Jean Jacques Rousseau, người đã
viết ra tác phẩm nổi tiếng trên thế giới, Du Contrat social
(Bàn về Khế ước xã hội), có khẳng định trong Tập I chương 3 của
sách này đại ý rằng bạo lực không đẻ ra được pháp luật, người ta
chỉ bắt buộc phải phục tùng những sức mạnh chính đáng mà thôi. Tức
là sức mạnh phải có danh nghĩa chính đáng thì mới có thể được sử
dụng để cai trị. Nói cách khác, chính quyền có tính chính thống
thì mới được phép dùng sức mạnh để cưỡng hành, nghĩa là bắt dân
phải vâng lệnh. Người ta không thể không tự hỏi vậy tính chính
thống là gì? Đồng thời dịp này cũng muốn tìm hiểu xem tính chính
thống liên hệ với “chính thống dân chủ” ra sao? Trả lời những nghi
vấn nói trên đòi hỏi phải qui chiếu vào những kiến thức liên ngành
luật học, xã hội học, chính trị học. Bài viết dưới đây chỉ giới
hạn vào việc giới thiệu một cách tóm lược khái niệm chính thống
dân chủ và ghi lại một số sự việc liên quan tới khái niệm hãy còn
mới này trong văn hóa chính trị hiện đại của nguời Việt Nam. Để
tìm đồng thuận trên một danh nghĩa chung thanh toán độc tài xây
dựng dân chủ.
I. Đặt vấn đề chính thống
dân chủ
Từ thế kỷ trước, dân tộc Việt Nam
đã biểu lộ và bắt đầu thực hiện nguyện vọng thay đổi cách phân
công xã hội, từ phương thức nông-sĩ bước sang phương thức dân-chủ.
Ý nghĩa chính trị và pháp lý của biến chuyển này là việc quản trị
đất nước từ nay không còn dành riêng cho đẳng cấp sĩ phu như thủa
xưa nữa mà là trách nhiệm chung - trên nguyên tắc - của toàn dân.
Nhưng cuộc chuyển hóa lịch sử ấy đã gặp phải hai trở ngại lớn là
ngoại xâm và nội chiến.
1. Ba nước đã trực tiếp ảnh hưởng
sâu rộng đến cuôc chuyển hóa nói trên là Pháp, Nhật và Mỹ. Và từ
hơn một thế kỷ trước ba nước này, vì quyền lợi riêng, đã tiếp nối
nhau trong một thời gian khá dài, dưới nhiều hình thức, ngăn cản
bước tiến dân chủ hóa dự kiến. Những năm 2000 đầu tiên, trên đà
toàn cầu hóa, tình hình thế giới mới đã mở ra cho Việt Nam một vận
hội mới. Thế lực ngoại quốc đã không còn trực tiếp can thiệp được
vào nội trị của Việt Nam như trước (dù
hiểm họa gián tiếp can thiệp thi vẫn còn). Dân chủ là gì
nếu không phải là chế độ chính trị trong đó người dân nắm giữ và
hành sử chủ quyền quốc gia? Thiết tưởng bây giờ chính là lúc toàn
dân phải đứng lên chứng tỏ có bản lĩnh tiếp thu chủ quyền quốc
gia, trước đây đã bị các thế lực ngoại quốc chiếm đoạt lúc toàn
phần, lúc một phần.
2. Nội chiến đã xảy ra vì một mặt,
Đảng Cộng sản mượn danh nghĩa dân tộc và độc lập để bố trí cướp
doạt chủ quyền quốc gia là chủ quyền của toàn dân. Mặt khác, các
chính đảng quốc gia đã thất bại trong trong việc chống lại đảng CS
để giành lại chủ quyền đó cho dân, nên năm 1945 đã để mất cơ hội
giành độc lập vào tay đảng CS. Và miền Nam năm 1975 lại bị miền
Băc thôn tính. Đảng Cộng sản chiến thắng tự phong chức lãnh đạo,
tự cho mình quyền thiết lập trên cả nước một nền chuyên chính quan
liêu, thư lại, tham nhũng, tàn bạo và phi đạo lý chưa từng thấy
trong quốc sử. Giữa lúc nhân loại đã đoạn tuyệt được với dã man vì
đã bước qua được ngưỡng cửa của văn minh thì tập đoàn cộng sản cầm
quyền ở Việt Nam vẫn còn cai trị với tác phong thời Trung cổ. Nhân
quyền bị tước đoạt, dân quyền bị sang đoạt, có thể nói quyền sống
của toàn dân ở Việt Nam nằm trong tay tập doàn cai trị cộng sản
tuyệt thiểu số mà tham vọng không che dấu là cầm quyền không thời
hạn dưới mọi hình thức, kể cả cha truyền con nối. Rất may là làn
sóng toàn cầu hóa đang từng bước giải phóng cho dân chúng đồng
thời đang dồn tập đoàn cầm quyền cộng sản vào chân tường. Đây là
cơ hội cho các chinh đảng quốc gia cùng các hội đoàn tranh đấu
nhân quyền và dân chủ ở hải ngoại tiêp tay với các chính đảng quốc
gia và dân chủ ở trong nước mở cuộc phản công chính trị, chuyển
hóa độc tài sang dân chủ. Và đây cũng là cơ hội để các chính
đảng và tổ chức tranh đấu này gột rửa tâm lý vọng ngoại, ý thức
cho chính xác chức năng xã hội của mình, liên kết trên cơ sở chức
năng này với dân chúng, hình thành lực lượng dân chủ có khả năng
đánh bại độc tài.
3. Kinh nghiệm cho thấy trong quá khứ, người ta thường cho rằng
tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam là phải ưu tiên tranh đấu cho chế
độ đa đảng. Dĩ nhiên không thể có được dân chủ nếu sinh hoạt chính
trị của một nước hoàn toàn bị đặt dưới sự chi phối của một đảng
độc quyền cai trị. Nhưng, một là, dân chủ không phải chỉ là đa
đảng, và hai là, lấy quyền lực đảng làm mục tiêu đánh chiếm hàng
đầu là tìm giải pháp ở trên ngọn và như vậy sau cùng đã dọn đường
cho đảng tri, không phải cho dân chủ. Điều này hơn nửa thế kỷ cầm
quyền của Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh. Bởi vậy, trong vận
hội mới hiện nay, phải thay đổi thứ tự ưu tiên, lấy dân - thay vì
đảng - làm mục tiêu chiến lược. Đem dân vào cuộc đối đầu với độc
tài là đi đúng hướng thời đại đồng thời thỏa mãn nhu cầu cơ bản
của đất nước là thăng tiến người dân lên địa vi chủ thể của luật
quốc nội cũng như luật quốc tế về nhân quyền, tạo điều kiện cho
người dân đóng vai tác nhân của lịch sử. Lấy dân cũng là để xây
dựng lại và củng cố sự thống nhất dân tộc trên nửa thế kỷ đã bị
chủ trương đấu tranh giai cấp kịch liệt phá vỡ. Về điểm này, một
bộ phận mới của dân tộc, trên ba triệu người, đã ra đời ở hải
ngọai - một lãnh thổ mở rộng về mặt văn hóa và xã hội của một nước
Việt Nam mới. Nhân xã Việt mới này là một tiềm lực đang góp sức về
mọi mặt với chủ lực dân chủ ở trong nước để dương cao ngọn cờ dân
chủ, xiết chặt vòng vây độc tài trong một cuộc thử sức thư hùng
loại độc tài ra khỏi vũ đài chính trị Việt Nam.
Ba hướng hoạt động nói trên là ba
mặt của cuộc vận động dân chủ phải mở ra trong tình huống mới của
đất nước để tiếp tục cuộc tranh đấu dân chủ đã khởi đầu từ những
thập niên trước nhưng vẫn còn đang dẫm chân tại chỗ. Cho nó bước
được một bước tiến mới, cuộc vận động mới này phải bắt đầu lại từ
chỗ bắt đầu. Nghĩa là phải đặt lại và đặt đúng vấn đề chính
thống dân chủ..
II. Chính thống dân chủ: danh từ và khái niệm
1.Chính thống dân chủ là gi?
Chính thống là một tiếng Hán-Việt
cổ và it dùng trong ngôn ngữ chính trị Việt Nam hiện đại. Khi nó
đi kèm với tính tự “dân chủ” thì cụm từ “chính thống dân chủ” đã
trở thành rất mới vì những ngữ nghĩa mới của nó. Và như thế, ngoài
gốc Hán-Việt, chữ chính thống còn thêm gốc phương Tây.
Nghĩa chữ “chính thống” hiểu theo
gốc Hán-Việt và theo phép chiết tự thì
chữ chính (正)
thuộc bộ chỉ (止)
, hợp với chữ nhất (一) mà
thành chữ chính (正)
(止+一).
Về ngữ nghĩa, chữ
chính (正)
thuộc lọai chữ chỉ sự. Chữ nhất (一)
ở trên đầu chữ chính
(正)
biểu thị mục tiêu hay
phương hướng. Phù hiệu bên dưới là cái chân
(chữ túc (足),biến
thể thành chữ chỉ (止)
biểu thị ý nghĩa là cứ đi
thẳng để đạt được mục đích hay phương vị, không thiên, không
trệch. Chữ thống (統)
nằm trong bộ
mịch (糸),
hợp với chữ sung (充)
mà thành chữ thống (統)
(糸
+
充) .
Thống là lọai chữ hình
thanh, mượn hình ảnh những sợi tơ trong bó tơ, nghĩa của chữ
mịch (糸),
rồi mượn âm của chữ sung (充)
mà đọc thành thống (統).
Chữ thống hàm ý dây tơ họp thành bó tơ, sau nghĩa mở rộng
thêm có nghĩa là thứ gì họp thành một mối, đầu mối của mọi việc
(như trong các từ kép thống nhất, hệ thống, tổng thống, thống lĩnh
v.v…).
Theo những nghĩa tầm
nguyên của hai chữ chính và thống ở trên thì từ kép
chính thống không thể
diễn đạt điều gì khác hơn là hiện tượng cách các triều đại vua
chúa ngày xưa truyền cho nhau (vương triều tương thừa), không có
nội dung của một khái niệm với những thuộc tính có tên gọi là
tính chính thống hay chính thống. Hơn nữa, ngày xưa ở
Trung Quốc hay ở Việt Nam không có cụm từ “chính thống dân chủ”
bởi lẽ rất giản dị là tại hai nước này chế độ dân chủ chưa ra đời.
Trong ngôn ngữ chính trị hiện đại, cụm từ chính thống dân chủ đã
được dùng để dịch mấy thuật ngữ chính trị học, luật học, xã hội
học phương Tây.
Dưới góc nhìn phương Tây này thì
những chữ tiếng Pháp légitimité, tiếng Đức legitimitat,
tiếng Anh legitimacy, tiếng Tây Ban Nha legitimidat,
tiếng Ý legitimita được dịch ra tiếng Việt khi là tính
chính thống khi là tính chính đáng. Ở đây xin giới hạn
vào hai chữ Légitimité của Pháp và chữ Legitimacy của Anh. Tự điển
Tàu dịch chữ tiếng Anh Legitimacy là chính thống tính,
sang tiếng Hán-Việt thành tính chính thống và dịch chữ
tiếng Pháp légitimité là tính hợp pháp, tính
chính thống. Từ điển Việt Nam dịch chữ légitimité là
tính chính đáng và dành chính thống cho chữ
orthodoxe. Cũng vẫn theo tự điển Việt Nam thì chữ tiếng Anh
legitimacy có nghĩa là tính hợp pháp, tính chính đáng.
Không rõ vì lý do nào mà tự điển của ta khi dịch những chữ
légitimité, legitimacy lại đặc biệt khác tự điển của Tàu như
vậy (cần chú ý rằng chữ đáng - môt âm khác của chữ đương
- cũng là chữ Hán). Nhưng điểm đáng nói là một mặt, chữ chính
đáng không đủ rộng để phản ánh được nội dung của hai chữ
légitimité và legitimacy và mặt khác, khái niệm phương Tây về
legitimacy và légitimité phân biệt tính hợp pháp
(légalité) với tính chính thống (légitimité) trong khi tự
điển của ta không phân biệt như thế. Do đó tưởng nên dùng tính
chính thống thay vì tính chính đáng vì chính thống
thì có tiêu chuẩn rõ rệt trong khi chính đáng không có.
Để dễ phân biệt được sự liên hệ
cũng như sự khác biệt giữa hai chữ chính thống và chính
đáng người ta có thể đặt ra một loạt câu hỏi và tìm cho chúng
những câu trả lời thích đáng. Chế độ chính thống nghĩa là
gi? Chế độ chính thống nghĩa là một chế độ chính đáng. Như
thế nào là một chế độ chính đáng ? Là một chế độ có tính
chính thống. Một chính quyền phải có những điều kiện nào để
được coi là có tinh chính thống? Có hai loại điều kiện :
pháp lý và chính trị. Điều kiện pháp lý là phải hợp pháp tức là
phù hợp với pháp luật. Nhưng không phải là bất cứ loại pháp luật
nào mà phải là loại pháp luật xuất phát từ ý chí chung của tòan
dân (volonté générale) Nếu không như thế thì chính quyền nào cũng
đều có tính chính thống, kể cả chính quyền độc tài. Ngoài ra, lại
còn phải thỏa mãn những điều kiện chính trị theo đó chinh quyền ấy
được dân tự nguyện tuân lệnh, không phải dùng bạo lực khủng bố để
ép buộc dân phải theo. Một chính quyền không hội đủ hai loại điều
kiện đó thì không được kể như có tính chính thống.
2. Hai điều kiện trên đây là để xác
định về tính chính thống nói chung. Nếu một chế độ nào mà có được
tính hợp pháp đồng thời cũng còn được dân chúng thuận lòng vâng
lời thi chế độ ấy có thể coi (hay tạm coi) là chính thống. Nhưng
khi nói chính thống dân chủ thì các tiêu chuẩn để đánh giá
chế độ về tính chính thống tất phải phức tạp hơn do sự đòi
hỏi của dân chủ. Bởi vậy, hai mặt hợp pháp, lòng tuân phục tự
nguyện của dân không thôi chưa đủ. Chế độ ấy muốn được kể là một
chế độ dân chủ có tính chính thống thì phải thỏa mãn
được hai yêu cầu “hợp pháp” và “dân chủ” theo nghĩa chủ quyền quốc
gia “thuộc về” và “được bảo đảm.đích thực thuộc về” toàn dân như
là một “khối”, một “thực thể” có “ý chí’ gọi là “ý chí chung”
(volonté générale) để tự nó - hay qua trung gian những người do
chinh nó lựa chọn - hành động. Nếu không được vậy thì không thể
coi là chế độ ấy có tính chính thống. Câu hỏi cần đặt ra
hiện nay cho Viêt Nam là chế độ xã hội chủ nghĩa (cộng sản) đương
hành có tính chính thống của một chế độ dân chủ để
có danh nghĩa mà cầm quyền không?
III. Quá trình biến chất
từ chính thống biến thành phi chính thống
1. Chính thống dân chủ ở Việt
Nam đã bị mất hai lần.
Lần thứ nhất vào năm 1946. Tháng 8
năm 1945, Việt Minh (bộ phận công khai của Đảng Cộng sản VN) tổ
chức cướp chính quyền, lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim của chế độ
quân chủ. Vua Bải Đại đã tự ý thoái vị. Các đảng phái quốc gia đã
không mở ra cuộc tranh chấp võ trang với Việt Minh, chỉ ra mặt
công khai đối lập chính trị. Phe cộng sản tim mọi cách để che dấu
tối đa thực chất cộng sản của mình, thậm chí không ngần ngại tuyên
bố giải tán Đẳng cộng sản. Ngoài ra lại gây ấn tượng rõ rệt, thông
qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là đi theo con đường dân chủ
phương Tây thành lập Cộng hòa dân chủ. Dưới áp lực của chính quyền
Tưởng Giới Thạch đồng thời trước mối đe dọa người Pháp trở lại tái
chiếm Đông Dương, các chính đảng của cả hai phe quốc cộng đã thỏa
thuận hợp tác trong hai khuôn khổ chinh phủ (Liên Hiệp) và quốc
hội 1946 với 70 ghế dành cho đại biểu của Việt Nam Cách Mệnh Đồng
Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng theo thủ tục thuận nhận
(cooptation, co-op(ta)tion). Về phía dân chúng không có sự ủng hộ
được biểu lộ rõ rệt nhưng cũng không có sự bày tỏ chống đối. Nói
cách khác, dân chúng chấp nhận vâng lệnh chính phủ đương quyền lúc
đó. Và chính phủ này, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, với bản Hiến
pháp 1946 là một chính quyền hợp pháp. Khách quan mà xét, dưới ánh
sáng luật học phương Tây, chinh quyền Liên Hiệp 1946 có tính
chính thống tạm coi là chính đáng để cầm quyền vào thời
điểm đến gần cuối năm 1946. Vẫn biết rằng - như lịch sử những năm
kế tiếp đã chứng tỏ - Cộng sản Việt Nam không thật lòng thiết lập
dân chủ mà chỉ có bước lùi chiến thuật với ẩn ý bố trí trong tương
lai tiến lên độc tài toàn trị. Nhưng muốn hay không muốn, cũng
không thể không nhìn nhận rằng trên thực tế quả thật đã có hiện
tượng chính thống hiểu theo nghĩa có hai tiêu chuẩn hợp pháp và tự
nguyện vâng lệnh của dân. Cần nói thêm rằng tính chính thống
này đã chỉ tồn tại một thời gian ngắn và phe cộng sản đã mượn danh
nghĩa kháng chiến giành độc lập để từng bước bóp chết bào thai dân
chủ trước khi nó đủ điều kiện xuất hiện dưới dạng định chế dân
chủ. Vì thế nền chính thống 1946 chỉ là một nền chính thống
thực tế (de facto) và nó đã mất khi Đảng Cộng sản mượn danh
nghĩa kháng chiến để bắt đầu tiến trình 34 năm từng bước xóa bỏ
hẳn dân chủ và chính thức thiết lập chuyên chính vô sản năm 1980.
Lần thứ hai chính thống dân chủ lại
bi mất ở Việt Nam là vào giai đọan đầu thập niên 1960. Sau
khi Hiệp Định Genève 1954 được ký kết, nước Việt Nam được chia đôi
và thuộc vào loại ngôn ngữ quốc tế gọi là một nước có hai quốc gia
thực tế, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, độc tài cộng sản, ở miền Bắc
và Việt Nam Cộng Hòa, dân chủ tự do, ở miền Nam. Miền Nam vào thời
điểm này có thể nói là điểm hẹn của các xu thế dân chủ. Hơn một
triệu người đã rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam tìm tự do. Tại miền
Nam, môt lần nữa chế độ quân chủ, tuy đang bắt đầu chuyển dần sang
lập hiến, lại bị hủy bỏ để được thay thế bằng chế độ cộng hòa dân
chủ. Nhân dân miền Nam trong một cuộc trưng cầu dân ý đã gần như
đồng thanh lựa chọn thể chế dân chủ. Nước Mỹ, đệ nhất cường quốc
dân chủ trên thế giới, một trong những nước đã đánh thắng độc tài
phát xít, quân phiệt lại công khai yểm trợ việc dân chủ hóa Việt
Nam. Có thể nói chính quyền Ngô Đình Diệm, ra đời năm 1956, có đầy
đủ tính chính thống của một nước dân chủ. Tiếc thay vì tham vọng
cá nhân và có thể vì một vài lý do khác nữa, đầu thập niên 1960
chính quyền Ngô Đình Diệm đã đổi hướng sang độc tài cá nhân và
đánh mất đi tính chính thống của những năm cuối thập niên 1950.
Nền Đệ nhị Cộng hòa sau đó thoát thai từ một cuộc Cách mạng để
tiếp tục cầm quyền đã không có được những thành tích của một cuộc
cách mạng thành công. Mặt khác, vì nhu cầu chiến tranh, vì phá
hoại gia tăng của cộng sản xâm nhập tư miền Bắc, và nhất là vì
cuộc bao vây thành thị của nông thôn do cộng sản tiến hành, sinh
hoạt chính trị dân chủ đầy đủ đã không có ở miền Nam, chính quyền
quân nhân rút lại chỉ còn là bộ máy quản trị một ngân sách ngoại
viện để theo đuổi chiến tranh.
Việt Nam, mặc dầu vua Bảo Đại thoái
vị và dân chúng, chính đảng hai lẩn tạm thời đồng thuận xây dựng
dân chủ, đã chỉ rơi vào tình trạng không có chính quyền có tính
chính thống dân chủ. Đảng cộng sản đã ngang nhiên tự đưa mình lên
địa vị chủ nhân ông đất nước dưới ngọn cờ độc tài toàn trị. 31 năm
đã trôi qua kể từ khi tiếng súng ngưng nổ trên cả nước mà đảng độc
tài này vẫn còn tại chức. Nhờ ở nơi nó từ đầu (1945), cố tình đặt
sai chính thống dân chủ rồi lập mưu sang đoạt dân chủ để tiếp tục
cầm quyền toàn trị. Trong khi đó,
phe chống đối đã không xây dựng và phát huy được chính thống dân
chủ, nghĩa là cũng đi lầm hướng dân chủ.
2. Chính thống dân chủ ở Việt
Nam đã bị đặt sai theo hai cách.
Một đằng Hà Nội một mực chủ trì
rằng chính quyền cộng sản có tính chính thống đương nhiên,
khỏi cần phải biện minh.
Vì mấy lý do sau đây.
Thứ nhất, Đảng cộng sản đã đánh thắng mấy đế quốc để giành độc lập
cho đất nước. Thứ nhì, chính quyền cộng sản hiện nay là bước quá
độ trong tiến trình đi lên xã hội chủ nghĩa do chủ nghĩa
Mác-Lê-nin - chân lý tuyệt đối của thời đại, xu thế tiến bộ tất
yếu của loài người - dự liệu và Đảng cộng sản Việt Nam đang thực
hiện. Thứ ba, tuyệt đại đa số dân chúng đã chấp nhận quyền cai
trị của Đảng cộng sản. Thứ tư, Đảng này đã cai trị bằng luật pháp
để tạo dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lập luận này
thật ra không có cơ sở để đứng vững. Trước hết, cuộc chiến tranh
thu hồi độc lập là công lao của toàn dân, Đảng cộng sản đã giành
lấy cho riêng mình ngọn cờ Độc lập để đòi cầm quyền không thời
hạn. Ở nước Anh, sau cuộc đệ nhị thế chiến, không ai có thể phủ
nhận công lao vĩ đại của Thủ tướng Winston Churchill, vị cứu tinh
của dân chúng Anh, thế mà khi ra tranh cử ông và đảng của ông vẫn
thất cử. Đâu có phải hễ chiến thắng là đương nhiên được phép cầm
quyền. Ở nước Mỹ cũng vậy, cưu Tổng thống George Herbert Walker
Bush, người anh hùng chiến thắng trong trận đánh Iraq để giải
phóng Koweit, năm 1992 ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai đã bị
Bill Clinton đánh bại. Về cách lập luận mượn chủ nghĩa Mác Lê-nin
để biện minh cho tính chính thông thì ý thức hệ này đã không còn
những ánh hào quang Cách mạng Tháng Mười của đầu thế kỷ trước,
nhất là cuối thế kỷ này nó lại phá sản khi cả hệ thống chính
quyền cộng sản ở Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ. Bước sang địa hạt
pháp lý, tất cả những chính quyền cộng sản nối tiếp nhau cai trị
đất nước từ 1945 đến nay đều dựa vào bầu cử gian lận. Và để đương
nhiên cầm quyền, Đảng cộng sản đã dùng bạo lực khủng bố kìm kẹp
dân chúng, áp đặt chế độ độc tài toàn trị. Nếu muốn nói rằng chế
độ ấy có tính chính thống thì đó không phải là chính thống dân chủ
mà là chính thống cộng sản độc tài.
Không phải chỉ riêng
những người cộng sản mới đặt sai vấn đề chính thống dân chủ. Những
người thuộc hàng ngũ dân chủ - ở đây chỉ bàn riêng về người Việt ở
hải ngọai - cũng cần phải xét lại quan điểm của mình về vấn đề
này. Trong những năm trước đây, khi cuộc chiến tranh lạnh chưa
hoàn toàn chấm dứt, đương nhiên những người tranh đấu cho dân chủ
phải giữ vững lập trường chống cộng. Nhưng bây giờ, chiến tranh
lạnh đã nhường bước cho toàn cầu hóa thì “chống” phải đi đôi với
“xây” và “xây”, trên nguyên tắc, có thế quyết định hơn “chống”.
Nói cách khác, trong hiện tình, chủ trương chống độc tài cộng sản
để thay thế bằng các thứ dân chủ hạn chế - dân chủ quân nhân trị
hay độc tài không cộng sản - không còn là giải pháp thích hợp nữa.
Chỉ có con đường dân chủ thực sự, dân chủ tiến bộ mới có hy vọng
chiến thắng độc tài cộng sản để đưa đất nước ra khỏi thảm trạng
nghèo túng, chậm tiến, toàn trị mất nhân phẩm và ngày càng tụt
hậu.
3. Đã đặt sai thì
phải đặt lại cho đúng.
Những bài học “chính
thống” và “không chính thống” trong quá khứ ở Việt Nam
đã mang lại cho người tranh đấu dân chủ hiện nay những kinh nghiệm
vận động mới. Muốn có tính chính thống dân chủ trước hết
phải chấm dứt được nạn dân chủ giả mạo, tức là nạn độc tài đội lốt
dân chủ. Khác với những cuộc vận động trước, cuộc vận động chinh
thống dân chủ hậu toàn trị phải nhằm đạt được bốn mục tiêu:
Một, chính thống dân
chủ đòi hỏi dân chủ thực sự, ở đây và ngay tức khắc, không thể
đình hoãn. Hai, dân chủ bây giờ là dân chủ gắn liền với “dân” chứ
không phải với “đảng”, dân vừa là đối tượng của dân chủ vừa là tác
nhân tạo ra dân chủ. Ba, có được chính thống rồi còn phải tiếp tục
chính thống hóa thường xuyên thì mới duy trì được những tính chính
thống đã có. Chính thống hóa có nghĩa là cách cai trị phải là sự
thể hiện dân chủ. Bốn, vì toàn dân không thể trực tiếp đứng ra cai
tri cho nên phải cử đại diện, do đó quyền tư do lựa chọn phải được
tuyệt đối tôn trọng thông qua những cuộc bầu cử phổ thông đầu
phiếu, tổ chức trong khuôn khổ tự do tranh cử. Quyền tự do tranh
cử là quyền dân chủ cơ bản và để thực thi quyền này cần phải có
một loạt những quyền tự do phụ trợ khác như tự do ngôn luận, tự do
hội họp, tự do lập hội, lập đảng, tự do đi lại v.v…nói tóm lại
những nhân quyền, dân quyền đã được luật quốc tế về nhân quyền
công nhận, liệt kê và bảo đảm.
Tính chính thống của
một chế độ không những là tư tưởng trên bình diện khái niệm trừu
tượng mà còn phải là định chế được thiết lập trong thực tiễn để
đích thực có dân chủ./.
Trần Thanh Hiệp