cái đó thôi. Chúng ta đừng có làm ông tòa ngay. Chúng ta nhận
diện đơn thuần nó, nếu thấy hơi ngạc nhiên thì chúng ta đi tìm nguyên
do. Tìm được nguyên do rồi thì chúng ta nói là nó xảy ra như vậy là tự
nhiên, tại vì có những cái gốc rễ như vậy. Nhờ vậy tình thương mới có
thể có được.
Kỳ sau chúng ta sẽ học về tam tánh, tức là y tha khởi
tánh, viên thành thật tánh và biến kế sở chấp tánh. Và đây tức là phương
pháp học của Duy thức, phương pháp quán của Duy thức.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường. |
|

...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực
tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn
nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...)
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có
thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ
hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang
nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (...)
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các
nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc
thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới,
tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu
hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên
hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|