1.
Đàn ông khống chế đàn bà là một quy luật trong xã hội loài người.
Điều đó phải chăng có nghĩa là trong lịch sử nhân loại chưa bao
giờ có xã hội mẫu quyền?
Một xã hội mẫu quyền là một hệ
chính trị trong đó mọi quyền hành từ chính trị, tôn giáo đến kinh
tế đều nằm trong tay đàn bà. Trong lịch sử nhân loại, quan điểm
cho rằng đã có những xã hội mẫu quyền, khá phổ biến. Một vài tác
giả cho rằng, từ nguyên thủy, trong giai đoạn bộc phát mãnh liệt
của nhân loại, tất cả các xã hội đều là mẫu quyền. Lý do, người
đàn bà sinh con, điều đó ban phát cho họ một quyền uy hầu như phù
thủy. Từ đó, các tác giả này cho rằng con người cho đàn bà tất cả
các quyền lực khác.
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng
định rằng, trên thế giới, chưa bao giờ có xã hội mẫu quyền. Những
điều đã nói trên đây, thực ra, đó là những xã hội tôn thờ sự mầu
mỡ trong người đàn bà, qua sự sinh nở hoặc các xã hội mẫu hệ với
quy luật quan hệ huyết thống theo dòng mẹ. Nhưng trong các xã hội
tôn thờ sự sinh nở, đàn bà không nắm quyền lực và trong các xã hội
mẫu hệ, anh em trai của các bà mẹ áp đặt quyền thống trị.
2.
Nghĩ gì về những huyền thoại gợi lại những xã hội thống trị bởi
đàn bà, chẳng hạn huyền thoại Amazone?
Đúng là có nhiều huyền thoại cho
rằng thời xa xưa, đàn bà có quyền lực nhưng các huyền thoại đó
cũng kể rằng đàn bà đã sử dụng các quyền lực ấy một cách tồi dở và
bất công đến nỗi đàn ông đã nổi dậy, tàn sát đàn bà và nắm lấy
quyền lực.
Một huyền thoại khác kể lại rằng
vào thời rạng đông của nhân loại, tại bộ lạc thổ dân Onas, đảo Đất
Lửa (Terre de Feu), cực nam châu Mỹ La tinh, bây giờ đã bị tiêu
diệt, đàn bà đã sai khiến đàn ông như tôi đòi, nhờ một nhạc khí,
được gọi là rhomes, khi được quay chung quanh một sợi dây sẽ rống
lên. Khi nghe các tiếng rống này trong nhà đàn bà, những người đàn
ông đáng thương khiếp sợ vì họ nghĩ rằng các bà đang chung sống
với các thần linh. Huyền thoại cũng kể rằng một ngày đẹp trời, một
người đàn ông đã khám phá ra trò bịp bợm này và cùng đồng bọn chém
giết tất cả các bà, chỉ con gái là được tha cho sống để trở thành
các bà vợ gia nhân.
Các bà Amazone cũng là một huyền
thoại tương tự. Huyền thoại này được dựng lên từ những dữ kiện có
thật- sự hiện hữu của các chiến sĩ nữ của người Man rợ (Barbare
[2]), tương tự như
những chiến sĩ nữ của người Pháp cổ (Gaulois), nhưng theo người
Hy lạp thì huyền thoại các chiến sĩ nữ này đã biến thành các dân
tộc chiến sĩ nữ khống chế và sử dụng đàn ông như tôi đòi.
Trong mọi trường hợp, các huyền
thoại này đã được sáng tạo như một hình ảnh đi ngược lại hiện
thực, được sử dụng để giải thích cho quần chúng hiểu sự bất công
tột bực của hệ mẫu quyền và để tạo dựng sự chính đáng của phụ
quyền.
3.
Sự khống chế đàn ông trên đàn bà không dựa trên những thực tại
sinh học.
Nhiều người cho rằng sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà đã được
ghi khắc theo một trật tự tự nhiên. Đặc biệt, họ viện dẫn tính ưu
việt về thể xác của đàn ông- một thành tố dễ thấy nhất của trật tự
tự nhiên này- nhưng cũng đưa ra sự sinh đẻ được xem như là một
quyền lực và cũng là một yếu điểm. Một số nhà nghiên cứu khác tìm
cách giải thích nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn
bà bằng cấu trúc bộ óc. Hiển nhiên, họ không tìm thấy gì cả vì bộ
óc hai giới nam nữ đều vận hành hoàn toàn giống nhau. Thật ra, đàn
bà và đàn ông đều có cùng khả năng thể xác và tinh thần. Nhiều
người tưởng tượng rằng sự khống chế của đàn ông trên đàn bà dựa
trên dữ kiện là vào thời đại đồ đá cũ, trước khi trồng trọt và
chăn nuôi được phát minh, đàn ông được giao trọng trách săn bắn,
nuôi sống người trong nhóm giỏi hơn đàn bà được giao trọng trách
hái lượm. Thật ra, sự quan sát những sắc dân hiện đang sống bằng
săn bắn và hái lượm- khoảng 30 sắc dân sống như vậy tại Canada, Úc
và Phi châu- đã chứng tỏ ngược lại. Những tính toán của các nhà
dân tộc học cho biết người Bochimans [3], sống
tại sa mạc Kalahari (Botswana) hay người Pygmées [4],
sự thu hoạch bằng hái lượm của phụ nữ đã nuôi sống 80% người của
nhóm. Điều này được giải thích khá đơn giản: săn bắn là một sinh
hoạt khá bấp bênh, trong khi đó lượm củ và hái trái cây cũng như
sự giết các thú vật nhỏ như rùa, loài gặm nhấm, rắn… bằng gậy gộc
đem lại các thành quả đều đặn hơn. Các nghiên cứu này cũng chứng
tỏ rằng, ngược lại với các định kiến, số ki lô mét đàn bà đi bộ để
kiếm sống đôi khi nhiều hơn đàn ông và họ có một giác quan định
hướng tương tự như đàn ông.
4.
Tại sao đàn bà lúc nào cũng bị gạt ra ngoài các thói quen săn bắn
trong khi họ có những khả năng vật chất y hệt như đàn ông?
Đàn
bà sở dĩ bị cấm không được đi săn tại một số lớn xã hội săn bắn vì
những lý do biểu tượng. Các thành viên của các xã hội này nhận
thấy rằng đàn bà có những chu kỳ kinh nguyệt, và họ mất kinh khi
họ có bầu hoặc trong thời gian cho con bú. Từ đó, họ suy diễn ra
rằng máu có thể thành chất (substance)- cơ thể của đứa con- hoặc
thành sữa. Từ khởi thủy, họ nghĩ rằng nếu đàn bà làm đổ máu thú
vật trong các cuộc đi săn, họ có thể bị xuất huyết kinh niên do
hậu quả của sự đối xứng tưởng tượng giữa vũ trụ và cơ thể con
người. Máu của các con vật bị giết có thể làm chảy máu đàn bà,
bằng một giao cảm, theo nghĩa triết lý, với thiên nhiên và về lâu
về dài có thể làm cho đàn bà không sinh nở được nữa.
Vì
những lý do văn hóa biểu tượng mà đàn bà không được quyền làm đổ
máu thú vật, nghĩa là đi săn. Điều đó trước hết là để bảo tồn sự
mầu mỡ (sinh con) của họ.
5.
Ngoài các tín ngưỡng này, còn những khác biệt gì khác về vóc người
giữa đàn bà và đàn ông?
Priscille Touraine, một nhà nhân
chủng học trẻ tuổi, đã nghiên cứu sự khác biệt về vóc người giữa
đàn ông và đàn bà cùng những giải thích sự khác biệt này do các
nhà bác học, sinh học và di truyền học đưa ra từ một thế kỷ nay.
Công trình khảo cứu này đã chứng tỏ rằng, theo tiến trình hàng
nghìn năm, vóc người của đàn bà không ngừng giảm sút, trong khi đó
vóc người đàn ông tăng trưởng vì những áp lực đào thải mãnh liệt.
Hiện trạng lưỡng hình (dimorphisme) này được giải thích một cách
rất đơn giản: sự dinh dưỡng của đàn ông và đàn bà hoàn toàn khác
nhau.
Thật vậy, sự dinh dưỡng được đặt
trên căn bản một hệ tín ngưỡng cho rằng đàn ông cần nhiều protein
hơn đàn bà. Theo dòng lịch sử, đàn bà được nuôi nấng bằng ngũ cốc,
cháo, thức ăn trắng (không có thịt) và nhẹ, đi đôi với bản chất
yếu đuối và mong manh của họ. Các món ăn như thịt, mỡ, muối khoáng
được ưu tiên dành cho đàn ông. Khi những thiếu hụt này tích lũy
trong hàng nghìn năm, hậu quả đương nhiên là những thích ứng thể
xác, những biến dạng cơ thể, những sự khác biệt về vóc người,
cuối cùng được xem là tự nhiên, trong khi đó là thực tế thu được
mang nặng tính văn hóa.
Ngày nay, tại Pháp những sự khác
biệt về dinh dưỡng đã mất đi, nhưng chỉ gần đây mà thôi. Trong
thời đệ nhị thế chiến, tại nhiều vùng quê, đàn bà đứng hầu bàn
trong bữa ăn và sau đó ăn những món ăn thừa đàn ông để lại. Trong
các xã hội bình đẳng cận đại, những khác biệt về vóc người càng
ngày càng giảm bớt.
6.
Công trình phá cấu trúc đã hoàn tất, còn lại những khác biệt gì về
thể chất giữa đàn bà và đàn ông?
Chỉ
còn lại một khác biệt độc nhất: sự sinh đẻ. Sự bất đối xứng sinh
học này đưa đến việc chỉ có đàn bà mới sinh con. Ngoài ra., đàn
ông và đàn bà có cùng khả năng tinh thần, vật chất, tâm thần và
trí thức hay đạo đức.
7.
Tại sao sự khác biệt giữa phái nam và phái nữ trở thành một trong
những yếu tố cơ sở trong xã hội loài người?
Từ
thời nguyên thủy, con người luôn luôn tìm tòi ý nghĩa của sự phân
biệt không thể tránh được mà họ quan sát nơi tất cả các bầy thú và
ngưới: sự hiện hữu của hai giới tính, con đực và con cái. Dữ kiện
không thể khắc phục được này, một ụ chắn (butoir) thật sự cho tư
duy, đã dẫn họ đến sự sáng tạo tư duy loại xây dựng trên sự giống
nhau và khác nhau.Từ mô hình đực/cái này, con người đã sáng tạo
ra hàng trăm loại, từ thông thường như trên/dưới, nóng/lạnh, thụ
động/hoạt động, đến trừu tượng như hợp pháp/bất hợp pháp, thuần
lý/phi lý, lành mạnh/nguy hại v.v…Các loại này được kết hợp với
đực và cái nhưng trong mọi trường hợp những giá trị đực lúc nào
cũng được đánh giá cao, những giá trị cái lúc nào cũng bị đánh giá
thấp.
Tại
châu Âu, chẳng hạn, sự hoạt động là một giá trị đực và sự thụ động
là một giá trị cái, chính giá trị đực- hoạt động- được đánh giá
cao vì nó được liên hợp với sự làm chủ thế giới, và chi phối các
sự việc. Trong xã hội Ấn độ và Trung hoa, ngược lại sự thụ động
được liên hợp với đực và sự hoạt động với cái. Nhưng mặc dù với sự
đảo ngược này, đực đã được đánh giá cao: sự thụ động của đàn ông
được liên hợp với sự làm chủ chính mình, làm chủ các xúc động và
các ham muốn, trong khi đó, sự hoạt động của đàn bà được xem như
một sự náo động bừa bãi, lộn xộn.
8.
Làm sao giải thích sự đánh giá thấp đàn bà trong tập thể các xã
hội?
Vì
lý do một ụ chắn khác cho tư duy: Đàn bà sinh con thuộc cả hai
giới tính. Đó là một nhận thức thoạt nhìn có vẻ bình thường, không
có một ích lợi cỏn con nào, nhưng, như người ta nhận thấy qua các
huyền thoại, đã tạo nên một hối tiếc lớn cho con người: đàn bà có
thể làm con gái, nhưng đàn ông không thể làm con trai. Những người
thời tiền sử có thể tưởng tượng việc các bà làm cùng một thứ như
mình-nghĩa là con gái- như một cái khuôn sao lại một cái mẫu,
nhưng họ không hiểu rằng đàn bà có thể làm cái khác đàn bà- nghĩa
là con trai- vì họ không biết đến sự hiện hữu của tinh trùng và
noãn.
Sự
phát minh ra cơ chế của sự sinh sản rất chậm: Phải chờ đến cuối
thế kỷ 18, người ta mới hiểu được vai trò của giao tử (gamète) và
sự phát triển của phôi (embryon), và đến thế kỷ 20 mới khám phá
ra rằng trong việc thụ thai đóng góp của đàn bà cũng quan trọng
như của đàn ông. Trước những giai đoạn này, loài người đã cố tìm
hiểu làm sao đàn bà có thể sinh cái khác: con trai. Trước bí mật
to lớn này, tất cả đều đưa ra một trả lời như nhau: đàn bà không
làm gì cả trong công trình này.
Thật vậy, vài xã hội cho rằng đàn
bà, lúc sinh ra, đã có sẵn trong người họ những hình nhân nhỏ
(homoncule[5] ), có
giới tính. Những hình nhân này do các sức mạnh siêu nhiên, ông bà,
thần linh hoặc thần thánh đặt vào bụng đàn bà. Một vài tranh vẽ
của châu Âu vào thế kỷ 17 trình bày bụng đàn bà với nhiều ngăn
nhỏ, trong đó các hình nhân được sắp xếp.
Có hai mô hình giải thích sự sinh
sản của đàn bà. Theo mô hình thứ nhất, đàn ông chứ không phải đàn
bà nắm vai trò quyết định: muốn cho các hình nhân này lớn lên và
ra đời, cần phải có những hạt giống do đàn ông gieo vào bụng đàn
bà. Hơi thở cùng sự sống không sinh ra từ tử cung của đàn bà mà từ
hạt giống của đàn ông.
Theo
mô hình thứ hai, được Aristote lý thuyết hoá, đàn bà chỉ là vật
chất (matière), phát triển một cách hỗn loạn, bừa bãi, nếu không
có đàn ông, nhờ những hạt giống của họ, đã đem đến cho các vật
chất này hình thái và mặt mũi. Trong mô hình này, sự sinh ra con
gái là một thất bại, một thứ quỷ quái, nhất là nếu nó giống mẹ,
trong khi đó, nếu sinh con trai thì đó là một thành tựu, nhất là
nếu nó giống cha. Rất nhiều xã hội châu Phi lấy lại quan điểm này
khi khẳng định rằng đàn bà là những cái nồi hoặc những cái đãy hai
túi: họ cho rằng tử cung đàn bà là một cái chậu mà đàn bà dùng để
nấu chín (nuôi dưỡng) con. Trong mô hình thứ hai này, một lần nữa,
đàn ông giữ vai trò quyết định bởi vì chính họ đã đặt đứa con vào
bụng đàn bà.
Nói
tóm lại ,với bất cứ sự tưởng tượng nào về sinh sản, đàn bà đã bị
tước đi quyền sinh con và được xem là đồ chứa. Từ lâu, cơ thể phụ
nữ chỉ được xem như một cái bồn chứa dùng để nhận những hạt giống
của đàn ông và đàn bà như là vật (objet) mà đàn ông có quyền sử
dụng để làm cho họ những đứa con trai.
9.
Làm sao sự chất vấn về sinh sản dẫn đến hiện tượng khống chế của
đàn ông?
Có ba lý do :
Một là, sự kiện đàn ông bắt buộc qua cơ thể đàn bà để có con trai-
một công phẫn thực sự cho trí tuệ- đã củng cố từ hàng nghìn năm số
phận của đàn bà và mối quan hệ của họ với đàn ông. Tính thời gian
cần thiết để chế tạo một con người- chín tháng mang thai, một thời
gian dài cho bú và những săn sóc thường xuyên cho tới tuổi tự túc
để sống còn chống lại bệnh tật và tai nạn- đàn ông đã chiếm hữu
đàn bà bởi vì họ là một tài sản hoàn toàn cốt yếu cho sự sống còn
của nhóm.
Hai là, cả một chuỗi phong tục đã đưa đến việc người đàn bà không
thể nào tự do sử dụng cơ thể của mình: vì lý do cấm loạn luân, họ
đã bị cha hoặc các anh em trai cho người khác để đổi lấy những
người đàn bà của các nhóm khác.
Ba là, ngưới đàn bà cũng bị tước đi sự tiếp xúc với tri thức:
loại tri thức độc nhất được phép là tri thức cụ thể, cách dùng
thực vật, nội trợ, bếp núc, con cái. Đàn bà đã bị tước đi, trong
tất cả các xã hội loài người sự tiếp xúc với tập thể các chức
năng quyền lực.
Ba cột trụ này đã xây
nên, với một sức mạnh phi thường, mô hình tự ti, ngay cả trong đầu
đàn bà. Mô hình này không tuỳ thuộc phong tục tập quán có thể thay
đổi từ xã hội này sang xã hội khác: sự khống chế của đàn ông là
một mô hình phổ biến chi phối toàn thể các xã hội con người. Chắc
chắn, thế giới sẽ khác đi- một vài truyền thuyết đã chứng tỏ điều
này- nếu đàn ông có thể sinh ra con trai và đàn bà chỉ sinh ra con
gái.
10. Hiện nay, còn
những mô hình xã hội lạc hậu nào xây dựng chung quanh sự khống chế
của đàn ông?
Mô hình này còn hiện
hữu rất mãnh liệt trong đầu chúng ta, tại các xã hội mà chúng ta
xem là “cổ truyền” hay tại các xã hội châu Âu. Tại Burkina Faso[6]
, người người đàn bà nhóm Samos bỏ tất cả công việc đang
làm để cho một đứa bé trai bú khi nó khóc. Nếu là một đứa bé gái
khóc, họ tiếp tục việc đang làm, xong rồi mới cho đứa bé gái bú.
Lý do: con trai có một “trái tim đỏ”, nó sẽ dễ dàng nổi giận và sẽ
bị nguy hiểm nếu để nó tiếp tục khóc. Phải thỏa mãn nó ngay khi
nó có nhu cầu. Trái lại, với một đứa con gái, họ cho rằng nó phải
kiên nhẫn suốt đời: do đó phải tập cho nó biết chờ đợi khi mới
sinh ra. Xã hội người Samos đã sáng tạo rất sớm hai mẫu thái độ
trong cuộc đời: con trai có thói quen đòi hỏi được thỏa mãn tức
khắc các ham muốn, con gái chấp nhận chờ đợi người ta đem đến
những điều cần thiết, nếu họ muốn.
Trong các xã hội tiền
tiến, những dấu ấn của sự chế ngự của đàn ông vẫn còn dai dẳng.
Trong một cuộc thí nghiệm về tâm lý do một trường đại học Mỹ điều
khiển, các nghiên cứu gia đã hỏi hai nhóm sinh viên khác nhau bình
luận về một tấm hình một đứa bé đang gào thét, mồm mở to và nắm
nắm tay lại. Các sinh viên được hỏi cho biết lý do của thái độ
này. Nếu các nghiên cứu gia cho biết đó là một đứa bé trai, các
sinh viên trả lời rằng đứa bé đang giận dữ, rất tức giận và không
chịu đựng bị phật ý. Với nhóm sinh viên thứ hai, các nghiên cứu
gia cho biết đó là một bé gái, thì họ cho rằng đứa bé đang sợ hãi,
buồn phiền, người ta đã làm cho nó đau đớn, và cần được an ủi. Một
cách tự phát, trước cùng một tấm ảnh, chúng ta đã liên kết giống
đực với cơn giận, hành động hay sự chống đối, và giống cái với kêu
ca, rên rỉ, sợ hãi hay phiền muộn.
11. Nguồn gốc của
sự đàn ông khống chế đàn bà có liên hệ trực tiếp với ý chí của đàn
ông chiếm hữu đàn bà để sinh sản cho họ con trai. Các thuốc hoặc
phương pháp ngừa thai đã hoặc sẽ có thể cho phép xây dựng một xã
hội bình đẳng?
Hiển nhiên, chúng ta
không thể quên đi sự quan trọng của các bình đẳng về kinh tế, giáo
dục, nghề nghiệp hay chính trị mà phụ nữ đã đạt được, nhưng thuốc
ngừa thai là một cuộc cách mạng vĩ đại bởi vì nó đã áp đặt từ
thượng nguồn sự ưng thuận tất yếu của người đàn bà khi lập gia
đình. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, phụ nữ có thể lựa
chọn, cùng một lúc, người đàn ông mà họ mà họ ăn nằm để sinh con
đẻ cái, số con mà họ muốn cho ra đời, thời điểm mà các đứa con
được sinh ra. Họ trở thành những chủ thể toàn bộ. Thuốc ngừa thai
là một công cụ giải phóng tuyệt vời bởi vì nó đã tác động vào đúng
huyệt của sự cưỡng chế đàn bà.Thật vậy, chính khả năng sinh con đã
đưa đến sự giám hộ đàn bà và mưu toan chiếm đoạt họ để đặc biệt
làm vật trao đổi giữa các nhóm dân trong mục đích tối hậu là làm
con.
12. Nước Pháp sắp
bầu cử tổng thống, lần đầu tiên trong lịch sử Pháp một người đàn
bà – bà Ségolène Royal[7] - có thể trở thành
tổng thống. Nghĩ gì về hiện tượng này, với tư cách một nhà nhân
chủng học?
Muốn cho sự canh tân
xã hội có thể thành công, nhiều khi phải cần cả hàng thế kỷ và
tiến trình thành công có thể qua ba giai đoạn:
Một là, nó phải là
có thể một cách logic, nghĩa là nó có thể quan niệm, tưởng
tượng được trong bầu trời ý niệm.
Hai là, nó phải có
thể tư duy một cách có trí tuệ, nghĩa là nó đến trong đầu óc
một số người ngay cả khi nó gây nên những mỉa mai cay độc, châm
chọc của người khác.
Ba là nó phải trở
thành tưởng tượng được một cách xúc cảm. Nghĩa là được đa
số quen dần với nó.
Nếu thỏa mãn được ba
điều kiện này, về mặt kỹ thuật, sự canh tân mới có thể thực hiện
được.
Ý niệm một người đàn
bà trở thành tổng thống, tại Pháp, có thể đạt đến giai đoạn ba,
nghĩa là nó đã được tưởng tượng một cách xúc cảm, trong thời gian
rất gần đây, gần đến nỗi những nhà chính trị, hoặc bình luận gia
chính trị không thấy nó đến [8].
Sự ứng cử của Ségolène Royal vào
điện Elysée [9] trong
thời gian đầu đã gợi lên những phản ứng trọng
nam khinh nữ (machiste) thường lệ: “Đó không phải là một cuộc
thi sắc đẹp”, “Ai nuôi giữ con ”, nhưng những nhà
chính trị gào thét những ý tưởng đó đã nhận thấy một cách nhanh
chóng rằng điều đó đã làm hại cho họ.
Mọi việc đều tiến triển một cách
nhanh chóng, nhưng sự khống chế của đàn ông còn nguyên vẹn hoặc
hầu như vậy trong hai thành trì: điếm (phụ nữ)- người đàn bà được
dùng như một món hàng để thỏa mãn nhu cầu nhục dục của đàn ông-,
được xem là không kiểm soát được, và đời sống nội trợ mà đàn bà
phải gánh vác phần lớn công việc (80%) tuy rằng họ đã tham gia vào
đời sống lao động ngoài xã hội.
Nhưng chúng ta hãy lạc quan: cái
gì đã được cấu trúc theo những hệ tư tưởng trong hàng nghìn năm
đều có thể bị phá cấu trúc, khi con người ý thức được tính giả tạo
của cấu trúc ấy.
Paris 28/04/2007
Hoàng Xuân Đài phỏng dịch
Chú thích
1
Nhân chủng học
dịch từ tiếng Pháp Anthropologie (Anthropology, tiếng Anh). Theo
từ điển Larousse, Anthropologie, có nghĩa là môn học về con
người, xét dưới chuỗi động vật (Etude de l’homme envisagée dans la
série animale). Theo nghĩa này, người ta có thể dịch sang tiếng
Việt là “nhân loại học ”(như Đào Duy Anh). Có bốn học
thuyết nghiên cứu về sự cấu tạo của loài người (nhân loại khởi
nguyên):
- Vốn có từ xưa vô cùng mà lưu
truyền lại
- Do ngẫu nhiên mà
sinh ra
- Do thần tạo ra
- Từ loài động vật mà
tiến hoá lên loài người như a) người là vượn tiến hoá lên, b)
người và vượn cùng gốc mà tiến hoá khác nhau, c) loài người vượn
là động vật ưu tú hơn vượn mà kém người.
Nhân loại học là môn
học nghiên cứu về con người theo học thuyết nhân loại khởi nguyên
thứ 4.
Ngoài ra ,
Anthropologie còn có một nghĩa khác trong cụm từ Anthropologie
culturelle (hay sociale) là “Môn nghiên cứu sai biệt về tín
ngưỡng hay cơ chế được xem là nền tảng của những cấu trúc xã hội
” (Etude différentielle des croyances et des institutions conçues
comme fondement des structures sociales). Trong trường hợp này,
dịch sang tiếng Việt là “nhân chủng học” có lẽ thích
hợp hơn.
Nhà phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc trong bài “Đi tìm Võ Phiến ”(nguyệt san
Thế Kỷ 21, số 215, tháng ba 2007, Hoa Kỳ) đã dịch Anthropology là
“nhân học”.
2
Người
Hy Lạp xưa kia gọi tất cả các dân tộc khác, ngay cả người
La mã, sống ở ngoài văn minh Hy lạp là Man rợ. Sau đó chính người
La mã cũng tự đồng hóa thành người Hy lạp. Lịch sử gọi Man rợ các
lũ người vũ trang (Goth, Vandale, Burgonde, Suève, Avar, Franc
v.v…) từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 4 bị người Hung nô đánh đuổi,
đã tràn qua xâm chiếm đế quốc La mã, đánh đổ các đế vương Tây
phương và thành lập những nước ít nhiều lâu bền.
3
Người Bochimans hay Boschimans (tiếng Anh Bushmen) là dân tộc du
cư sống tại sa mạc Kalahari, cực nam châu Phi. Người Bochimans vóc
nhỏ bé, có những đặc tính nhân chủng học và văn hóa rất cổ.
4
Người Pygmées sống tại châu Phi xích đạo, vóc người nhỏ bé, còn
được gọi là Négrilles. Đừng nhầm với người lùn trong thời đại cổ
Hy lạp-La tinh bị đày đi sống tại nhiều nước, nhất là vùng thượng
nguồn sông Nil.
5
Homoncule: người nhỏ, không cơ thể, không giới tính có những khả
năng siêu nhiên, do các phù thuỷ sáng tạo ra .
Tự điển Larousse (Pháp)
6
Tên mới của xứ Cộng Hòa
Haute-Volta, thuộc miền tây châu Phi.
7 Nước Pháp bầu tổng
thống mới thay tổng thống Jacques Chirac. Cuộc bầu cử này gồm hai
vòng, vòng đầu được tổ chức vào ngày chủ nhật 22/04/2007. Hai ứng
cử viên được nhiều phiếu nhất sẽ được chọn để ứng cử vòng hai,
được tổ chức hai tuần sau, vào ngày chủ nhật 6/5/2007. Trong vòng
hai, người được nhiều phiếu nhất sẽ trở thành tổng thống. Theo kết
quả của các cuộc thăm dò dư luận, hai ứng cử viên có triển vọng
vào vòng hai là Nicolas Sarkosy, thuộc đảng đang cầm quyền: Liên
Hiệp cho một Phong trào Quần chúng (UMP: Union pour un Mouvement
Populaire) và bà Ségolène Royal đảng Xã hội (PS: Parti
socialiste). Hai ứng cử viên này có hai đặc tính khác các ứng cử
viên khác từ xưa đến nay, ngoài việc bà Ségolène Royal là một
người đàn bà, nếu đắc cử sẽ là người đàn bà đầu tiên lên làm tổng
thống nước Pháp, ông Nicolas Sarkosy không phải là một người Pháp
chính thống mà là một người di dân thế hệ hai (tên trên giấy khai
sinh Nicolas, Paul, Stéphane Sárközy de Nagy-Bócsa, con một
người di dân Hung Pál Sárközy de Nagybocsa, tên Hung là
nagybocsai Sárközy Pál, khi Hồng quân chiếm đóng Hung
năm 1944, gia đình bị tịch thu tài sản và bắt buộc
tị nạn qua tây Âu).
8 Trong số những người
này, phải kể đến Alain Duhamel một nhà báo chuyên về chính trị và
nhà viết tiểu luận (essayiste) nổi tiếng. Trong tác phẩm viết về “Những
người ngấp nghé ghế tổng thống Pháp vào năm 2007 ” (Les
Prétendants 2007), xuất bản năm 2006, ông đã kiểm kê 20 người,
nhưng không kể đến bà Ségolène Royal. Gần đây, trước sự thành công
của bà Ségolène Royal- một trong những nhân vật chính trị ăn khách
nhất của Pháp theo các cơ quan thăm dò dư luận và đã được đắc cử
ứng cử viên tổng thống, với 3/5 số phiếu, trong cuộc tranh cử nội
bộ của đảng Xã hội, thắng hai ứng cử viên được xem là những “con
voi ”(éléphant, nghĩa là nhân vật nặng ký) của đảng Xã hội:
Laurent Fabius, cựu thủ tướng và Dominique Strauss-Kahn, cựu tổng
trưởng kinh tế tài chánh-, Alain Duhamel đã quyết định thêm một
chương nói về Ségolène Royal trong lần tái bản cuốn sách nói trên
dưới dạng sách bỏ túi (édition Poche). Nhưng không hối tiếc gì về
sự “quên” của mình. Người ta có thể đọc: “Để nói những sự việc
như chúng nó là, không có gì về hành trình của Ségolène Royal
trong đảng Xã hội chứng tỏ bà có cương vị thành tổng thống và
trong các chức vụ hạng hai mà bà đã giữ trong chính phủ -trong
mọi trường hợp bản tổng kết thành tích bà để lại- không cho phép
xếp đặt sẵn bà là ứng cử viên hay sửa soạn thành ứng cử viên tổng
thống”
9
Tên của phủ tổng thống Pháp