Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ
Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày
|
DUY THỨC HỌC
1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
|
7
|
8
|
9
|
10 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|
20
|
21
|
22
|
23
|
24
|
25
|
26
|
27
|
28
|
29
|
30
Ví dụ như tin rằng, sau khi chết không còn gì nữa, là một thái cực. Hoặc
là sau khi chết còn y nguyên, đó là một thái cực khác gọi là biên
kiến. Tà kiến tức là những nhận thức mà chúng ta
cho là chân lý, nhưng kỳ thực là nó sai lầm. Ví dụ như vô thường mà
chúng ta cho là thường, vô ngã mà chúng ta cho là ngã, đó là tà kiến.
Kiến thủ kiến tức là chúng ta kẹt vào những kiến thức của
chúng ta. Chữ kiến đầu là kiến thức. Ví dụ như chúng ta đọc được một
cuốn sách hay quá, chúng ta cho đó là chân lý tuyết đối. Đến khi gặp một
người nói ngược lại, chúng ta nhất định không chịu, nói rằng: những điều
anh nói là sai. Nếu chúng ta bị thái độ đó thì gọi là kiến thủ kiến. Nó
ngăn chặn con đường tiến thủ của chúng ta. Chúng ta phải vượt qua cái
kiến thức của chính mình.
Thứ năm là giới cấm thủ kiến, tức là những điều mà
chúng ta kiêng cử. Chúng ta cho là, nếu không kiêng cử như vậy sẽ đau
khổ, sẽ trái với chân lý. Trong bất cứ dân tộc nào cũng có sự thờ phụng
riêng như vậy. Ví dụ như cái bình vôi đầy rồi, nhưng chúng ta không thể
vứt được vào thùng rác. Tại vì bình vôi thiêng liêng, phải đem ra để
ngoài gốc đa. Hay là không được đi tiểu chỗ này, chỗ kia. Hay là không
được ăn thịt bò. Ăn thịt con dê thì không có tội, nhưng ăn thịt con bò
lại có tội, tại vì con bò là một biểu tượng gì đó... Những cái đó là
những giới cấm thủ và làm mình kẹt vào nó. Ví dụ như nói rằng: mình phải
thờ tế Nam Giao, nếu không tế Nam Giao thì sẽ mất mùa. Mình không giết
trâu, giết bò lấy máu để tế thần thì lụt lội, hạn hán. Những cái đó gọi
là giới cấm thủ.
Nội kết cũng là chủng tử, nó là những chùm chủng tử. Hoặc là những chủng
tử mạnh, nó có tác động lớn vào hạnh phúc hay là đau khổ của chúng ta,
gọi là nội kết. Ví dụ như mình có chủng tử của cái giận ở trong mình, hể
khi nghe đến cái tên đó là đùng đùng nổi giận lên, hiện hạnh, đó là một
chủng tử mạnh. Có nhiều chùm chủng tử, nó thành một khối thì người ta
gọi là nội kết cho dễ. Hai thứ đó không phải là hai, cũng không phải là
một.
Ví dụ như có một anh Ph. muốn giết mười người khác, nhưng có một người
đứng ra giết anh Ph. để cứu mười người kia. Nếu nói đến quả thì dĩ nhiên
người đó đã mang tội sát nhân vì đã giết anh Ph. Trên nguyên tắc của
nhân quả thì người đó đã cứu được mười mạng người, nhưng đồng thời người
đó đã sát nhân một mạng người. Khi quả nó tới, có thể là người đó cứu
được mười người mà giết một người, thì người đó còn lại chín điều thiện.
Đây là một con số ví dụ thôi: Người đó được hưởng mười quả lành nhưng
phải trả một quả ác. Chủng tử ác đó có thể bị tiêu diệt, hay là nó phải
trổ ra cái quả đó. Nếu thành dị thục thì nó hòa chung. Ví dụ như sư cô
để vào trong ly nước một giọt nước đỏ, một giọt nước đen. Nó sẽ thành ra
giọt nước không đỏ, không đen. Cái đó là dị thục của nó.
Phiền não tức là klesha, trong ngôn ngữ ở đời có nghĩa là buồn phiền.
Nhưng chữ phiền não trong đạo Bụt, trong Duy thức có nghĩa là những sợi
dây ràng buộc, những độc tố klesha. Phiền não có tác dụng ràng buộc, có
tác dụng đầu độc, có tác dụng che lấp, bít lấp. Chúng ta đã học những
phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Bây giờ chúng ta học tới
những phiền não phụ thuộc, gọi là tùy phiền não. Tùy là đi theo,
là tùy thuộc phiền não.
Tùy
phiền não
Phẫn
tức là sự phẩn nộ, là giận. Nó khác với sân, sân là căn bản hơn, còn
phẫn này là một sự bất bình, một sự phẫn nộ.
Tiếp đến là hận, hận cũng là giận, nhưng cái giận này có
tính cách thầm bên trong, nó kéo dài ra và lặng chìm. Tôi hận anh đó,
tức là mình giận anh đó, mà cái giận có vẻ chìm ở trong. Còn phẫn có vẻ
mạnh và nó bộc phát ra ngoài, phẫn có khi đọc là phận.
Phú
có nghĩa là che: hữu phú, vô phú. Tâm sở này tuy nói rằng tùy phiền não,
nhưng nó cũng ghê lắm. Vì nó che nên chúng ta không thấy được những gì
bên trong. Tất cả những cái đẹp, những cái hay, những cái dễ thương
chúng ta đều không thấy, chỉ thấy cái xấu thôi. Đeo một cặp kính màu đen
rồi không thấy được những cái đẹp, những cái hay nữa.
Não
là cái buồn, nỗi buồn, sự sầu não, cái bực bội.
Tật
là sự đố kỵ, ganh ghét. Thấy người kia thành công mình không thích, mình
phải thành công bằng họ, mình phải thành công hơn thì mới được. Từ tâm
sở này nó đi tới những cái tâm sở khác và những cái hành động rất là
không dễ thương.
Xan
là sự keo kiệt.
Cuống
có nghĩa là giả dối.
Xiểm
là dua nịnh.
Hại
là ý muốn, khuynh hướng muốn làm cho người kia khổ.
Nói một câu xóc óc, hoặc làm cho người kia thất bại, hư đi, bị thương
hoặc là chết cho khuất mắt. Gọi là hại, tức là ngược với bất hại -
Avihimsa.
Kiêu
tức là có tính cách khoe khoang, có tính cách cho mình là hơn người ta.
Kiêu mạn, bản chất của nó nhẹ hơn là mạn, là kiêu căng, là tự đắc.
Vô tàm,
cái này dễ quá, tức là không có tàm, không biết xấu hổ.
Vô quí,
chữ quí học rồi. Tàm tức là thẹn với tự mình, còn quí là hổ với người.
Vô tàm ngược với vô quí.
Trạo cử
tức là động, nhất là trong ý nghĩ. Trong Nam gọi là lao chao, là không
yên. Cái thân của mình ngồi không yên, gọi là trạo cử về thân. Còn cái ý
của mình không yên, gọi là trạo cử về ý. Đây là một kẻ thù của định.
Hôn trầm
là một trạng thái có thể
xảy
ra trong khi ngồi thiền. Hôn trầm có tính cách hôn ám, buồn ngủ, trầm
tức là chìm xuống, hôn là không có sáng suốt. Hôn trầm tức là ngược lại
với trạo cử. Trạng thái mà chúng ta muốn là nó nằm giữa hôn trầm và trạo
cử. Nó có sáng suốt, nhưng không có lăng xăng. Tức là trạo cử có thể
phát sinh từ một sự kích thích. Ví dụ như mình có một ý định hay quá,
mình muốn đứng dậy làm liền và nó không cho mình ngồi yên, thì cái đó
cũng là trạo cử. Còn hôn trầm là cái ngược lại, là mình ngồi yên quá cho
đến nỗi mình buồn ngủ, một trạng thái buồn ngủ và nặng trĩu xuống. Hai
cái đó đều là hai căn bệnh của thiền tập.
Các thầy dạy là: khi nào trạo cử thì tập trung cái ý của mình ở nơi
rốn, để tâm mình ở nơi rốn và thở thì nó xuống. Có lẽ là chúng ta để
ý tới chỗ nào thì máu dồn về chỗ đó, thành ra máu không ở trên đầu
nhiều, sự kích thích ở trên đầu sẽ bớt đi. Vì vậy khi bị trạo cử thì
nhiếp tâm vào chỗ rốn của mình và thở thì nó xuống. Còn khi hồn trầm
thì lại đưa lên, đưa cái tâm mình lên chỗ mũi, tập trung ở chỗ mũi thì
máu nó đưa lên. Đó là kinh nghiệm của nhiều thầy.
Giải đãi
là làm biếng, không có gì khác hơn.
Bất tín
là không có niềm tin, ngược với tâm sở tín. Chúng ta có đức tin rằng sẽ
thành công, hay là không có đức tin nơi khả năng thành tựu của mình. Có
đức tin ở nơi giáo pháp mà mình đang thực tập, con đường mình đang thực
tập, hay là không có đức tin ở nơi thầy mình. Đức tin này là có những cơ
sở để dựa lên, không phải như đức tin tôn giáo.
Vậy thì tín là một tâm sở thiện, bất tín là một tâm sở bất
thiện, nó là tùy phiền não.
Phóng dật
nghĩa là buông lung. Phóng tức là buông ra, thôi kệ, không nắm lấy chủ
quyền của thân tâm mình.
Thất niệm
là mất chánh niệm. Chánh niệm là nhớ, thất niệm là quên. Mình
quên là không biết đang làm gì, nói mà mình không biết là nói gì, sân mà
không biết là mình có sân, tham mà không biết là mình có tham.
Tán loạn
tức là không có định.
Bất chánh tri
tức là một sự hiểu lầm, mình hiểu nhưng là hiểu lầm.
Mình cho
là mình biết, mình cho là mình hiểu, nhưng đó là một bất chánh tri.
Hai mươi
phiền não này gọi là tùy phiền não. Tùy phiền não tức là những phiền não
phụ thuộc.
Các thầy ngày xưa chia ra làm ba loại là: tiểu tùy, trung tùy
và đại tùy. Tiểu tùy tức là mười cái đầu, phạm vi của nó hẹp
hơn. Vô tàm, vô quí là trung tùy. Và tám cái có phạm vi lớn hơn, quan
trọng hơn nên gọi là đại tùy. Tất cả năm mươi mốt tâm sở đều có hạt
giống ở trong A lại da thức của chúng ta. Những hạt giống đó có thể là
được gieo vào trong thời gian hiện tại, tức là thời gian từ khi chúng ta
sinh ra cho đến bây giờ. Có thể là nó được gieo vào nơi cha mẹ mình
trước, rồi truyền lại cho mình.
Chủng tử bản hữu
Trong Duy thức chúng ta phân biệt hai loại hạt giống, một loại hạt giống
có sẵn gọi là chủng tử bản hữu. Bản hữu nghĩa là nó tự có,
nó vốn có sẵn. Thành ra đôi khi tánh tình của chúng ta, cái đẹp hay cái
xấu của chúng ta đã có sẵn từ trước. Nó có trong những nhiễm thể (ADN)
do cha mẹ và ông bà truyền lại. Chính bệnh điên loạn cũng có thể do được
di truyền lại. Có những lúc mình không điên, có lúc mình điên ít, có lúc
mình điên nhiều. Tùy thuộc điều kiện mà nó phát sanh, hoặc không phát
sanh. Nói như vậy có nghĩa là, cha mẹ của mình là một thứ kiếp trước của
mình, ông bà của mình cũng là một thứ kiếp trước của mình. Trong dòng họ
của mình là sự liên tục như một dòng sông. Những cái đi sau nó ảnh hưởng
từ những cái đi trước và mình thấy rằng: cha mẹ mình không phải có những
cái ngã hoàn toàn biệt lập với mình. Vì vậy ý niệm về vô ngã càng rõ hơn
nữa, mình là sự tiếp nối của cha mẹ, nhưng mình cũng có những yếu tố
khác với cha mẹ. Luôn luôn nó có những yếu tố đi vào và luôn luôn có yếu
tố đi ra. Thường thường chúng ta nghĩ rằng, sự sinh tử của mình được
diễn biến trên một chiều như là một tờ giấy. Nếu chúng ta vẽ một đường
từ bên này sang bên kia, chúng ta nói chỗ này là chỗ mình sanh, chỗ này
là chỗ mình diệt. Thường thường chúng ta nghĩ: tôi đi qua cuộc đời,
là như vậy. Có một cái tôi, nó có ngã, tức là một cái tôi lúc này với
cái tôi lúc khác là như nhau. Nhưng trên sự thật thì điều này không
đúng, là vì cái tôi khi mới sinh ra với cái tôi lúc mười tuổi khác nhau
nhiều lắm. Khi tôi tám mươi lăm tuổi, tôi có vẻ lẩm cẩm thì tôi khác với
cái tôi lúc mười tám tuổi lắm. Khi chúng ta lấy tấm hình của mình lúc ba
bốn tuổi ra coi, mình không thấy đó là mình, mình thấy đó như là một cái
ngã khác, một cái tôi khác. Cho nên tuy rằng có một sự liên tục, nhưng
trong đó không có một thực thể bất biến đồng nhất, cái đó gọi là vô ngã.
Có một ông nói với tôi rằng: ba của ông ta ngày xưa toán giỏi lắm, tính
miệng rất là giỏi, không cần máy tính gì cả. Bây giờ đây tám mươi lăm
tuổi rồi, năm với bảy là bao nhiêu ông đếm cũng không được. Từ đó chúng
ta thấy rằng: giữa người làm toán rất là giỏi với người lẩm cẩm đó,
chúng ta thấy có sự khác nhau, nó không phải là một nhưng cũng không
phải là khác.
Đó là ý niệm về phi nhất phi dị trong đạo Bụt. Phi dị tức
là không khác.
Dị là
khác, không phải là hai, nhị mới là hai. Không phải là một mà cũng không
là cái khác. Đó là cái thấy mà đạo Bụt muốn trao truyền cho chúng ta. Ta
hồi năm tuổi với ta lúc mười tuổi không phải là một, cũng không phải là
hai cái khác nhau, tại vì nó có một dòng liên tục.
Dòng sông hôm qua với dòng sông hôm nay cũng trong ý nghĩa như vậy.
Chúng ta biết rằng, khi được sinh ra đây thì chúng ta tiếp tục lên
đường. Chúng ta lên đường thì có những yếu tố đi vào: ví dụ như sữa, như
là tình thương của mẹ, như là không khí, như là rau… Nó có những cái mà
bây giờ gọi là input, là những điều kiện. Nhưng đồng thời với những điều
kiện, nó hội tụ lại để cho mình tiếp tục, mình cũng phát ra những yếu tố
khác có ảnh hưởng tới những người khác. Ví dụ như là an lạc, hạnh phúc
hay là sầu não của một em bé, nó ảnh hưởng tới cha mẹ và xã hội của
những người chung quanh. Thành ra ngoài những cái đi vào, nó có những
cái đi ra, gọi là những output. Bây giờ chúng ta nhìn lại mình, ví dụ
như chúng ta sống ở trong một cộng đồng mười người hay mười hai người,
mỗi ngày chúng ta đều tiếp nhận cái buồn, cái vui, cái dễ chịu, cái khó
chịu của những người khác. Mình tiếp nhận không khí, mình tiếp nhận rau,
mình tiếp nhận đủ hết. Nhưng đồng thời chúng ta cũng chia sẻ cái ở trong
mình, cũng chia sẻ hạnh phúc, khổ đau, lo lắng, buồn rầu, nụ cười, nước
mắt, sức lao động của mình. Chia sẻ trí tuệ hay là sự hành đạo của mình
cho những người khác, cái đó gọi là những điều kiện đi ra. Và như vậy
con người của chúng ta luôn luôn bất cứ trong một cái giây phút nào cũng
có cái sự đi ra và đi vào cả, tức là chúng ta luân hồi trong từng
giây phút, không những chúng ta luân hồi từ giây phút trước cho tới
giây phút này mà chúng ta đi ra, chúng ta đem cái thân mạng chúng ta đi
ra trong bốn phương. Ví dụ như năm 1960 tôi có viết một cuốn sách, thì
cuốn sách đó là một thứ output và nó đi ra như là một phần của tôi và nó
ảnh hưởng tới những người khác. Những người đọc cuốn sách đó có thể bị
ảnh hưởng và những người đó lại tiếp nhận thấy tôi trong đó. Và tôi đã
đi luân hồi trên đường hướng của cuốn sách. Cuốn sách đó đi đâu mình
không biết được, nhưng ảnh hưởng của một cuốn sách, những ảnh hưởng của
một tư tưởng hay một hành động, nó đi một cách rất mầu nhiệm, chúng ta
không có thể tưởng tượng được. Một lời nói của chúng ta, một tư tưởng
của chúng ta phóng đi, tất cả những cái đó đều đi luân hồi như là một
năng lượng. Ví dụ như chúng ta lấy một que diêm đốt lên một đống lá tre,
cái lá tre đó một phần đi lên trên mây là hơi nước, một phần đi xuống
đất để làm tro, một phần biến thành ra hơi nóng và đi tản mát vào không
gian. Những cái đó đi vào trong vũ trụ và nó sẽ biến thành một cái gì
đó, chúng ta không thể biết là nó đi luân hồi như thế nào. Biết đâu là
trong đám mây đó, nó sẽ thành một giọt nước mà sau này con cháu mình sẽ
uống, đôi khi trong cái chút tro đó nó sẽ nở ra một bông hoa. Đó là nó
lên đường trong mỗi giây, mỗi phút. Cho nên nói rằng, tôi đi về một
hướng này, là không đúng lắm, có thể nói là một số yếu tố của tôi đi về
hướng đó. Nhưng đi về hướng đó cũng là từ những phương khác đi tới và nó
đi cùng với tôi. Tôi có thể đi ra hướng này, hay là đi ra những hướng
khác. Ví dụ một người nào đó có một đứa con, thì chính người đó đi ra
hướng đứa con và sẽ đi luân hồi. Một phần người đó đã thành đứa con, một
phần khác của người đó vẫn tiếp tục. Khi người đó tới tuổi tám mươi lăm,
chín mươi, mình thấy người đó gần như là cái xác trà ở trong một bình
trà, sau khi chất trà ngon đã đi ra hết trong nước trà. Cái tinh ba của
người đó nó đã đi hết vào những chỗ khác. Nếu nói rằng tôi tiếp tục tái
sanh, và tiếp tục với trạng thái của sự già nua lẩm cẩm này, thì sự tái
sinh như vậy sẽ buồn lắm.
Có một lần tôi nói chuyện với một bà theo Cơ Đốc giáo, bà ta có đức tin
rất lớn. Bà tin rằng: nếu bà tịch, tức là bà được lên nước Chúa và sẽ
gặp lại ông. Ông đã tịch trước đó rồi, bà tin một cách rất là đơn giản
như vậy. Tôi mới hỏi như thế này: Khi bà lên trên đó thì bà gặp ông lúc
mấy tuổi. Tại vì ông tịch trước bà tới mấy chục năm và lúc đó ông đang
còn trẻ, đang còn đẹp trai lắm. Cố nhiên bà sẽ gặp ông như vậy và ông sẽ
gặp bà trong trường hợp nào? Bây giờ bà đã tám mươi lăm tuổi. Nếu hai
người gặp nhau trong tình trạng đó thì chắc là buồn lắm. Đó là một câu
hỏi để đặt vấn đề thôi, để thấy rằng nó không đơn giản. Chẳng qua ý niệm
về vô thường cho mình biết, nhưng tâm của mình suy nghĩ một cách rất là
đơn sơ. Câu hỏi đó có thể làm cho bà băn khoăn, thắc mắc. Bà mất đức tin
một cách đơn giản kia, nhưng có thể nó có lợi, là bà thấy sự thật một
cách sâu sắc hơn. Cho nên nói rằng chúng ta luân hồi, tức là chúng ta
luân hồi trong từng giây từng phút. Không phải chỉ đi về một đường,
chúng ta đi rất nhiều đường. Chúng ta đã luân hồi rồi, chúng ta đã lên
đường rồi. Không phải đợi đến khi chúng ta thở hơi cuối cùng mới là luân
hồi, mới thành một thực thể mới.
A lại da thức - Tàng thức có những chủng tử, những hạt giống. Chúng ta
phải nhớ rằng, không phải nó chỉ tàng trữ những hạt giống độc ảnh,
những chủng tử độc ảnh mà thôi. Nó còn duy trì những chủng tử khác, là
chủng tử của căn thân, của thế giới, khí thế gian và tình thế gian, tức
là thân thể của chúng ta đây với sáu căn. Trong hoàn cảnh đó chúng ta
sống với tất cả sông, núi, không khí, xã hội… đều là những chủng tử được
thức A lại da duy trì. Còn những hạt giống của buồn, giận, kinh nghiệm,
kiến thức mà chúng ta gọi là những hạt giống độc ảnh, có thể phát hiện
ra thành độc ảnh. Nó chẳng qua chỉ là một phần của nội dung A lại da
thức mà thôi. Đối với tâm lý học Tây phương, vô thức chỉ là những chủng
tử độc ảnh, những chủng tử của buồn, vui, kinh nghiệm, kiến thức, ước
vọng, thất vọng. Nó không có đủ những chủng tử của căn thân, của thế
giới như là tàng thức. Chúng ta phải đi sâu vào một chút nữa để nhận xét
điều này. Những chủng tử độc ảnh mà chúng ta có trong tiềm thức, chúng
ta nói nó là của riêng ta. Như là đau buồn, giận hờn, trí tuệ, kiến
thức, ta cho là của riêng ta. Nhưng kỳ thực nó không phải là hoàn toàn
tự biến, nó còn là cộng biến nữa. Tức là sở dĩ nó có, cũng là do những
người khác, do xã hội, do sông núi mà có. Mặt trời kia thuộc về khí thế
gian, nó là một hiện tượng cộng biến của tâm thức cộng đồng, của A lại
da cộng đồng. Căn thân cũng vậy, độc ảnh cũng vậy. Nhưng chúng ta đã
biết qua ý niệm về tự biến, cộng biến. Có cái đi về phía cộng biến nhiều
hơn, có cái có tính cách tự biến nhiều hơn.
Những hạt giống trong ba cái lĩnh vực này, có những hạt giống thuộc về
bản hữu, tức là nó có sẵn. Những hạt giống chúng ta ướp
vào huân và tạo thành mới, gọi là chủng tử tân huân. Tân
huân tức là mới ướp vào. Hôm trước chị Tâm Lai nói rằng: ý niệm về năng
huân, sở huân nó khác với ý niệm về năng tri, sở tri là đúng. Chữ huân
thường thường có nghĩa là ướp vào, đó là một hình ảnh. Ví dụ như chúng
ta lấy hoa lài ướp vào trà, thì hoa lài là năng huân và trà thơm mùi hoa
lài là sở huân. Trong trường hợp không có người ướp, thì chính hoa lài
là người ướp, là năng huân. Vậy thì hình ảnh con ốc mà chúng ta vẽ kỳ
trước, có thể đem ra làm ví dụ trở lại. Nó có hai cái râu và khi hai cái
râu này rút lui thì chúng ta không thấy nữa. Khi đó chúng ta thấy hai
cái râu này chính là thân hình của con ốc. Thế nhưng khi nó phát hiện ra
hai cái râu thì chúng ta thấy rõ ràng, cái này không phải là cái kia.
Nhưng nhìn kỹ toàn thể con ốc thì chúng ta lại thấy cái này cũng thuộc
về cái kia. Cộng biến và tự bíến được nhận thấy như vậy. Như ví dụ hôm
trước, chúng ta lấy bàn tay của chúng ta rờ vào thân thể, thì bàn tay
này có thể coi như là cái anten, ngoài cái này còn có cái này. Như là có
thế giới, có người kia, xã hội kia nằm ở ngoài, chúng ta thấy rất rõ như
vậy. Nhưng kỳ thực khi nhìn vào cái này thì thấy rằng cái này cũng là
cái kia. Trong cái này có cái kia, trong cái kia có cái nọ. Vì vậy cái ý
gọi là phi nhất, phi dị còn được áp dụng vào ở đây: không
phải một mà cũng không khác.
Chúng ta lấy một ví dụ khác là sóng và nước. Đây là một đợt sóng mà
chúng ta muốn lấy riêng ra, coi như là cái ngã, như là một thực thể
riêng biệt. Lấy ra như vậy không được, nhưng chúng ta tạm lấy. Chúng ta
biết rằng đợt sóng này không làm sao có được nếu không có biển cả. Lấy
biển cả ra ngoài thì sóng đó không còn nữa, không có nữa. Con người của
chúng ta cũng vậy, nếu lấy chúng ta ra khỏi môi trường của chúng ta,
chúng ta sẽ không còn. Môi trường đó tức là khí thế gian, cái cộng biến
của chúng ta. Nhưng trên phương diện hoạt động, sự phát sanh của một đợt
sóng có liên hệ tới sự phát sanh và tiêu diệt của những đợt sóng khác.
Ví dụ như đợt sóng này phát sanh, tức là có một lực đẩy nó lên. Khi nó
lên tới chỗ cao này rồi, nó hết sức và phải xuống. Khi xuống nó tạo ra
một lực khác, nó làm phát sanh ra đợt sóng mới. Luôn luôn có một lực ở
dưới, trong nghi thức gọi là nghiệp lực. Nghiệp tức là action, hành
động, hành động luôn luôn là một sức mạnh. Cho nên sự phát sinh của đợt
sóng này có liên hệ tới sự phát sinh, sự tiêu diệt của một đợt sóng
khác, hoặc là của những đợt sóng khác. Nếu đem ra so sánh, chúng ta thấy
rằng hai đợt sóng gần nhau nhất, nó có tác dụng làm phát khởi. Hai đợt
sóng đó không phải một mà cũng không phải khác. Tại vì nếu không có cái
này thì không có cái kia. Trong kinh có một ví dụ là, ông đó gởi một vò
sữa cho một ông láng giềng, rồi ông đi đâu đó đến mấy ngày mới về, cái
vò sữa trở thành ra một chất khác. Ông ta nói: tôi gởi sữa chứ tôi đâu
gởi cái này, bắt đền cái vò sữa cho tôi. Như vậy không được, tại vì
chính cái này là cái đó nhưng mà nó lại khác. Ngay trong đời sống, từ
khi chúng ta sinh ra đến khi lớn lên, rồi đến khi chúng ta già đi, thì
đã có biết bao nhiêu giai đoạn từ sữa đã trở thành phómát. Trong kiếp
sống, chúng ta tạo ra những cái gọi là nghiệp, tức là hành động, động
tác, là lời nói, tư tưởng và hành động thể xác. Những nghiệp đó đi ra
ngoài và nó tác động. Chúng ta có thể thấy rằng, chúng ta đang làm phát
sinh ra những hình thái hiện hữu khác ngoài mình, ngay trong khi mình
đang sống. Những cái đó chính là mình, mình đã đi luân hồi, phải thấy
như vậy. Vì thế nên trong sự sống có những dòng, cái gì cũng có dòng
hết, tức là những tác động, những nối tiếp và sự liên hệ của nó.
Trên sự
thật, chúng ta không phải đợi đến khi tịch rồi chúng ta mới đi luân hồi
trở lại. Chúng ta đi luân hồi trở lại trong từng giây phút của cuộc đời
mình. Và khi chúng ta tịch rồi, chúng ta cũng luân hồi trở lại nữa,
nhưng không phải như mình tưởng tượng, nó luân hồi trên nguyên tắc:
không phải một mà cũng không phải khác. Một làn sóng tiêu diệt, có nghĩa
là nó trở về với cái biển cả, nó tiêu diệt theo cái nghĩa đó. Chúng ta
cũng vậy, sau khi chấm dứt một giai đoạn sinh mạng rồi, mình trở về với
thực thể của sự sống. Cái thực thể của sự sống đó lại đưa mình ra trở
lại, như là một đợt sóng thứ hai. Nhưng sự trở lại của mình bây giờ có
liên hệ tới cái sức, force, cái nghiệp, cái action mà mình đã làm. Phối
hợp với những action của những thực thể gần với mình, tác động gần trên
mình nhất. Tức là trong cộng biến cũng có sự phân biệt, mình cộng biến
với những người gần gũi mình nhiều hơn là cộng biến với những người xa
hơn. Ví dụ như trong đời sống tại Làng Hồng (Làng Mai) này, mình thấy có
tự biến và có cộng biến. Nhưng cộng biến ở đây vẫn tự biến nhiều hơn là
cộng biến đối với những tỉnh xa. Vì vậy cho nên sự phát sinh, sự biểu
hiện của một sinh mạng, sự tiếp nối của một sinh mạng, rồi sự chấm dứt
của một sinh mạng, rồi sự tái phát hiện sinh mạng, phải được nhìn, phải
được nhận xét qua nguyên tắc là không phải một không phải khác. Gồm có
tự biến và cộng biến thì mình mới nắm được ý chỉ của Bụt. Còn nói về
nhân quả một cách quá đơn giản, cái đó không có đúng với bản ý của Bụt.
Tại vì màn lưới của nhân duyên, của nhân quả nó chằng chịt, không phải
là một đường thẳng. Cái này sang cái này, rồi cái này sang cái kia,
không phải như vậy. Nó là tất cả mọi cái hợp lại để thành ra một cái.
Như cái lá của chúng ta hôm trước, là do mặt trời, do đất, do ánh sáng,
do đám mây, do những chất hóa học làm ra. Nếu nhìn cho kỹ thì thấy rằng,
không có yếu tố nào trong vũ trụ mà không có hợp tác vào để làm nên cái
lá. Chúng ta cũng vậy, chúng ta là những nhân duyên gần và những nhân
duyên xa mà thôi.
Điều kiện gần nhất gọi là nhân duyên. Duyên tức là những
điều kiện. Như là hạt bắp phát sinh ra cây bắp, thì hạt bắp là nhân
duyên, nhân là hạt giống.
Thứ hai là tăng thượng duyên, tăng tức là thêm, thượng là
đi lên, tức là những điều kiện phụ thuộc vào đó để làm cho nó sinh khởi.
Tại vì nếu có hạt bắp mà không có những yếu tố khác, như là mặt trời,
nước, đất, hay là người trồng bắp thì không thể phát sinh ra cây bắp
được. Những cái điều kiện đó gọi là tăng thượng duyên.
Thứ ba là sở duyên duyên, tức là đối tượng của nhận thức.
Nếu không có đối tượng nhận thức thì không có nhận thức được.
Và cuối cùng là đẳng vô giáng duyên. Trong các học phái
của đạo Bụt, người ta thiết kế ra nhiều loại duyên khởi, rất nhiều điều
kiện. Có khi là hai mươi hai duyên, có khi là chín duyên, có khi là
nhiều duyên. Nhưng tóm lại là bốn phạm trù, bốn loại duyên, bốn loại
điều kiện cần thiết để làm phát sinh. Đẳng vô giáng có nghĩa là sự liên
tục. Nếu chúng ta có một sợi dây xích, được nối lại với nhau bằng nhiều
khoen xích. Chúng ta biết rằng, nếu thiếu một trong những cái khoen xích
đó là hư hết. Ví dụ như cái xích xe đạp mà không có một cái thì không
thể được, nó phải liên tục nhau, không mất một điều kiện nào cả. Khi có
đủ tất cả điều kiện rồi, nhưng nếu thiếu một cái, dù là cái gần nhất với
mình thì cũng không được. Ví dụ như chúng ta có đủ hạt bắp, có đủ đất,
có đủ mặt trời, có đủ tất cả, chỉ còn có chuyện liệng nó ra đồng mà
không làm, thì cũng không thành. Chuyện liệng ra đồng là một điều kiện
đi tới trước, tức là không có sự giáng cách. Nó phải liên tục, tính cách
liên tục của sự phát triển gọi là đẳng vô giáng duyên.
Sự phát hiện của thức cũng vậy, sự phát hiện của một chủng tử hay của
một tâm sở đều vâng theo định luật của nhân duyên mà chúng ta được thấy:
nhân duyên, tăng thượng duyên, sở duyên duyên, đẳng vô giáng duyên. Ví
dụ như khi có một cái giận phát sinh ra trong ta, cái giận đó có nhân
duyên, nó có hạt giống của sự giận. Nhưng nếu không có những điều kiện
xúc tác cho hạt giống đó, nó sẽ không phát hiện. Nó phải có đối tượng,
luôn luôn giận là giận cái gì, không thể nào có cái giận không không, đó
gọi là sở duyên duyên. Nếu có một tâm sở khác chen vào giữa, ví dụ như
tâm sở sợ, hay là một tâm sở gì đó thì cái giận của mình không phát hiện
được. Nó phải liên tục, mình lo chuyện khác thì cái giận đó không có cơ
hội để phát triển. Về nhà rồi, có thì giờ nghĩ lại thì cái giận mới đùng
đùng nổi dậy.
Chúng
ta nên biết rằng, trong A lại da thức của chúng ta có rất nhiều hạt
giống phiền não. Căn bản phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, kiến.
Những cái đó được gọi là chất độc, ba cái đầu là tham sân si, gọi là tam
độc. Sự có mặt của ba cái đó trong người làm cho mình xốn xan, khổ đau.
Khi cái giận, cái tham dục của chúng ta phát hiện, chúng ta như bị lửa
đốt, bị trạo cử, bị đủ thứ hết. Rồi đến khi sự si mê của chúng ta bùng
lên thì chúng ta bị mù quáng, tối tăm mặt mày, không thấy được những gì
của cuộc đời, những cái đó gọi là tam độc. Những độc tố đó được huân vào
và được phát sanh tùy thuộc theo những nhân duyên. Tại sao nó phát sanh?
Tại sao nó mọc rễ được ở trong tâm của chúng ta? Đó là những điều chúng
ta phải tìm hiểu, phải thấy được bằng sự quán chiếu của chúng ta.
Ví dụ
như một người có rất nhiều sân, có rất nhiều cái giận và không có khả
năng trị được cái giận của mình. Có người nói rằng: tôi chỉ có thể đá
con mèo của tôi khi tôi giận, tại vì đá con mèo không có nguy hiểm, con
mèo không đá lại, nếu đá người khác là bị người khác đá lại. Cho nên
người đó khổ lắm, vì khi cái giận phát hiện mà chiếu cái giận đó, hắt
cái giận đó vào người khác thì thế nào cũng bị người khác hắt lại. Vì
vậy phải đóng cửa lại hét một mình, phải đá cái gì đó, nếu đá cục đá thì
đau chân quá, thành ra đá con mèo hay là đá cái gì mềm mềm. Tâm lý trị
liệu bây giờ họ rất ưa lấy cái gối độn bông gòn cho thật nhiều, rồi vào
trong phòng đóng cửa lại và dùng hết sức lực bình sanh để đánh cái gối,
dồn tất cả cái giận của mình vào cái gối. Bây giờ sự thực tập đó tràn
lan ra, tức cười lắm. Họ nói rằng cái giận là một năng lực ở trong
người, vì vậy mình phải làm cho cái giận đó nó thoát ra, lấy cái giận ra
khỏi mình. Và phương pháp lấy cái giận ra khỏi mình là phương pháp đánh
cái gối. Có thể dùng một cái roi, hay là một cái gậy, hay cái gì đó,
đóng cửa lại, lấy cái gối đó và đánh hết sức. Nghe nói ở bên Nhật, có
những hãng xưởng người ta cho phép công nhân làm như vậy để tiết bớt cái
giận. Thường thường là mình giận ai, nếu giận ông chủ thì họ làm một cái
hình ông chủ bằng cao su để trong phòng. Hể khi nào giận quá thì được vô
đóng cửa lại, rồi lấy cái gậy đập vào hình ông chủ, đập vào để cho tiết
cái hận ra ngoài. Làm như vậy để cho cái ẩn ức ở trong nó ra được. Họ
nghĩ rằng, làm như vậy là căn cứ trên những nguyên tắc nhân duyên. Tức
là đôi khi cái giận đó nó nằm trong tiềm thức mà mình không biết được,
họ làm thế nào để biết được cái giận của mình, tiếp xúc được với cái
giận của mình.
Đó là để cho thức thứ sáu có thể dính được với thức thứ bảy. Tại vì
những cái giận, những ước muốn, những thất vọng nó nằm sâu trong thức
thứ bảy. Bây giờ thức thứ sáu phải liên lạc với thức thứ bảy để thiết
lập được sự thông cảm hòa hợp. Thuyết phân tâm học cho rằng: chúng ta có
những ước muốn, có những bực bội làm cho chúng ta không sống được, không
thực hiện được. Vì xã hội không cho phép chúng ta biểu lộ và phát hiện
cái bực bội, cái ước muốn đó, cho nên nó tạo thành ra một phản ứng ở
trong người và sau đó mình quên đi những cái đó. Nhưng ý thức không biết
được là những cái đó vẫn nằm trong thức thứ bảy, cho nên thỉnh thoảng
thức thứ bảy xuất hiện một cách bất thần. Nó lừa khi ý thức không nắm
chủ quyền, nó hiện ra một cách rất là đột xuất. Đó là những triệu chứng
của sự biểu lộ ẩn ức. Vì vậy nguyên tắc của tâm lý trị liệu là làm thế
nào để cho ý thức biết được những cái bị đè nén ở trong tiềm thức. Họ
nói rằng: mình phải tiếp xúc với cái giận của mình là như vậy, tức là
phải biết rằng mình có giận. Họ khuyến khích nên biểu lộ cái giận ra để
cho mình biết. Và biểu lộ thì hơi nguy hiểm, cho nên phải đóng cửa lại,
khóa lại và lấy một cái gối để cho nó an toàn hơn.
Theo thuyết của Freud, một nhà tâm lý học Đức, thì ở trong chúng ta có
dục vọng, có sự đè nén về sinh lý. Sự đè nén về sinh lý này có từ hồi
mình còn nhỏ xíu, không phải lớn lên mới có và nó không được thỏa mãn.
Vì vậy nếu mình lớn lên mà không thiết lập được những sự thăng bằng
trong đời sống, thì sự đè nén đó tiếp tục phá hoại đời sống thường ngày
của mình. Hôm trước tôi có nói sơ qua về chuyện này, là khi em bé ôm lấy
hai vú mẹ và nút, em bé đâu có biết rằng bà mẹ là một thực thể khác với
mình. Cái tâm lý nguyên sơ mẹ là mình, mình là mẹ. Nhưng từ từ em bé
thấy rằng, có những lúc em bé muốn làm như vậy mà không được, vì bà mẹ
đang mắc việc khác. Cho nên sự nhận diện rằng bà mẹ không phải là mình,
là cái kinh nghiệm đau khổ đầu tiên của kiếp người. Vì mình đang còn
trứng nước, thành ra cái đau khổ đó ấn sâu vào trong tâm mình ghê lắm.
Hơn nữa trong đời sống gia đình, có một người cũng muốn chiếm cứ bà mẹ,
đó là người cha. Vì vậy trong em bé từ từ nó sinh ra một cái mặc cảm
Oedipe. Oedipe là con trai của một ông vua ngày xưa. Oedipe lớn lên thì
tình thế xô đẩy như thế nào và cuối cùng Oedipe giết cha. Sau đó lấy bà
mẹ của mình. Đó là mặc cảm Oedipe, đứa con nít nào cũng có cái đó, cũng
ghét cha tại vì cha đã giành mẹ của mình. Sự ghét cha có ở mọi đứa con
nít, nhưng đồng thời cũng có sự thương cha nữa, tại vì cha cũng có cưng,
cũng có lo cho mình. Cái thương, cái ghét lộn xộn với nhau. Khi mình còn
nhỏ, những cảm tình đó không có ý thức, nó vô thức, nhưng nó tác động
rất mạnh.
Freud có nghiên cứu tình trạng của em bé trai tên là Hans. Đứa bé bị một
triệu chứng là sợ. Sau đó tâm lý của nó chuyển thành ra sợ những con
ngựa, xe ngựa đi ngoài đường. Mỗi khi thấy ngựa đi ngoài đường nó sợ ghê
lắm, nó run lên. Cũng như có người thấy lửa đốt lên thì sợ, thấy con chó
thì sợ, sợ một cái gì đó, thì cái đó là chuyển. Từ khi em bé Hans
chuyển cái giận nơi cha trở thành ra cái sợ ngựa, thì tình cảm của em
đối với cha thiết lập được trở lại một cách rất là ngọt ngào, tiềm thức
nó làm việc như vậy. Vì vậy khi đi ra ngoài là phải có một người đi
theo, để khi nào gặp phải chiếc xe ngựa mà em bé sợ, là em bé có thể ôm
lấy người này cho khỏi sợ. Những ẩn ức của tâm thức có thể biến hiện ra
thành nhiều hình thái, một hình thái là sợ, không có gì đáng sợ, vậy mà
sợ. Có khi nó biến thành hình thái là bị ám ảnh. Ví dụ như mình đã cất
cái đó một chỗ cẩn thận rồi mà mình vẫn bân khuân, không biết là đã cất
cẩn thận chưa. Mình giở ra coi, mình cất cẩn thận rồi, nhưng khi đi mình
lại không biết là cẩn thận chưa. Đó là bệnh, kiểu đó là từ trong tâm
thức của mình đi ra.
Tâm lý học có nói rằng: sự khủng hoảng tâm lý, những cái bị đè nén,
những cái giận, những cái ghét, những cái ganh tị với chính cha của
mình. Nếu khi lớn lên mình không tìm được những niềm vui, những sự thỏa
mãn, những lạc thú khác và nó không tạo thành sự thăng bằng trong đời
sống thì mình không vượt qua giai đoạn đó được. Khi vượt không được thì
những ẩn ức đó sẽ phát hiện khi mình lớn. Nó có thể phát hiện bằng hai
cách, thứ nhất là bị những chứng thần kinh (nerf). Trong trường hợp đó
mình biết là kỳ, mình phấn đấu mà vẫn không thể vượt khỏi cái kỳ
đó. Trong trường hợp mình bị những bệnh nặng hơn và đôi khi mình mất sự
liên lạc với thực tại thì rất là khó chịu, cuộc đời rất là khổ đau. Nếu
không có những triệu chứng đó thì nó có những triệu chứng về tánh tình
của mình. Mình trở nên khó khăn, liên hệ của mình đối với những người
khác trở nên khó khăn. Mình cũng có đủ tài năng, mình cũng có thể thành
công được, nhưng cái tánh của mình rất là khó. Có người đi đến chỗ là
không chịu đựng được sự phê bình, xây dựng, chỉ trích của người khác.
Cái đó làm cho con người rất là khổ đau. Theo Freud, cái ẩn ức về sinh
lý tiếng Tây gọi là le sexe, tiếng Việt là “cái đó”. Cũng như khi nói:
mấy anh chàng đó không nghĩ tới chuyện gì khác, chỉ nghĩ tới chuyện đó
thôi, tức là chuyện về sinh lý. Theo Freud: rất là nhiều cử chỉ, hành
động, ý tưởng của mình phát sinh ra từ ẩn ức về cái này. Cái ý thức mình
sống trong xã hội, biết sự thực của xã hội, thành ra không cho phép
những ẩn ức ở trong người của mình phát hiện ra. Phát hiện ra như vậy
thì bị xã hội chống đối, phản báng. Nhưng ở dưới cùng trong tâm mình có
một cái ngã khác, cái ngã này lại không đồng ý với cái ngã phía trên.
Cái ngã này muốn thực hiện được những, dục vọng, những ẩn ức của mình.
Cái đó ông Freud gọi là le moi (ego), cái moi này rất
giống thức thứ bảy của Duy thức học. Ở dưới này là le sexe, nó
làm cái nương tựa cho cái này. Còn ở trên cái moi đó, nó có một cái gọi
là superego, mình dịch là thượng ngã hay là siêu ngã.
Cái này là ý thức, nó biết được phản ứng của xã hội trong khi mình thức.
Vì vậy nó đè nén cái moi này, nó không có cho cái moi này phát hiện.
Ý thức
của mình tương đương với cái moi này và nó không cho phép cái moi này
biểu hiện. Tại vì cái moi này có nội dung của những sự nặng nề trong
tâm: tham, sân, si, mạn ở trong đó. Có những người bề ngoài thấy như
không có sự kiêu mạn, nhưng nếu sống lâu với họ, mình thấy có sự kiêu ở
trong đó, gọi là kiêu ngầm. Cái moi giống như là mạt na, nó nặng hay
không nặng là do ở nội dung của những chủng tử, những nội kết ở trong
tâm mình.
Nội kết
không phải lớn lên mới có, khi sanh ra là có rồi. Ôm lấy hai cái vú của
mẹ nút một cách tham lam, đến khi bị đẩy ra là giận tức, đau khổ, nó có
ngay từ lúc đó rồi. Tại vì bà mẹ có đời sống của bà, đâu phải lúc nào
cũng để cho con bú, rồi bà mẹ lại có ông cha nữa. Vì vậy cho nên có sự
ghen tức, giận hờn, thành ra tâm lý trị liệu bắt mình trở lui và phải
xét lại tất cả những điều đó. Nhất là phải nói ra cho được, nói ra với
một người khác. Người này có thể là bác sĩ tâm lý, hoặc là một người bạn
thân. Đem nói ra được những cái đó, đôi khi mình không biết gì để nói,
không biết là vì cái moa này không biết những gì ẩn ức trong nó. Tại vì
nó tạo ra một sự quên, nó tạo ra một cái thất niệm để cho cái moa này
vẫn âm thầm nắm lấy đối tượng của ước muốn, của sự giận hờn của nó ở
trong này, để cho trên này có thể rảnh tay làm công việc hàng ngày.
Nhưng khi mà cái này yếu đi thì nó phát hiện. Freud có nói tới những
phương pháp mà ông thí nghiệm để làm cho cái này mờ đi, vắng mặt đi, để
cho cái khác có cơ hội phát hiện. Ví dụ như ông ta ngồi với một bệnh
nhân thì ông ta tìm cách làm cho bệnh nhân đừng có suy nghĩ bằng ý thức.
Ông ta nói rằng: bây giờ tôi nói với anh, tôi sẽ lấy cái bàn tay phải
của tôi tôi ấn trên cái trán của anh, tôi sẽ ấn vào khoảng bốn hay là
năm giây đồng hồ và trong lúc đó anh đừng suy nghĩ gì cả. Trong bốn năm
giây đồng hồ đó, nó sẽ phát sinh ra một hình ảnh, hay là một tư tưởng gì
mà tự nhiên nó phát hiện ra. Anh phải cho tôi biết anh thấy gì, anh nghĩ
gì trong lúc đó. Dặn như vậy rồi ông ta mới từ từ đưa tay ra ấn. Sau khi
đè lên rồi lấy tay ra, ông ta sẽ hỏi người bệnh nhân của ông một cách
rất là trầm tỉnh. Sự trầm tỉnh đó có tác dụng làm cho anh không thể nào
không nói những điều đó cho ông ta được. Một hình ảnh lóe ra trong người
kia là một tư tưởng, cái nó lóe ra trong người kia có thể là không ăn
nhập gì đến câu chuyện bây giờ. Nhưng chính vì tính cách không ăn nhập
đó mà mình nhận biết rằng, nó từ ở tiềm thức đi ra, không phải từ cái
trước mặt. Vì vậy phương pháp ấn trên trán là để lấy cái ở tiềm thức
ra, để cho nó có cơ hội phát hiện. Chính nhờ những hình ảnh và những ý
tưởng đầu ngô mình sở đó, mà người bác sĩ tâm lý trị liệu có thể đi tới
và thấy được những cái ẩn ức của người bệnh. Khi thấy được rồi thì sẽ
đặt lại thành lời, để cho người bệnh nói và làm cho có sự thông thương
giữa ý thức và ý. Nhưng Freud cũng khiêm nhượng lắm, ông nói rằng:
cái tối đa mà tôi có thể làm cho quý vị là trị cho quý vị, lấy cho quý
vị ra khỏi tình trạng khổ não của những chứng bệnh thần kinh thôi. Đưa
quý vị trở lại đời sống thông thường của những trầm luân, đau khổ của
thế gian, và tôi cũng không thể nào làm khác hơn. Tại vì đời sống
thông thường của chúng ta là một đời sống có những khổ đau, cái tối đa
ông ta nói rằng ông có thể làm được là đưa mình trở về đời sống thông
thường, tức là với những cái khổ đau hàng ngày đó thôi. Lấy những triệu
chứng điên ra, để bạn trở về với đời sống khổ đau bình thường hàng ngày.
Tâm lý
học trị liệu làm được như vậy là một sự thực hiện rất lớn rồi. Nhưng
trong Duy thức của đạo Bụt thì ước vọng lớn hơn nhiều. Tức là không phải
chỉ trị những chứng bệnh đó thôi, mà phải cạo sạch những độc tố ở trong
người để đi tới giải thoát. Vì vậy cho nên mục đích của Duy thức học
không phải là tâm lý trị liệu, nhưng chúng ta có thể học nó để trị liệu
tâm lý. Nhưng đó chỉ là bước đầu thôi, bước thứ hai, bước thứ ba là phải
đạt tới sự giải phóng những tâm lý đó. Duy thức học có bổn phận tới để
nâng đỡ tâm lý trị liệu. Một ví dụ như cái giận mà chúng ta muốn tiếp
xúc. Nói là: cái ý thức của chúng ta muốn tiếp xúc được với cái giận ở
trong cái vô thức. Phương pháp của họ là cứ cho giận đi, đứng có đè nén,
đè nén là xấu. Vì vậy cho nên có cái giận cứ cho giận, nhưng muốn cho an
toàn thì đóng cửa lại và đánh cái gối. Tôi tức cười khi thấy họ làm như
vậy, tức cười là vì chúng ta đứng trên lập trường và phương pháp của Duy
thức học, chúng ta thấy phương pháp đó hời hợt lắm. Nó hời hợt ở chỗ là
chủng tử của cái giận, nó có những gốc rễ trong người mình.
Giận là gì? Giận là
một vùng năng lượng, một energy. Khi nó có nhiều trong người thì mình
nóng, nó đốt mình cháy và mình nghĩ rằng phải đem hết cái năng lượng đó
ra ngoài thì nó sẽ khỏe. Điều đó cũng đúng, nhưng nó không đúng lắm, là
khi đem hết ra rồi nhưng những gốc rễ của nó còn đó, nó vẫn phát sinh ra
trở lại. Ví dụ như những cây cải chúng ta trồng, nếu chúng ta cắt những
cái lá ở phía trên ăn, chúng ta để lại cái gốc thì nó sẽ mọc ra những
cái lá khác. Cái giận của chúng ta cũng như vậy, nó có những gốc rễ mà
nếu chúng ta không trị tận những gốc rễ đó, dầu cho chúng ta có đập gối,
hay là tiết hận đến bao nhiêu đi nữa, thì cái giận đó sẽ lại phát sinh.
Tại vì giận được làm bằng những yếu tố không giận, như là sữa, cơm... nó
đều biến thành giận hết. Những cái tham sân si của chúng ta nếu không có
cơm, có sữa, có đậu nành thì nó cũng không thành được. Mình công nhận
rằng sau khi đóng cửa lại, lấy một cái gậy mà đánh cái gối, đánh cho đến
khi mệt nhoài rồi thì trong người thấy nhẹ nhàng hơn, có như vậy thật.
Là tại vì sao vậy? Vì khi đó mình hết xí quách, đâu còn sức mà giận nữa.
Chúng ta đã biến một năng lượng này thành ra một năng lượng khác. Chúng
ta biến năng lượng giận thành năng lượng đánh. Đánh như vậy cũng cần có
năng lực, khi đã mệt nhoài thì lúc đó chỉ có cái mệt ở trong người thôi,
mệt quá giận không được nữa. Nhưng nếu được nhẹ nhàng rồi, mình uống
sữa, ăn phó mát, ăn cơm… Có sinh lực vô, coi chừng những gốc rễ kia sẽ
hút những chất bổ đó và nó tạo thành cái giận của kỳ thứ hai. Vì vậy cho
nên cái đó không phải một sự đối trị căn bản. Sự tiếp xúc đó là một sự
tiếp xúc giả tạo, đó là nhận xét thứ nhất.
Nhận xét thứ hai
theo Duy thức học là, mỗi khi một cái gì phát hiện trên ý thức, nó phát
hiện không có chánh niệm thì nó phát hiện nguyên hình, và nó sẽ tạo ra
những chủng tử đồng tính để rơi xuống trong A lại da thức. Cố nhiên sự
đè nén là không tốt rồi, nhưng quý vị chắc cũng nhận thấy rằng, đôi khi
chúng ta cho phép cái giận lên, chúng ta nghĩ tới chúng ta cho nó lên
thì chúng ta sẽ giận đùng đùng, và chúng ta làm cho nó mạnh lên. Một
chuyện không đáng giận, nhưng nếu chúng ta cho phép chúng ta giận, thì
cái giận đó có thể lớn lên, tại vì nó đi trên một đường hướng chủng tử
sanh hiện hạnh. Hiện hạnh sanh chủng tử ngay trong lúc đó. Và một chuyện
không có gì, nó có thể trở thành một cái rất là lớn, sóng gió có thể nổi
lên từ một tô canh. Đó là nhận xét thứ hai, là khi chúng ta cho một cái
gì phát hiện trên ý thức, thì cái đó có khả năng huân lại thêm những
chủng tử khác để cho mạnh hơn. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta
không nên cho nó lên, chúng ta có thể cho nó lên chứ. Nhưng nếu chúng ta
đã chuẩn bị cho đàng hoàng, chúng ta đã mời chánh niệm vào ngự trước,
dọn dẹp cho đàng hoàng rồi chúng ta mời nó lên, thì nó sẽ khác. Còn nếu
chúng ta cho nó lên một mình tung hoành ở trên đó, thì nó tác hại vô
cùng.
Nhận xét thứ ba là
cái giận cũng như bất cứ hiện tượng nào, nó có những gốc rễ. Cái giận là
do sự hiểu lầm hay là ích kỷ, hoặc là thiếu nhận thức về bất nhị. Nếu
chúng ta không quán chiếu và không thấy được sự thật, thì những gốc rễ
của cái giận đó không bao giờ được nhổ lên hết. Vì vậy cho nên dầu chúng
ta có đánh gối một trăm lần, cái giận nó vẫn tiếp tục được sinh khởi nhờ
sữa, nhờ cơm, nhờ những cái tăng thượng duyên khác.
Quý vị
nên biết rằng, có những người khổ đau rất nhiều, vì ba má của những
người đó rất là khắt khe, rất là khó chịu, không có thương con. Nhưng
thực ra họ cũng thương con, nhưng mà thương theo cái kiểu khó chịu của
họ. Nếu mình quán chiếu thì thấy rằng họ là nạn nhân của ông bà mình.
Tại vì ông bà mình đã khó chịu như vậy, đã nuôi con như vậy, đã dạy con
như vậy, đã khắt khe như vậy, đó là vấn đề luân hồi.
Những bà mẹ chồng thường thường hay đối với con dâu như vậy, đến khi
con dâu được lên chức mẹ chồng thì thấy rằng, mình đối xử với con dâu
của mình như vậy chắc cũng đúng thôi. Vì vậy cho nên tình trạng mẹ
chồng con dâu cứ luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác. Cha mẹ mình hồi
thơ ấu cũng có thể bị giống hệt như mình bây giờ, đó là cái vòng luân
hồi, cái vòng lẩn quẩn. Mình đừng tưởng rằng, cha mình hay là mẹ mình là
những cá nhân tự do hoàn toàn, họ cũng bị điều kiện hóa từ khi còn ấu
thơ. Họ cũng bị những nội kết, những khổ đau và những cách họ dạy mình,
la mình, mắng mình, thương mình, nó được điều kiện hóa bởi những yếu tố
đó. Vì vậy cho nên mình không hiểu họ thì mình giận, nhưng nếu mình hiểu
được họ thì mình không còn giận nữa.
Có một em bé trai rất là giận ba, tại vì mỗi khi ba thấy em của mình té,
ba đã không nâng lên và vuốt ve dịu ngọt, ba còn la thêm nữa, rầy thêm
nữa, nó không thích ba ở chỗ đó. Nó mới hứa rằng: sau này khi nó làm
cha, nó sẽ không có đối xử với con của nó như vậy. Nếu con của mình té
hay là bị tai nạn, nhất định là mình không có rầy. Trái lại mình tới
nâng đỡ, mình nói nhẹ nhàng. Nó quyết định như vậy, tức là ý thức
của nó làm việc như vậy, tức là nó muốn cắt đứt cái luân hồi đó. Nhưng
có một bữa đó, em nó té và em nó khóc, bị chảy máu, nó nổi cơn giận lên
và nó la em. Nhưng nhờ có tu ở Làng Hồng, thành ra nó có ý thức được
điều đó. Nó rất lấy làm lạ, là tại sao mình đã quyết định như vậy rồi,
mà mình vẫn phản ứng giống hệt như ba mình vậy. Đây là chuyện có thật,
nó xảy ra tại Làng Hồng. Cái đó là một luân hồi, tại vì mình được đối
xử như vậy, tự nhiên trong người mình nó có hạt giống như vậy. Đến khi
mình đối xử với con mình, mình cũng sẽ đối xử như vậy. Thành thử chấm
dứt luân hồi tức là những chủng tử, những hạt giống triền miên, nó
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tới thế hệ của mình phải được cắt
đứt.
Tùy miên
Trong Duy thức học có danh từ gọi là tùy miên, tùy là theo, tức là nó
theo đuổi chúng ta như là một bóng ma. Thường bóng ma đi theo sau, nhưng
cái này nó theo ngay ở trong trái tim, trong con người của chúng ta. Nó
theo trong từng thớ thịt, từng tế bào trong cơ thể chúng ta. Miên là
ngủ, nó tiềm tàng ngủ rất là sâu trong tâm thức của chúng ta, trong con
người của chúng ta. Những cái tùy miên đó có thể được huân tập và lớn
trong giai đoạn sinh mạng của chúng ta. Nhưng nó cũng đã có thể huân
tập, lớn lên và dai dẳng trong giai đoạn sinh mệnh của ba mình, má mình
truyền lại. Không phải là do giáo dục mà thôi, khi ba má mình sinh ra
mình thì ba má mình truyền theo trong cái nhiễm thể của mình rất là
nhiều. Quý vị nên nhớ rằng, vật chất và tinh thần không phải là hai cái.
Tế bào của mình tức là cái tâm của mình đó. Cái nhiễm thể kia cũng là
cái tâm của mình đó. Những cái tùy miên đó chúng ta phải thấy được và
chỉ có quán sát về nhân duyên mới có thể thấy được bản chất của nó thôi.
Cái giận của chúng ta cũng vậy, nó có những gốc rễ và theo Bụt dạy:
vô minh là nguồn gốc của tất cả những phiền não.
Thông thường mình cứ tưởng mẹ mình là người lớn, tự nhiên là người lớn.
Chỉ vì không muốn thương mình, hoặc là thương mình một cách rất là sai,
hoặc là ích kỷ. Nhưng mình không biết được rằng mẹ mình ngày xưa cũng là
một em bé rất là nhỏ, em bé đó có thể bị những áp bức, bị những sự la
rầy. Em bé đó có thể nhận được những khổ đau, những dằn vặt, những bực
tức ngay từ khi còn là trứng nước. Và mẹ mình cũng là một nạn nhân của
vô minh, của tham sân si. Vì vậy cho nên thương mẹ tức là hiểu mẹ,
thương như vậy mới thật là thương. Một con người sở dĩ như vậy là tại vì
có những cái gốc rễ của nó. Chỉ có thể ngồi, hoặc chỉ có thể tiếp xúc
với lòng từ bi, với một ước muốn tìm hiểu, quán chiếu thì chúng ta mới
có thể thấy được mà thôi. Chỉ khi nào thấy được thì những cái kia mới rả
ra, cái gốc của sân si kia mới rả ra thôi.
Trở lại chuyện em bé trai, em nói rằng sau này khi lớn lên, em thành cha
rồi em sẽ không đối xử với con như vậy, đó là em mới kiến đạo chứ chưa
tu đạo. Thấy được con đường rồi, biết rằng mình muốn cắt đứt sự luân hồi
kia rồi, nhưng những cái tùy miên còn ở trong em rất nhiều. Vì vậy một
hôm thấy em của mình té chảy máu, giận đùng đùng lên la em, làm giống
hệt như ba của em vậy. Nhưng hay ở chỗ là nó đã được sư ông dạy, cho nên
khi nó sân đùng đùng lên la em, thì tự nhiên nó biết được là mình đang
làm sai và nó ngưng và lúc đó nó xấu hổ. Nó đi méc với mẹ rồi đi méc với
sư ông. Cái đó mới chỉ là kiến đạo, tức là thấy được con đường thôi,
nhưng chưa tu đạo, tức là chưa thực tập. Kiến đạo và tu đạo thì mới
chứng đạo được. Trong người chúng ta có bao nhiêu tùy miên là chúng ta
phải biết, đừng nghĩ rằng những tùy miên đó không phát hiện là chúng ta
không có. Nó có cái sợ, cái giận, cái ganh tức, sự si mê, cái dục vọng…
Tóm lại, chúng ta có thể kết luận về chuyện cái giận như sau: cái giận
cũng như sự đau khổ, nó có những gốc rễ ở trong chúng ta. Chúng ta quán
chiếu là để nhìn thấy cái gốc rễ đó. Khi thấy được gốc rễ rồi, chúng ta
có thể tiêu diệt được cái tùy miên. Còn nói rằng tiếp xúc với cái giận
bằng cách đánh cái gối, thì đó không phải là sự tiếp xúc. Có một lần tôi
nói chuyện với một người trị liệu tâm lý: làm cái đó đâu có tiếp xúc
được gì, chính cái gối mà tiếp xúc cũng không được, đừng nói là cái
giận. Nếu mình tiếp xúc được với cái gối, mình biết cái gối là cái gối
thì mình sẽ không đánh được nó. Vì họ đã thực tập bao nhiêu năm và
cho cái đó là có thành công, bây giờ nghe nói như vậy thì họ giận lắm.
Nhưng nếu muốn học thì họ phải đi sâu vào vấn đề, đập gối chẳng qua là
giải quyết tạm thời lúc đó, bằng cách là làm cho người ta hết sức mà
thôi. Có một thiền viện, ở trong đó người ta trị liệu cho những thiền
sinh người Mỹ, những người có nhiều khổ đau, những cái dằn vặt và những
cái giận, bằng cách là bắt họ lạy sám hối mỗi ngày một ngàn lạy. Đó cũng
là một cách đánh gối, vì lạy như vậy thì mệt nhoài đi, bao nhiêu sinh
lực của con người do sữa, do phó mát làm ra được tiêu xài vào chuyện lạy
đó, tự nhiên nó không còn sinh ra những chuyện buồn lo nữa. Khi có những
niềm đau buồn mà phải làm việc lao động cho nhiều thì đỡ lắm. Những buồn
đau, những giận dữ sẽ bớt đi.
Cố nhiên là trong chúng ta có những sinh lực và có nhiều thứ gốc rễ. Nếu
những yếu tố của sự sống được hút vào những gốc rễ tốt, chúng ta sẽ có
những cái tốt. Nó làm phát hiện ra tình thương, nụ cười, ánh mắt thân
yêu. Những cái đó cũng cần nhiều năng lượng, nó cũng cần sữa, cần cơm
mới có được. Khi đói bụng chúng ta không cười được, thành ra nụ cười
cũng cần phải có tăng thượng duyên. Hồi tôi ở bên Na Uy, có một ông
thiền sinh rất giỏi về nghề làm lò sưởi củi. Ông nhập cảng được một loạI
lò sưởi, trong đó chỉ dùng vài cây củi đốt thôi mà có thể làm thành rất
nhiều nhiệt lượng và khói ra rất ít. Khói ra chỉ vào khoảng mười phần
trăm của những lò củi thường. Trong đó họ dùng một thứ gọi là catalido,
khi đốt lên củi thành ra nhiệt lượng hết. Nó thành khói rất ít, nhìn ống
khói thấy khói lên sơ sơ thôi, so với cái khác thì khói lên rất nhiều.
Khi tôi nghe như vậy, tôi nghĩ rằng: cái catalido đó tức là sự tu, sự
quán niệm của chúng ta. Nếu có quán niệm trong chúng ta, chúng ta có thể
chuyển được và sẽ biến năng lượng ra những yếu tố xây dựng cho cuộc đời.
Ví dụ như lòng từ bi, niềm vui hay là lòng vị tha. Trong trường hợp của
cái lò củi là sức nóng, chính là chúng ta cần sức nóng để sưởi nhà,
chúng ta không cần khói. Nhờ cái catalido đó mà khói ra rất ít và sức
nóng ra rất nhiều. Chúng ta phải tu như thế nào để cho trong cái lò sưởi
của thân tâm nó cho ra nhiều từ bi, hỷ xả, an lạc và cho ra rất ít cái
tham sân si. Cũng giống như cái catalido, đó là sự tu tập của chúng ta,
sự quán chiếu của chúng ta, phương pháp điều trị những cái giận, những
cái buồn, những cái ẩn ức của chúng ta.
Khi đọc Freud, tôi nói cái sex không phải chỉ những cái ẩn ức về sinh
lý, mà là những cái giận của mình, những sự thất bại của mình, những cái
ước muốn của mình mà không thành tựu, nó đều nằm ở trong đó hết. Những
ước muốn không thành tựu của mình và mình bắt buộc con mình phải thực
hiện, trong cái hiện tượng projection. Thường thường chúng ta có những
cái ở trong người và muốn phóng chiếu lên người khác, do đó làm cho
người khác khổ là vì vậy. Chúng ta không thể muốn người khác phải thay
đổi và làm giống như là mình muốn, như vậy là chúng ta làm cho họ khổ.
Tu học là để chấm dứt những luân hồi đó, chấm dứt những tùy miên đó đi.
Đừng trút lại những gia tài nặng nề mà chúng ta đã tiếp nhận được của
những thế hệ khác vào trong đời sống của mình, lên trên con cháu của
mình tội nghiệp, như vậy là giải thoát cho chúng nó. Sự giáo dục
con chúng ta cũng vậy, chúng ta tu như thế nào là
phải dạy cho con cháu tu như thế đó. Như vậy là những tùy duyên đó mình
đã chuyển sang con cháu một ít rồi. Vì vậy nên khi chưa có con chúng ta
phải giải quyết tùy miên trước, có rồi thì phải tu theo Đại thừa, là
cùng tu chung với con để cùng nhau giải quyết và điều phục những tùy
miên. Có một điều tôi thấy cần phải nói, là những khổ đau, những thất
vọng của chúng ta, khi chúng ta thấy con đường đi rồi thì tất cả những
thứ đó trở thành ra rất ích lợI, nó đều trở thành ra nhiên liệu đốt lò
sưởi của mình. Như một người thợ mộc giỏi, người đó không bỏ đi bất cứ một cái gì
trong xưởng ông ta. Dăm bào ông cũng xài được, những miếng củi nhỏ ông
ta cũng xài được, xài được hết tất cả những cái đó. Cũng như tất cả
những lỗi lầm, những thất bại, những đau khổ của chúng ta, nếu chúng ta
biết được con đường, thấy được con đường tu đạo rồi thì tất cả những cái
đó đều trở thành ích lợi. Một người mà không có khổ đau đi trên con
đường đạo rất khó. Một người đã từng có khổ đau rồi và lấy cái khổ đau
đó làm chất liệu cho cuộc hành trình thì đi vững lắm. Thành thử chúng ta
đừng than trách là mình đã khổ đau nhiều trong quá khứ.
Xem tiếp...
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường. |
|
...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực
tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn
nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...)
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có
thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ
hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang
nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (...)
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các
nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc
thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới,
tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu
hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên
hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|