1.Dẫn nhập
Con người sinh ra có
trí não, khả năng nhận thức và lý luận, nhu cầu diễn đạt tư tưởng,
tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin. Tự do thông tin và được
thông tin rất cần thiết vì nó giúp con người hiểu biết sự thật, mở
mang kiến thức, phát huy trí tuệ, phát triển tri thức. Nói cách
khác, nó cần cho sự phát triển con người và đất nuớc. Hoạt động
thông tin, công tác thông tin, trao đổi thông tin là huyết mạch
của đời sống chính trị, dân sự, văn hóa, kinh tế, xã hội của lòai
người, các cộng đồng và các dân tộc.
Đi từ khởi thủy của
thông tin chúng ta thấy thực chất của thông tin trước hết là ý
nghĩ, tư tưởng của con người. Trước tự do thông tin (liberté
d'information, freedom of information) đã có tự do tư tưởng
(liberté d'opinion, de pensée/freedom of opinion, of thought)
và tự do diễn đạt tư tưởng (liberté d'expression, freedom of
expression). Đứng về mặt thực tiễn, tự do diễn đạt tư tưởng là
nồng cốt, tự do thông tin là biểu hiện tượng trưng nhất. Tự do
thông tin, tự do diễn đạt tư tưởng và tự do tư tưởng có những quan
hệ khăng khít.
Ngày nay tự do thông
tin đã trở thành một giá trị cơ bản, một quyền tự nhiên, phổ quát
của con người. Quyền thông tin và tự do thông tin là hai cụm từ
thường được hiểu như có nội dung giống nhau. Quyền thông tin hàm ý
quyền tự do thông tin. Khắp nơi trên thế giới, tự do thông tin đã
được thừa nhận hoặc tối thiểu không bị chống đối trên nguyên tắc.
Hầu như không có chính quyền quốc gia nào chính thức và công khai
bác bỏ quyền tự do thông tin và được thông tin của người dân.
Tự do thông tin có
nhiều nét tích cực rõ rệt, chẳng hạn nó vừa là một điều kiện vừa
là một đảm bảo cho việc thực hiện và duy trì sinh hoạt dân chủ, sự
công bằng trong xã hội, sự bình đẳng giữa con người. Nó là một
công cụ rất hiệu quả trong việc chống tham nhũng, quan liêu, lãng
phí. Một chính quyền bắt buộc phải tôn trọng và thực thi tự do
thông tin thì mới có thể xây dựng một hệ thống quản lý quốc gia
tốt (bonne gouvernance, good governance), một tổ chức nhà
nước trong sạch có tinh thần phục vụ và trách nhiệm. Một quốc gia
muốn đi vào thời đại thông tin hậu công nghiệp không thể gián tiếp
hoặc trực tiếp bóp nghẹt tự do thông tin, rào cản các hoạt động
thông tin. Một xã hội thông tin (société de l'information,
information society) và cao hơn nữa một xã hội tri thức
(société du savoir, knowledge society) là những xã hội có
truyền thống tôn trọng và bảo đảm tự do tư tưởng, tự do diễn đạt
tư tưởng và tự do thông tin.
Chế độ chính trị Việt
Nam hiện nay là một chế độ độc đảng trong đó đảng CSVN không những
thống nhất quyền lực nhà nước, tập trung và nắm giữ cả ba quyền
hành pháp, lập pháp và tư pháp mà còn chiếm đoạt luôn cả quyền tự
do thông tin và được thông tin của người Việt. Tất cả các cơ sở và
phương tiện thông tin đều là sở hữu của Đảng và do nhà nước kiểm
sóat. Chính quyền kiềm tỏa bằng mọi cách tự do tư tưởng, ngăn cấm
người dân tự do diễn đạt tư tưởng, tự do thông tin. Điều ngược
ngạo là họ lại luôn luôn cổ võ xây dựng kinh tế tri thức, đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, vươn lên xã hội tri thức!
2.Tự do thông tin
và tự do diễn đạt tư tưởng
Diễn đạt tư tưởng là
một nhu cầu tự nhiên của con người. Bởi vậy, quyền tự do diễn đạt
tư tưởng đã trở thành một quyền dân sự cơ bản, một nguyên tắc sinh
hoạt phổ quát. Tự do diễn đạt tư tưởng (liberté d'expression,
freedom of expression) bao hàm tự do tư tưởng (liberté
d'opinion, de pensée/freedom of opinion, of thought) và tự do
thông tin (liberté d'information, freedom of information).
Tự do diễn đạt tư
tưởng là một khái niệm đã có từ rất lâu. Các triết gia Hy Lạp đã
có những suy nghĩ, ý tưởng về tự do diễn đạt tư tưởng trước công
lịch nhiều thế kỷ. Tuy nhiên quyền tự do diễn đạt tư tưởng chỉ bắt
đầu được định rõ nghĩa và đi vào thực tế trong đời sống hàng ngày
của người dân vào thế kỷ 18. Năm 1789, Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
và Dân Quyền (Déclaration des Droits de l'Homme et du Citoyen, 26
tháng 8 năm 1789) của nước Pháp đã ghi chép rành mạch rằng mọi
công dân có các quyền tự do tư tưởng, tự do diễn đạt tư tưởng, tự
do thông tin bằng lời nói, văn viết, ấn phẩm ("Nul ne peut être
inquiété pour ses opinions ...
La libre
communication des pensées et des opinions est un des droits les
plus précieux de l'Homme. Tout citoyen peut donc parler, écrire,
imprimer librement.").
Ở Hoa Kỳ, cùng năm 1789, bản Hiến Pháp đã được bổ sung để thừa
nhận một cách rõ rệt các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
("Congress shall make no law abridging the freedom of speech or of
the press"). Tu chính số
một của Hiến Pháp Hoa Kỳ bảo đảm các quyền tự do diễn đạt tư
tưởng, tự do thông tin và được thông tin.
Tự do thông tin và được thông tin
có nghĩa tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin. Tự do
thông tin xuất phát từ tự do diễn đạt tư tưởng và cả hai liên hệ
chặt chẽ với tự do tư tưởng, Tự do thông tin là đảm bảo cho sự
phát huy cũng như sự tồn tại của tự do tư tưởng. Cần phải có tự do
thông tin thì tự do tư tưởng mới biểu hiện, công tác tư tưởng mới
được tăng cường, mới có thể phát huy trí tuệ, phát triển tri thức.
Hoạt động thông tin có nhiều dạng
như văn nói, văn viết, hình ảnh, điện ảnh, kịch nói, kịch hát. Các
phương tiện hoặc kỹ thuật thông tin có nhiều loại, từ báo chí, ấn
phẩm, điện thoại, tới phát thanh, truyền hình, Internet. Đặc biệt
trong khỏang ba thập niên vừa qua, công nghệ thông tin (tin học)
nói riêng, xã hội thông tin (tin học) nói chung đã phát triển mau
chóng. Nhiều quốc gia có truyền thống tự do thông tin đã đi vào
thời đại thông tin (tin học) hậu công nghiệp. Tại các nước này, tự
do thông tin đã giúp thông tin trở thành một tư liệu có giá trị
kinh tế, tạo trị gía gia tăng, góp phần tiến tới dân giầu, nước
mạnh. Con người tìm kiếm thông tin vì cần biết sự thật. Tự do
thông tin đích thực đòi hỏi những cơ sở hoặc cơ quan thông tin
phải có tính độc lập, khách quan.
Tự do thông tin có hai biểu trưng
phổ biến nhất là tự do ngôn luận (liberté de parole, freedom of
speech) và tự do báo chí (liberté de presse, freedom of the
press). Tư do ngôn luận và tự do báo chí là những quyền dân sự
cơ bản. Tự do tư tưởng, tự do diễn đạt tư tưởng, tự do thông tin,
tự do ngôn luận và tự do báo chí là những nhân quyền và dân quyền
trở thành nguyên tắc hầu như trên tòan thế giới. Các quyền này đã
được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận năm 1946, ghi chép trong
bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948, trong Công Ước Quốc Tế
về các Quyền Chính Trị và Dân Sự năm 1966 và trong bản điều lệ
sinh hoạt của nhiều tổ chức và hiệp hội các quốc gia như
Commonwealth, Organisation of American States, Conseil de
l'Europe, Union Africaine. Trong khỏang hơn hai thập niên vừa qua,
tình trạng các quyền dân sự và chính trị ở nhiều nước đã được tăng
cường nhằm bảo vệ và bảo đảm hơn nữa các quyền tự do diễn đạt tư
tưởng và tự do thông tin (1). Các quyền này hoặc được ghi chép
rành mạch trong hiến pháp hoặc được trở thành những điều lệ trong
một hiến chương về các quyền dân sự và chính trị có giá trị cao
hơn hiến pháp. Thực tế cho thấy tự do thông tin là một giá trị cơ
bản được thừa nhận và thực thi tại tất cả các quốc gia dân chủ,
văn minh và các xã hội công bằng, tiến bộ. Tự do thông tin là một
điều kiện tiên quyết giúp người dân hiểu biết sự thật về môi
trường chung quanh tác động lên cuộc sống của mình, về chính quyền
nhà nước, hành chính địa phương, sinh hoạt chính trị quốc gia, về
thực trạng kinh tế-xã hội trong nước và những tiến bộ của xã hội
lòai người. Mọi sự giới hạn hoặc kiểm sóat thông tin làm thông tin
không còn được người dân tin cậy. Thông tin bị kiểm duyệt là thông
tin không đầy đủ, không trung thực. Thông tin một chiều, thông tin
xuất phát từ một nguồn duy nhất là thông tin không độc lập, không
khách quan. Các nhà cầm quyền vi phạm hoặc chà đạp tự do thông tin
đều có thâm ý lạm dụng quyền lực nhà nước, bất chấp hiến pháp và
luật pháp, các quy định hành chính, các thủ tục và các thông lệ.
Công dân của một nước, thành viên của một tổ chức hoặc một tập thể
cần phải có tự do thông tin và được thông tin bằng mọi phương tiện
và kỹ thuật thì mới có thể "biết, bàn, làm và kiểm tra" thực sự,
một cách tích cực căn cứ trên thông tin đầy đủ, khách quan, trên
sự thật không bị bóp méo.
3.Vai trò đối trọng của tự do
thông tin
Trong khuôn khổ các sinh hoạt chính
trị, đặc biệt dưới khía cạnh quan hệ đối tác giữa người dân và
chính quyền nhà nước, quyền tự do thông tin có một vai trò và ảnh
hưởng vô cùng quan trọng. Tự do thông tin và được thông tin là
điều kiện không có không được để công dân thực sự là những người
tự chủ, chủ động "biết, bàn, làm và kiểm tra". Công dân không có
tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin sẽ là những người
thiếu hiểu biết, có khả năng nhận thức yếu kém, sẽ chỉ là những bề
tôi bị trị, thấp cổ bé miệng, phải chấp nhận quan hệ xin-cho với
chính quyền. Như vậy, vị thế, tiếng nói và ảnh hưởng của người dân
sẽ yếu mòn và dần dần tan biến trong khi quyền uy, quyền lực của
chính quyền gia tăng.Tình trạng này là đất mầu mỡ cho những nhà
lãnh đạo lạm dụng quyền lực nhà nước, sinh ra nạn tham nhũng hối
lộ, quan liêu cửa quyền, biển thủ lãng phí và một chuỗi những tiêu
cực khác.
Tự do thông tin và được thông tin
không phải là một mục đích mà là một công cụ chủ chốt mà người dân
cần dùng để bảo vệ, bảo tồn và củng cố các nhân quyền và dân quyền
nói chung. Tự do thông tin tự nó không phải là quyền lực tựa như
các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, nhưng là chất liệu có
khả năng tạo quyền, tạo áp lực và ảnh hưởng. Do đó, quyền tự do
thông tin được ví như một quyền lực gọi là "đệ tứ quyền". Khác với
các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, "đệ tứ quyền" là không
phải là một loại quyền có vai trò tạo ra những điều lệ hoặc quy
định có giá trị pháp lý và có tính cách cưỡng chế mà người dân
phải tuân thủ. Thành phần biểu trưng cho "đệ tứ quyền" là các cơ
sở thực hiện công tác thông tin, các cơ quan hoạt động thông tin,
nắm giữ các phương tiện thông tin. Trong một chế độ dân chủ tự do,
"đệ tứ quyền" không bao giờ bị nhà nước nắm giữ, kiểm sóat hoặc
kìm kẹp vì nó có vai trò đối trọng, kiểm sóat quyền lực nhà nước.
Người dân phải có tự do thông tin thì mới có thể sinh hoạt một
cách dân chủ, bảo đảm sự cân bằng vị thế giữa nhân dân và chính
quyền. Tóm lại, tự do thông tin là một thuộc tính của các chế độ
dân chủ. Nó có tác dụng một mặt, phòng ngừa mọi sự lạm dụng quyền
lực từ phía nhà nước, dù là hành pháp, lập pháp hay tư pháp, và
mặt khác, bảo đảm sự phân quyền và đối trọng cần thiết giữa ba
quyền lực nhà nước này.
Bởi vì tự do thông tin là "đệ tứ
quyền" cho nên các nhà lãnh đạo độc tài luôn luôn có khuynh hướng
và tìm cách tước đoạt quyền tự do thông tin và được thông tin của
người dân. Chúng ta nhận thấy tất cả các chế độ độc đảng, tòan trị
đều biến hành động vi phạm và chà đạp tự do thông tin của họ thành
hệ thống và chính sách. Trong các chế độ này, nhà nước tập trung
và độc quyền các cơ sở và phương tiện thông tin như báo chí, ấn
phẩm, phát thanh, truyền hình. Chính quyền kiểm sóat và kiểm duyệt
thông tin, thiết lập hệ thống thông tin một chiều, khi thổi phồng
thông tin, khi che giấu thông tin.
4.Tự do thông tin
và sinh hoạt dân chủ
Trong tiến trình phát
triển của lòai người, dân chủ, văn minh và tiến bộ luôn luôn gắn
liền với tự do thông tin. Trong những chế độ dân chủ, các chính
quyền đều bảo đảm và tôn trọng tự do thông tin. Ở đâu có tự do
thông tin, ở đó có sinh hoạt dân chủ. Người dân cần quyền tự do
thông tin vì có một yêu cầu cơ bản, tự nhiên là hiểu biết sự thật.
Các chính quyền tôn trọng các giá trị dân chủ tự do luôn luôn bảo
đảm những điều kiện thuân lợi cho người dân tiếp nhận và phổ biến
thông tin trong mục đích trước là tìm kiếm sự thật, sau là phát
triển con người, tiến lên văn minh tiến bộ. Ngược lại các nhà lãnh
đạo độc tài đều chủ trương độc quyền và kiểm sóat thông tin. Chế
độ càng độc tài thì nhà nước càng chà đạp tự do thông tin, cụ thể
là tự do ngôn luận và tự do báo chí. Những biện pháp như thông tin
một chiều, bưng bít và kiểm duyệt thông tin, uốn nắn và bịa đặt
thông tin, ngăn cấm những tư tưởng khác biệt, cô lập những tiếng
nói độc lập biểu hiện sự lạm dụng quyền lực của các chính quyền
độc tài. Trong những điều kiện này nguyên tắc phân quyền và đối
trọng của sinh hoạt dân chủ không thể và không bao giờ thực hiện
được.
Tự do thông tin ảnh
hưởng sâu đậm lên tất cả các sinh hoạt của con người. Trong các
chế độ dân chủ, tự do thông tin là một nguyên tắc cơ bản của các
sinh hoạt chính trị và dân sự, kinh tế và thương mại, văn hóa và
xã hội. Nó thường được ví như "dưỡng khí" cần thiết cho sinh hoạt
dân chủ tồn tại và phát triển. Dù định nghĩa dân chủ dưới bất cứ
khía cạnh nào, tự do thông tin luôn luôn gắn liền với dân chủ. Tự
do thông tin hoặc là yếu tố hợp thành của chế độ dân chủ, hoặc là
điều kiện cần để có sinh hoạt dân chủ, hoặc là chất liệu giúp các
định chế và cơ chế dân chủ tăng tiến, phát huy văn hóa và giá tri
dân chủ.
Dân chủ có nghĩa
"quyền lực của nhân dân". Trước hết, người dân cần tạo quyền cho
bản thân, nâng cao vị thế của mình. Họ có nhu cầu bảo vệ quyền lực
nhỏ bé của mình trong quan hệ với quyền lực nhà nước to lớn gồm có
hành pháp, lập pháp và tư pháp. Từ đó chúng ta thấy tự do tiếp
nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin vô cùng quan trọng để người
dân có điều kiện kiểm tra, tạo áp lực và ảnh hưởng, trở thành
những công dân tự chủ, chủ động tham gia, đóng góp vào các sinh
hoạt chính trị và dân sự, các công tác xã hội, các hoạt động kinh
tế, văn hóa ở mọi cấp bậc, địa phương hoặc quốc gia. Sinh hoạt dân
chủ có nhiều dạng, thí dụ như dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp,
dân chủ gián tiếp. Trong mọi trường hợp, người dân chủ động tham
gia sinh hoạt dân chủ luôn luôn cần thông tin để hiểu biết, bàn
bạc, đối thoại, đề nghị hoặc góp ý. Sinh hoạt dân chủ có chất
lương và kết quả tốt khi quyền tự do thông tin được tôn trọng.
Nguyên tắc phân quyền và đối trọng giữa hành pháp, lập pháp và tư
pháp được bảo đảm. Quan hệ giữa người dân và nhà nước có sự cân
bằng cần thiết. "Đệ tứ quyền" có vai trò đối trọng và kiểm tra
chính quyền. Cử tri có tự do thông tin thì có thể cân nhắc hơn kém
khi chọn lựa bầu người đại diện cho mình, hoặc so sánh lợi hại khi
cần nhận định đường lối của nhà nước, đánh gía các biện pháp của
chính quyền, kiểm tra các hành động của các viên chức hành chính
công.
Sinh hoạt dân chủ đòi
hỏi các định chế và cơ chế chính trị phải có tính trong sáng, minh
bạch, thượng tôn hiến pháp và luật pháp, thực hiện công bằng và
bình đẳng. Ngòai ra cần phải có sự quân bình trong sự phân chia
quyền lực nhà nước giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp. Để đảm bảo
các đặc tính này cần phải có tự do thông tin. Tự do tiếp nhận, phổ
biến và tìm kiếm thông tin giúp mgười dân biệt rõ sự thật về các
sinh hoạt chính trị ở mọi cấp bậc. Nó là một vũ khí rất hiệu quả
để ngăn ngừa sự tập trung hoặc sự lạm dụng quyền lực, loại trừ các
hành vi phi pháp, quan liêu, tùy tiện, bất công. Nó giúp cải thiện
quan hệ giữa người dân và chính quyền, khuyến khích tinh thần
trách nhiệm và phục vụ của các viên chức nhà nước, các cơ quan
công quyền.
Trên thế giới, các
chế độ độc đảng, độc tài đều ở trên đường suy thóai và ngày càng
ít trong khi các chế độ dân chủ tự do đều tăng tiến và ngày càng
đông. Bưng bít thông tin, thông tin một chiều, kiểm duyệt thông
tin, độc quyền thông tin, vi phạm tự do tiếp nhận và phổ biến
thông tin, ngăn chặn người dân tự do tìm kiếm sự thật đã tỏ ra bất
lợi cho các chế độ xã hội chủ nghĩa. Gần đây, một mặt với sự bành
trướng của những giá trị dân chủ tự do và mặt khác sự sụp đổ của
những chế độ độc tài, phản dân chủ, quyền tự do thông tin và được
thông tin đã được thừa nhận bởi hiến pháp, quy định bằng luật pháp
ở nhiều quốc gia. Trong khỏang tám năm, từ 1992 tới 2000, tại hầu
hết các quốc gia Đông Âu thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ, các quyền
tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được hiến pháp
bảo đảm hoặc luật pháp quy định rõ rệt (2).
5.Tự do thông tin
để có văn minh, tiến bộ
Trong quá trình phát
triển của các quốc gia, từ xã hội nông nghiệp chậm tiến, chuyển
đổi và thực hiện cách mạng công nghiệp, rồi tiến lên xã hội công
nghiệp hiện đại, xây dựng đất nước giầu mạnh, tiếp theo bước vào
thời đại thông tin, vươn lên xã hội tri thức, chúng ta thấy tự do
thông tin luôn luôn sát cạnh những bước tiến của lòai người hướng
về văn minh, tiến bộ.
5.1.Tự do thông
tin để bài trừ đói nghèo, chậm tiến
Chương trình phát
triển kinh tế-xã hội của các nước chậm tiến lạc hậu luôn luôn có
phần hành động để thóat khỏi đói nghèo, loại trừ các trở lực ngăn
chặn kinh tế-xã hội chuyển biến và cải tiến. Việc gạt bỏ các tiêu
cực gây ra nạn lãng phí nguồn lực quốc gia, giam hãm tiềm năng của
dân tộc là một thách thức mà các chính quyền phải vượt qua.
Có lập luận thiển cận
nói rằng khi con người thiếu ăn thiếu mặc, lao động không đủ sống
thì tự do thông tin và được thông tin đem lại lợi ích gì cho công
cuộc bài trừ đói nghèo, chống chậm tiến lạc hậu. Thực tế chứng
minh ngược lại rằng tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông
tin là chìa khóa tháo gỡ xiềng xích của nghèo đói, túng thiếu, bất
ổn. Ở Ấn Độ, trong thập niên 1980-1990, tại tiểu bang Rajasthan,
dân cư nơi đây còn sinh sống khó khăn, thiếu ổn định, kiếm ăn
không đủ sống. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp trá hình,
khai thác lao động tạo ra nhiều tiêu cực kinh tế-xã hội mà không
được chính quyền địa phương quan tâm giải quyết mặc dù có yêu cầu,
khiếu nại, bất mãn. Dân cư không có thông tin và được thông tin
đầy đủ, trung thực về công việc quản lý hành chính địa phương. Họ
không được biết sự thật về việc sử dụng ngân sách trong các cơ
quan công quyền, hiệu quả công tác của các viên chức trong việc
phục vụ dân cư và thực hiện các dự án phát triển cộng đồng ảnh
hưởng tới cuộc sống của họ. Năm 1990, công nhân và nông dân của
tiểu bang đã lập ra "Hội tạo quyền cho công nhân và nông dân"
(Mazdor Kisan Shakti Sangathan/Association for the Empowerment of
Workers and Farmers) để tranh đấu đòi quyền tự do thông tin và
được thông tin, quyền biết sự thật về các hoạt động của chính
quyền địa phương. Khẩu hiệu tranh đấu của Hội là "Quyền được biết,
quyền được sống" (The Right to Know, the Right to Live).
Hội đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của đông đủ các thành phần xã
hội, từ trí thức tới tầng lớp lao động thuộc nhiều ngành nghề khác
nhau. Hội đã tổ chức những cuộc biểu tình, xuống đường để tạo áp
lực buộc chính quyền địa phương soạn ra văn bản pháp lý thừa nhận
và bảo đảm quyền tự do thông tin để họ được thông tin đầy đủ, biết
rõ sự thật về các chính sách và hoạt động của chính quyền, về việc
thực hiện công tác và thi hành nhiệm vụ của các công chức cán bộ.
Xa hơn nữa, Hội có mục đích tạo điều kiện cho người dân tham gia,
thảo luận, đóng góp một cách chủ động vào các kế hoạch và công
trình phát triển địa phương, các hành động nhằm cải thiện và ổn
định xã hội nói chung. Hội chủ trương người dân cần giám sát khả
năng phục vụ, tinh thần trách nhiệm của các viên chức công quyền
(3). Cuộc tranh đấu có tính cách địa phương này đã lan tỏa sang
nhiều tiểu bang khác và cuối cùng đã dẫn tới sự thành lập một
phong trào tòan quốc đòi quyền tự do thông tin và được thông tin.
Năm 2002, quốc hội Ấn Độ đã thông qua đạo luật ghi nhận rõ ràng
quyền tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin. Năm 2004,
đạo luật này đã được tu chính và trở thành một tuyên ngôn có tính
cưỡng chế mạnh hơn luật pháp. Tuyên ngôn này đã bắt đầu có hiệu
lực từ tháng 10 năm 2005. (4).
Thí dụ vừa nêu của
phong trào "Quyền được biết, quyền được sống" ở Ấn Độ cho thấy
quyền tự do thông tin và được thông tin có tầm quan trọng rất sâu
rộng. Quyền này có khả năng ảnh hưởng và tác động về nhiều phương
diện. Kinh nghiệm của Ấn Độ và thực tế ở nhiều nước như Đại Hàn,
Mexique, Thái Lan và các nước Đông Âu (5) và ngay cả ở Trung Quốc
và Việt Nam (dù ở hai nước này chế độ nhà nước độc quyền thông tin
tiếp diễn và chỉ hé mở, ban phát cho dân một phần rất nhỏ quyền
thông tin trong những hoạt động nhất định) cho thấy ảnh hưởng quan
trọng của quyền thông tin và tự do thông tin lên sự phát triển
kinh tế-xã hội nói chung. Trong quan hệ giữa người dân và chính
quyền nhà nước, tự do thông tin tạo môi trường thuận lợi cho việc
thiết lập nhà nước trong sáng, minh bạch, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các cơ quan công quyền, phát huy tinh thần phục vụ của
các viên chức cán bộ, tăng hiệu quả của các kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội và các công tác phát triển cộng đồng. Về lâu dài,
tự do thông tin khuyến khích sự phát triền con người, sự phát
triển bền vững và lành mạnh có công bằng bình đẳng.
Tại những quốc gia
chậm tiến lạc hậu, trong số các trở lực ngăn cản đất nước thóat
khỏi tình trạng đói nghèo phải kể các tệ nạn xã hội thường thấy là
tham nhũng và hối lộ, biển thủ và lãng phí, tinh thần vô trách
nhiệm và tác phong cửa quyền của các viên chức chính quyền. Vì dân
tộc các nước này không được hưởng quyền tự do thông tin nên đất
nước của họ bị giam giữ trong vòng luẩn quẩn: thành phần lãnh đạo
lạm dụng quyền lực → chính quyền tham nhũng, quan liêu, lãng phí →
nhà nước độc quyền thông tin → nhân dân không biết, không bàn,
không góp ý, không phê bình → nhân dân bị trị, không tạo quyền,
không có thế đối trọng → thành phần lãnh đạo tiếp tục lạm quyền và
cứ như thế vòng luẩn quẩn tái diễn. Trên thế giới hố cách biệt
giữa các quốc gia giầu mạnh, văn minh, tiến bộ và các nước chậm
tiến lạc hậu ngày càng sâu chủ yếu vì các nước sau này không thóat
ra khỏi vòng luẩn quẩn vừa nêu. Tự do thông tin là một công cụ có
khả năng phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Thực tế chứng minh ở nước nào
có nhiều tự do thông tin thì có chính quyền nhà nước trong sáng,
hệ thống hành chính trong sạch, chế độ quản lý quốc gia tốt và
hiệu quả. Tự do thông tin tạo môi trường thuận lợi để thực hiện sự
công bằng và ổn định xã hội. Nó cần thiết để tạo môi trường kinh
doanh có sự cạnh tranh lành mạnh dựa trên thông tin thị trường
chính xác và đầy đủ, đáng tin cậy, có giá trị. Hoạt động sản xuất
có hiệu suất cao hơn, kinh tế thương mại trở nên thịnh vượng mau
chóng hơn. Như thế mục đích dân giầu nước mạnh mới có thể thực
hiện được.
5.2. Tự do thông
tin và con người văn minh, tiến bộ.
Tiến trình phát triển
cận đại của lòai người hướng về văn minh, tiến bộ đã trải qua
nhiều giai đoạn và chứng kiến nhiều chuyển đổi quan trọng. Khởi
đầu từ xã hội nông nghiệp, lòai người đã thực hiện cuộc cách mạng
công nghiệp, rồi xây dựng xã hội hậu công nghiệp, hòan thành hai
cuộc cách mạng quản lý và năng suất, tiến lên xã hội thông tin và
ngày nay mở đầu thời đại văn minh tri thức. Trong trường hợp các
nước tây phương có truyền thống tôn trọng tự do tư tưởng, tự do
diễn đạt tư tưởng thì tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông
tin đã giúp các nước này thực hiện tuần tự và thành công nhiều
cuộc cải tiến chủ chốt. Ngày nay, các nước tây phương và nhiều
quốc gia khác tiếp thu nguyên tắc quyền tự do thông tin đã trở nên
giầu mạnh, văn minh và tiến bộ, có sinh hoạt chính trị, kinh tế,
xã hội thấm đượm những giá trị dân chủ. Sự công bằng và bình đẳng
giữa con người được thực hiện. Nhà nước các nước này có hệ thống
quản lý quốc gia tốt, có tổ chức hành chính trong sáng, trong sạch
và hiệu quả.
Đặt vấn đề xã hội văn
minh, tiến bộ trong tiến trình phát triển vừa nêu thì con người
văn minh tiến bộ phải có ngày càng nhiều tự do thông tin và được
thông tin, với những phương tiện ngày càng nhanh chóng và hiện
đại. Thông tin trong một xã hội văn minh tiến bộ phải trung thực
và đầy đủ, có chất lượng và gía trị. Thông tin đả trở thành một
chất liệu tạo ra trị gía gia tăng kinh tế. Tự do thông tin vừa là
điều kiện vừa là bảo đảm cho sự phát triển công nghệ thông tin và
các ngành nghề tin học, cho việc xây dựng xã hội thông tin, kinh
tế tri thức để xứng đáng với ước mong "dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Tự do thông tin là
điều kiện cần, không có không được, để tiến tới xã hội văn minh,
tiến bộ cũng như để khắc phục nạn đói nghèo, thóat khỏi tình trạng
chậm tiến lạc hậu. Đó là quan điểm đã được sự đồng thuận rộng rãi
và sự tán thành của các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các cơ
quan trực thuộc Tổ Chức Liên Hợp Quốc như UNESCO… Kinh nghiệm cho
thấy tự do thông tin có liên hệ mật thiết với sự phát triển kinh
tế-xã hội nói chung, với việc xây dựng xã hội hậu công nghiệp, xã
hội văn minh, tiến bộ nói riêng. Gần đây, trường hợp của các nước
Đông Âu chuyển đổi từ chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa độc quyền
thông tin sang chế độ dân chủ tôn trọng tự do thông tin đã giúp
rất nhiều các nước này phát triển kinh tế-xã hội mau chóng và tiến
tới hội nhập cộng đồng các nước Tây Âu đi trước và đã có xã hội
văn minh, tiến bộ.
Xã hội văn minh, tiến
bộ trước hết đòi hỏi phải có những con người văn minh, tiến bộ.
Trong khuôn khổ quan hệ giữa người dân và chính quyền, con người
văn minh, tiến bộ không phải là con người bị trị, thuộc hạ của nhà
nước. Trái lại con người văn minh, tiến bộ trong một nước là những
công dân có trọn vẹn các quyền chính trị và dân sự, kinh tế và xã
hội. Công dân này là con người có vị thế, có quyền tự do thông tin
và được thông tin từ mọi nguồn, bằng mọi phương tiện. Con người
văn minh, tiến bộ phải có điều kiện thuận lợi để mở rộng kiến
thức, phát huy trí tuệ, phát triển tri thức. Xã hội văn minh tiến
bộ là xã hội gồm những công dân có vị thế, có quyền đối trọng mà
họ phải có để ngăn chặn chính quyền nhà nước lạm dụng quyền lực,
khống chế và đàn áp.
6.Tự do thông tin
và các thách thức cho sự phát triển Việt Nam
Chế độ xã hội chủ
nghĩa nói chung, chế độ chính trị Việt Nam nói riêng là những hệ
thống tổ chức nhà nước vi phạm và chà đạp quyền tự do thông tin
của người dân. Trong khi thời đại thông tin đã chín muồi trên thế
giới và các chính quyền xã hội chủ nghĩa độc quyền và kiểm sóat
thông tin đã phá sản, thì ở Việt Nam chính quyền nhà nước vẫn theo
đuổi chính sách thông tin một chiều, hạn chế và kiểm duyệt thông
tin. Ở đây các quyền tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông
tin, tự do ngôn luận và tự do báo chí luôn luôn bị kìm kẹp bằng
nhiều cách, trực tiếp và gián tiếp, công khai hoặc ngấm ngầm.
Từ khi "mở cửa" và
"đổi mới", chính quyền Việt Nam đã chấp nhận buông thả một phần
các công tác thông tin để người dân có thể tiếp nhận, phổ biến và
tìm kiếm một số loại thông tin nhất định trong một khuôn khổ rõ
rệt và ... dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước! Giới cầm quyền
quan niệm cái khung hoạt động thông tin nhỏ bé này là một ân huệ
do Đảng ban phát, không phải là một quyền tự nhiên của người dân.
Chủ trương hé mở hoạt động thông tin này là một quyết định mà
chính quyền Việt Nam buộc phải thực hiện vì áp lực của tình thế và
để nhắm những lợi ích kinh tế, xã hội và chính trị có tính chiến
lược. Tự do thông tin chưa phải là một gía trị nằm trong hệ thống
tư tưởng của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, dù hoạt động
thông tin vô cùng gò bó và khó khăn, dù quyền thông tin của người
Việt chỉ mới hé mở, kinh tế và xã hội Việt Nam đã có điều kiện
thuận lợi để ra khỏi khủng hỏang trong những năm 1986-1990, rồi
phát triển và đạt được những thành quả mà chúng ta đã thấy. Nhưng
chính quyền Việt Nam vẫn ra sức cố thủ trong chính sách độc quyền
các cơ sở và phương tiện thông tin, thông tin có lãnh đạo và kiểm
sóat. Chế độ tập trung và thống nhất các quyền hành pháp, lập
pháp, tư pháp và "đệ tứ quyền" trong tay đảng CSVN vẫn tiếp tục.
Giới lãnh đạo lạm dụng "đệ tứ quyền" một cách trắng trợn là tạo ra
một số lượng rất nhiều cơ sở thông tin như phát thanh, truyền
hình, báo in, báo điện tử. Ở Việt Nam, chính quyền kiểm sóat một
đài truyền hình tòan quốc, 4 đài truyền hình địa phương và 64 đài
truyền hình cấp tỉnh. Năm 1990, nhà nước phát hành 258 báo in, năm
2005, 553 báo in. Hiện nay, nhà nước có tới 200 báo điện tử trên
mạng Internet (6).
Thực tế ở Việt Nam là
Hiến Pháp không ghi nhận quyền tự do thông tin của người Việt. Nó
cũng không bảo đảm các quyền tự do tư tưởng và tự do diễn đạt
tưởng. Hiến Pháp Việt Nam ghi chép một cách lùng thùng và mơ hồ,
thiếu minh bạch và trong sáng như sau:
Điều 33: "Nhà nuớc
phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình,
điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại
chúng khác ..."
Điều 50: "Ở nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở
các quyền công dân và được quy định trong Hiến Pháp và luật."
Điếu 69: "Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin
... theo quy định của pháp luật."
Điều 73: "Thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an tòan và bí mật
..."
Ở thời đại thông tin,
thời đại văn minh tri thức, tình trạng tự do thông tin của người
Việt thua kém rất xa quyền tự do thông tin mà nhiều dân tộc đã có
khi đất nước của họ còn ở thời đại văn minh nông nghiệp, ở giai
đoạn chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp cách
đây hơn hai thế kỷ!
Tự do thông tin và tự
do diễn đạt tư tưởng đã được ghi chép trong Công Ước Quốc Tế về
các Quyền Dân Sự và Chính Trị (1966). Chính quyền Việt Nam đã phê
chuẩn Công Ước này năm 1982, nhưng không thi hành các điều ghi
trong Công Ước. Giới lãnh đạo luôn luôn vi phạm và chà đạp các
quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí. Chính quyền
Việt Nam là thành viên của Tổ Chức Liên Hợp Quốc, nhưng không tôn
trọng bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Tổ Chức. Nhà cầm quyền
độc quyền thông tin, kiểm sóat thông tin và thông tin một chiều.
Phong cách này của giới lãnh đạo Việt Nam hòan tòan không có gì là
văn minh, tiến bộ! Xã hội Việt Nam sẽ tiến lên văn minh tiến bộ
khi đất nước có những nhà lãnh đạo hành động một cách văn minh
tiến bộ! Việt Nam sẽ vươn lên trở thành một quốc gia văn minh tiến
bộ khi người Việt thực sự là những công dân tự chủ, chủ động tham
gia, đối thoại, thảo luận, đóng góp nhờ có tự do thông tin, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, nhờ mở mang kiến thức, phát huy trí tuệ,
phát triển tri thức.
Từ khi Việt Nam "cởi
mở", "đổi mới", kinh tế đã tăng trưởng mau chóng, xã hội đã có
nhiều chuyển đổi tích cực, mức sống của người dân được cải tiến.
Những thành tựu này tuy đáng kể nhưng không thể bảo rằng chúng gây
ấn tượng sâu sắc bởi vì kinh tế và xã hội Việt Nam ở tình trạng
kiệt quệ, khủng hỏang trước khi "cởi mở" và "đổi mới". Trong điều
kiện này, một sự tăng trưởng kinh tế tuyệt đối ở mức khiêm tốn và
thực hiện không khó khăn có thể được diễn tả như một thành tích
"vang dội" thể hiện qua một tỷ lệ tăng trưởng nhanh chóng nhưng
chỉ có gía trị tương đối. Ngòai ra sự phát triển kinh tế-xã hội
Việt Nam dựa vào vốn đầu tư và kỹ thuật nước ngòai. Sau hai mươi
năm lãnh đạo của Đảng trong thời đại kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nguồn lực và nền tảng kinh tế Việt Nam vẫn là
sức người. Trị gía gia tăng kinh tế chủ yếu được tạo ra với tư
liệu chính là "bắp thịt" của một khối lao động kém về kỹ năng và
tri thức và với kỹ thuật "ống khói" chậm tiến và lạc hậu. Công
cuộc công nghiệp hóa còn lận đận. Cách mạng năng suất và cách mạng
quản lý còn rất xa tầm tay. Công nghiệp hiện đại, công nghệ tiên
tiến, xã hội thông tin và kinh tế tri thức hòan tòan chỉ là những
mỹ từ, khẩu hiệu xuôi tai và ước mong suông vì không có dấu hiệu
cho thấy những điều kiện và phương tiện cần thiết đang được chuẩn
bị. Trước mắt, kinh tế và xã hội Việt Nam tuy có những bước tiến
rõ rệt nhưng phải đối diện với nhiều thách thức to lớn, chủ yếu
là:
·
Loại trừ
tham nhũng, quan liêu và lãng phí; xây dựng nhà nước trong sáng và
trong sạch, hệ thống quản lý quốc gia tốt và hiệu quả;
·
Thực hiện
công bằng và ổn định xã hội, giảm chênh lệch về thu nhập, mức sống
giữa các giai tầng xã hội, giữa các vùng, các địa phương;
·
Thực hiện
những thành tựu vững chắc trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa; Thực hiện cách mạng năng suất và cách mạng quản lý.
6.1.Tự do thông
tin và chống tham nhũng
Từ khi Pháp lệnh
chống tham nhũng được ban hành (tháng 3 năm 1998), giới lãnh đạo
Đảng và nhà nước luôn luôn nhắc tới nghĩa vụ chống tham nhũng,
quan liêu và lãng phí. Họ cổ võ đảng viên, cán bộ, công chức có
phẩm chất tốt, "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư". Tuy nhiên
các hành vi tham nhũng và hối lộ, cửa quyền và tùy tiện, biển thủ
và lãng phí vẫn là những hiện tượng phổ biến từ trên xuống dưới,
trong tất cả các sinh hoạt kinh tế và thương mại, xã hội và văn
hóa, ở trung ương lẫn địa phương. Sự chênh lệch giữa mức thu nhập
và mức tiêu dùng của thành phần xã hội có quyền thế phản ảnh một
phần nào mức độ tham nhũng nghiêm trọng. Chính quyền Việt Nam thừa
nhận tham nhũng là một "nguy cơ đe doạ sự sống còn của chế độ".Vậy
mà nhân dân không có tự do tìm kiếm thông tin để tố cáo tham
nhũng, tự do tìm hiểu sự thật về các hành vi tham nhũng để tham
gia, đóng góp chống tệ nạn này! Trong khuôn khổ chính sách hé mở
thông tin ... dưới sự kiểm sóat và lãnh đạo của Đảng và nhà nước,
ông Lê Khả Phiêu đã có một cuộc trao đổi với báo Tuổi Trẻ về nạn
tham nhũng ở Việt Nam (7). Điều đáng chú ý là ông Lê Khả Phiêu đã
tuyên bố vài điều về tham nhũng khi ông không còn tại chức. Phải
chăng điều này muốn nói bộ mặt tham nhũng mà cựu Tổng bí thư Lê
Khả Phiêu miêu tả không dính líu tới chính quyền đương nhiệm lúc
bấy giờ. Sự kiện này cũng cho thấy chính sách hé mở thông tin đã
được chấp hành một cách triệt để, ở tất cả các cấp bậc trong tổ
chức chính quyền theo tinh thần sinh hoạt "bộ phận phục tùng tổng
thể" của đảng CSVN. Các hành động hé mở thông tin về nạn tham
nhũng và về nhiều tiêu cực kinh tế-xã hội khác hòan tòan là những
tính tóan vì tình thế có mục đích xoa dịu những dấu hiệu có thể
gây dao động làm mất ổn định xã hội. Chính sách thông tin một
chiều, thông tin có lãnh đạo, hé mở thông tin và chỉ cho nhân dân
thóang biết sự thật khiến nạn tham nhũng không thể bài trừ được.
Trái lại các hành vi tham nhũng ngày càng phổ biến, tinh vi, khó
phát hiện tới mức không còn công tác cổ động cho phương châm "bốn
không" là "không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng, không thể
tham nhũng, không dám tham nhũng".
Kinh nghiệm của rất
nhiều nước trong công cuộc phòng ngừa và bài trừ tham nhũng cho
thấy tôn trọng và bảo đảm thực sự tự do thông tin, tự do báo chí
và tự do ngôn luận vừa là điều kiện, vừa là bảo đảm cho sự thành
công. Ngược lại các biện pháp chống tham nhũng đều không có hiệu
quả khi những quyền này không trở thành nguyên tắc, chính sách.
Giới lãnh đạo Việt Nam độc quyền và kiểm sóat thông tin vì cần che
giấu sự thật về tình trạng tham nhũng nghiệm trọng trong hệ thống
tổ chức Đảng và nhà nước. Chính sách thông tin một chiều, thông
tin có lãnh đạo và kiểm sóat là nguồn gốc của sự lạm dụng quyền
lực và tinh thần quan liêu và trốn tránh gánh chịu hậu qủa và
trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức. Nó nuôi dưỡng các
hành vi biển thủ tài sản nhà nước, lãng phí nguồn lực kinh tế quốc
gia. Khi tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin không
được tôn trọng thì nhà nước Việt Nam không thể trong sáng, chính
quyền không thể trong sạch, hệ quả là không thể bài trừ nạn tham
nhũng, quan liêu, lãng phí. Theo một báo cáo của các nhà tài trợ
thì những thành tựu trong sự tăng trưởng kinh tế và thương mại
càng làm tham nhũng dễ hơn và nhiều hơn với những món tiền ngày
càng lớn hơn (8). Các nhà tài trợ biết rõ và bàn luận tự do về nạn
tham nhũng Việt Nam (9), nhưng nhân dân Việt Nam không có tự do
tiếp nhận, phổ biến và nhất là tìm kiếm thông tin và sự thật về tệ
nạn này. Một mặt, giới lãnh đạo Việt Nam chấp nhận để các nhà tài
trợ thực hiện công việc khảo sát và chẩn đóan thực trạng tham
nhũng và soạn thảo kế hoạch hành động, mặt khác họ tước đoạt quyền
tự do thông tin, tự do báo chí, tự do ngôn luận của nhân dân,
không cho nhân dân tự do hiểu biết tham nhũng Việt Nam, thảo luận
và góp ý.
6.2.Tự do thông
tin và công bằng xã hội.
Trong tình trạng nạn
tham nhũng, quan liêu và lãng phí tồn tại, quan hệ xin-cho giữa
nhân dân và chính quyền tiếp diễn và nhân dân không có tự do tìm
kiếm thông tin và sự thật thì xã hội Việt Nam không thể có công
bằng, bình đẳng. Tình trạng này ảnh hưởng bất lợi lên sự phát
triển kinh tế-xã hội nói chung, lên công cuộc xóa đói giảm nghèo,
ổn định đời sống của nhân dân nói riêng.
Ở Việt Nam, những
thành tựu xóa đói giảm nghèo chưa được vững chắc và sự chênh lệch
về thu nhập và mức sống gia tăng giữa các tầng lớp nhân dân, giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng. Những báo cáo của chính
quyền Việt Nam và các tổ chức quốc tế (Qũy Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân
Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu) ghi nhận rằng mặc dù
những thành tựu về mặt kinh tế vĩ mô, nếp sống của người dân tuy
được cải tiến nhưng dễ bị tổn thương, thường xuyên bị đe doạ đẩy
lùi trở lại tình trạng đói nghèo. Chính quyền Việt Nam quen nếp
độc quyền tạo thông tin và phổ biến thông tin, ấn định những chuẩn
và ngưỡng đói nghèo cốt để soạn ra những tỷ lệ bày tỏ những thành
tựu "vang dội", những tiến bộ gây "ấn tượng" sâu sắc. Từ nhiều năm
nay, Tổng Cục Thống Kê báo cáo tỷ lệ đói nghèo chung giảm từ 58,1%
năm 1993 xuống 28,9% năm 2002 và 19,5% năm 2004. Những thông tin
này "tốt đẹp", nhưng không phản ảnh sự thật khiến gần đây chính
quyền Việt Nam đã phải xét lại các thống kê về đói nghèo. Theo
IMF, với các chuẩn và ngưỡng đói nghèo thực tế thì tỷ lệ đói nghèo
chung cho năm 2005 phải là trên 26% ở thành thị, hơn 30% ở nông
thôn, 50%-70% ở miền núi (10). Theo ADB thì tỷ lệ đói nghèo chung
cho tòan quốc năm 2005 phải ở mức 26%, bằng gần gấp hai lần tỷ lệ
của Tổng Cục Thống Kê (11).
Ở Việt Nam, quyền
thông tin không phải là "đệ tứ quyền" đối trọng quyền lực nhà nước
cho nên chính quyền không phải chịu một áp lực nào thúc ép thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Hiện tượng tham nhũng, quan liêu
và lãng phí không cho phép xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ,
văn minh, giầu mạnh. Ngân Hàng Phát Triển Á Châu nhận định rằng sự
tăng trưởng kinh tế không bảo đảm vị thế của người nghèo được nâng
cao, không tạo quyền cho nhân dân. Chính sách "xã hội hóa" không
làm cuộc sống của người nghèo ổn định và vững chắc. Tầng lớp người
nghèo đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngòai lề xã hội mỗi khi có biến
động như bão lụt, mất mùa. Sự chênh lệch giầu nghèo gia tăng giữa
nông thôn và thành thị, giữa các dân tộc thiểu số, người Hoa và
người kinh, giữa các gia đình mà người chủ là giới nam hoặc nữ.
Khỏang cách về thu nhập và sức mua giữa các giai tầng xã hội cho
thấy có sự bất công, sự bất bình đẳng ngày càng rõ rệt. Ngân Hàng
Phát Triển Á Châu còn thêm rằng tình trạng chính quyền thiếu trong
sáng và minh bạch, hành chánh công thiếu tinh thần phục vụ và
trách nhiệm cần phải được cải tiến để bảo đảm công bằng và tiến bộ
xã hội (12).
6.3.Tự do thông
tin và công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Công cuộc công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội của chính quyền Việt Nam. Mặc dù
trong những năm vừa qua, sản lượng và xuất khẩu của khu vực công
nghiệp tăng trưởng mau chóng, những thành quả của chương trình
công nghiệp hóa không có tính "vang dội", đáng tự hào. Nguồn lực
của khu vực công nghiệp chủ yếu là một khối đông đảo lao động gồm
có thành phần làm gia công chiếm tuyệt đại đa số và thành phần
thiểu số giữ công việc cai quản các cơ xưởng công nghiệp do các
doanh nhân và tập đòan kinh tế nước ngòai thiết lập. Trong thực
tế, công cuộc công nghiệp hóa chỉ có bề ngòai tốt đẹp gây nhiều ấn
tượng. Các tư liệu cần thiết để công nghiệp hóa một cách vững
chắc, tự chủ đều nằm trong tay giới tư bản nước ngòai, từ vốn đầu
tư tới công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý, kiến thức khoa học để
tăng năng suất và phẩm chất. Trong những điều kiện này, Việt Nam
không thể chủ động công nghiệp hóa, có bước nhảy vọt hiện đại hóa
dất nước, đạt trình độ công nghệ tiên tiến.
Về phần hiện đại hóa
thì thực tế cho thấy không có dấu hiệu chứng minh đất nước huy
động nguồn lực cần thiết để chuẩn bị đi hướng này. Thực chất của
hiện đại hóa không phải là xây cất cao ốc lịch sự và khách sạn có
tiêu chuẩn quốc tế, không phải là bành trướng sử dụng điện thoại
di động, không phải là bày bán những sản phẩm nhập khẩu nhãn hiệu
đắt tiền, không phải là cung cấp đầy đủ những dịch vụ giải trí và
du lịch cho du khách thế giới. Thêm nữa, thiết lập nhà máy lọc
dầu, soạn thảo dự án đường xe lửa cao tốc xuyên Việt cũng không
chứng minh đất nước đang đi trên đường hiện đại hóa. Hiện đại hóa
đích thực có nghĩa tiếp thu công nghệ tiên tiến, thực hiện cách
mạng công nghiệp, cách mạng quản lý và cách mạng năng suất, tiếp
thu công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông. Như vậy, hiện
đại hóa là chuyển đổi nền văn minh nông nghiệp sang văn minh công
nghiệp, rồi hậu công nghiệp, đi tới tạo trị gía gia tăng kinh tế
với thông tin và tri thức. Công cuộc hiện đại hóa như bất cứ kế
hoạch hành động nào khác đòi hỏi phải có những chuẩn bị ngõ hầu
phương tiện đi đôi với cứu cánh. Chương trình hiện đại hóa cũng
như chính sách chống tham nhũng không có những thiết chế và cơ
chế, môi trường và phương tiện để thực hiện. Phải chăng chính
quyền Việt Nam tự hào về tư tưởng và đường lối "sáng tạo" của mình
có kế hoạch hiện đại hóa đất nước mà không cần cách mạng công
nghiệp, cách mạng quản lý, cách mạng năng suất, tiếp thu công nghệ
tiên tiến? Phải chăng giới lãnh đạo Việt Nam chủ trương thực hiện
những bước nhảy vọt "vang dội" mà không cần mở mang kiến thức,
phát huy trí tuệ và phát triển tri thức của nhân dân, không cần
tôn trọng tự do tư tưởng, tự do thông tin, tự do ngôn luận và tự
do báo chí?
7.Kết kuận
Tự do thông tin vừa
là một điều kiện vừa là một bảo đảm cho sự mở mang kiến thức, phát
huy trí tuệ, phát triển tri thức. Nó rất cần thiết cho sự phát
triển kinh tế-xã hội, cho sự phát triển con người và sự phát triển
bền vững. Để thực hiện "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" nhất thiết phải có tự do thông tin và được thông
tin. Quyền thông tin, tự do thông tin là "đệ tứ quyền" đối trọng
quyền lực nhà nước, có tác động một mặt, cân bằng quyền lực nhà
nước và mặt khác, duy trì sự phân quyền cần thiết giữa hành pháp,
lập pháp và tư pháp. Không có tự do thông tin thì không bao giờ và
không thể nào có nhà nước trong sáng, chính quyền trong sạch, có
sự công bằng xã hội và sự bình đẳng giữa con người, có sinh hoạt
dân chủ tự do. Tự do thông tin gắn liền với tự do tư tưởng và tự
do diễn đạt tư tưởng. Người dân phải có tự do thông tin thì mới có
thể đi vào thời đại thông tin, thời đại văn minh tri thức.
Trong quá trình phát
triển của các dân tộc, từ xã hội nông nghiệp bước vào con đường
công nghiệp hóa, rồi thực hiện cách mạng quản lý, cách mạng năng
suất, tiếp theo vươn lên xã hội thông tin, xã hội tri thức, chúng
ta thấy tự do thông tin luôn luôn ở bên cạnh các chuyển đổi này,
Tự do thông tin là chất liệu nuôi dưỡng văn hóa và giá trị dân
chủ, xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ và kinh tế giầu mạnh, hiện
đại.
Xu thế của thời đại
thông tin bắt đầu cách đây khỏang hơn hai mươi năm đã khiến các
chế độ xã hội chủ nghĩa độc quyền thông tin, bưng bít và kiểm sóat
thông tin, vi phạm và chà đạp tự do thông tin đi vào bế tắc rồi
sụp đổ. Các nước Đông Âu thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ đã dứt
khóat chủ trương hội nhập thời đại thông tin để thực sự phát triển
và hiện đại hóa kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, tiến
bộ. Ở Á Châu, trước là Trung Quốc sau là Việt Nam, vì tình thế
khủng hỏang và bế tắc kinh tế-xã hội trước khi có "cởi mở" và "đổi
mới", chính quyền hai nước đã buông thả một phần các hoạt động
thông tin cho người dân. Riêng ở Việt Nam chúng ta nhận thấy,
những chuyển đổi trong lãnh vực thông tin chỉ vừa đủ để chính
quyền "lập công" đưa đất nước thóat khỏi khủng hỏang, biện minh
địa vị độc quyền lãnh đạo, cố thủ trong vị trí lạm dụng quyền lực
nhà nước và tước đoạt quyền đối trọng và kiểm tra của nhân dân.
Khẩu hiệu và lý tưởng "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" là hứa hẹn suông với nhân dân.
Chính quyền Việt Nam
đã ban phát cho nhân dân một "quyền" thông tin có giới hạn, có
kiểm sóat, có điều kiện, có sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Nhân
dân được "quyền" thông tin nhưng không có tự do thông tin! Thông
thường quyền thông tin hàm ý tự do thông tin và là một giá trị của
văn hóa dân chủ, một nguyên tắc sinh hoạt dân chủ, một quyền dân
sự cơ bản. Theo lý luận cổ điển của giới lãnh đạo Việt Nam "quyền
thông tin không dễ dàng biến thành tự do thông tin" cũng như "nhân
dân làm chủ không dễ dàng biến thành nhân quyền" và "cần có sự
lãnh đạo của đảng CSVN để đạt được quyền thông tin, quyền làm chủ
của nhân dân"! Những lý luận kiểu này không thể soi sáng, dẫn
đường đưa tới "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
Ở Việt Nam, chế độ xã
hội chủ nghĩa là một "trại giam" rộng lớn "giam giữ" tòan thể dân
tộc. Trong "trại giam" này có những "phòng giam" nhỏ hẹp, những
"nhà giam" rộng lớn. Người dân thấp cổ bé miệng có "phòng giam" bé
nhỏ, thô sơ. Đảng viên và cán bộ có chức có quyền được cấp "nhà
giam" lịch sự, rộng lớn (ông Lê Khả Phiêu chỉ "được" trao đổi với
báo Tuổi Trẻ về tham nhũng khi không còn tại chức). Hoạt động
thông tin và các hoạt động khác như lập hội, lập đảng, v.v., mỗi
ngành hoạt động bị kìm kẹp, "giam tù" trong khuôn khổ những quy
chế có mục đích canh phòng, kiểm sóat.
Chế độ "giam tù"
thông tin ở việt Nam cuối cùng bóp nghẹt trí tuệ và tri thức của
dân tộc. Trong cuộc thi đua phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập
quốc tế, dân tộc Việt Nam bị thua thiệt rất nhiều so với dân tộc
các nước khác có tự do tiếp nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin.
Trong xu hướng tòan cầu hóa, Việt Nam không biểu hiện những đặc
tính, dấu hiệu chứng minh có khả năng giành thứ hạng cao trong
cuộc so tài với các nước ngang hàng về nguồn lực kinh tế-xã hội
nhưng tôn trọng tự do thông tin. Việt Nam với dân số khỏang 84
triệu người, đứng hàng thứ 12 trên thế giới, chừng nào mới có khả
năng thi đua với Đại Hàn, Mã Lai, Thái Lan là những nước có dân số
ít hơn Việt Nam rất nhiều nhưng có những nhà lãnh đạo không chủ
trương độc quyền thông tin, thông tin một chiều, một loại "quyền"
thông tin không có tự do thông tin!
Nguyễn Ngọc
Hiệp
tháng
2 năm 2007
_________
Ghi chú
:
(1)Toby Mendel,
"Freedom of Information : A Comparative Legal Survey", UNESCO,
2003.
(2)Ibidem
(3) - Harsh Mander &
Abha Joshi, "The Movement for Right to Information in India".
- Aruna Roy &
Nikhil Dey, "Fighting for the Right to Know in India".
(4) - "The Right to
Information Act, 2005", A Government of India-UNDP Initiative,
July, 2006.
- "Affirming
the Right to Know", Siddharth Narrain,
http://www.hinduonnet.com/thehindu/thscrip.
(5) - Toby Mendel,
"Freedom of Information : A Comparative Legal Survey", UNESCO,
2003.
- Jeremy Pope,
"Access to Information: Whose Right and Whose Information?",
Global CorruptionReport, 2003, Transparency International.
(6)"The Emerging
Civil Society: An Initial Assessment of Civil Society in Vietnam",
Edited by Irene Norlund, International Coordinator, Hanoi, March,
2006.
(7) - Báo Tuổi Trẻ,
hai số phát hành ngày 25 và 26 tháng 5 năm 2005.
- Didier Lauras,
"Viet Nam: La corruption viserait les plus hautes sphères du
pouvoir", Agence France
Presse, 26 mai 2005.
(8)"Vietnam
Development Report 2005: Governance", Joint Donor Report to the
Vietnam Consultative Group Meeting, Hanoi, 1-2 december 2004.
(9)"Fighting
Corruption in Vietnam", The World Bank, May 2000.
(10)"Vietnam: Poverty
Reduction Strategy Paper, Annual Progress Report", IMF, February
2006.
(11)"Vietnam: Poverty
Assessment", Asian Development Bank, February 2006.
(12)Ibidem.