Trở về Việt Nam sau
ba mươi năm lià xa, tôi đã đi không ngừng, Saigon ra
Trung, Hà Nôi vô Nam; và mong sẽ quên chuyện non nước mình,
như qua lời bản nhạc Tôi Sẽ Đi Thăm của Trịnh Công Sơn. Càng đi
tôi càng nhận thức rằng chúng ta không nên quên chuyện non nước
mình. Muốn hướng tới một tương lai công bằng, dân chủ, văn minh,
giàu mạnh ta phải nhớ quá khứ; nhớ để tha thứ chớ không phải nhớ
để nuôi dưỡng hận thù. Theo tôi, ngày 30/4/75 là ngày thống nhất
đất nước, giải phóng miền Bắc khỏi sự cơ cực, dối trá; và không
phải là ngày mà cả nước đều đi chung cuộc mừng với các nhà
lãnh đạo Cộng Sản ở Ba Đình.
Tôi đã thấy gì trong chuyến đi thăm xuyên Việt
hồi tháng 12/06? Một nước Việt đang tiến bước và thay đổi rất
nhiều. Hà Nội có một nếp sống đô thị đích thực, khởi sắc, sôi nổi
chớ không gượng gạo, dè dặt và buồn như thời thập niên 80. Thủ đô
nước Việt Nam đứng hàng thứ saú trên cả Bắc kinh trong cuộc bình
chọn 10 thành phố du lịch hấp dẫn nhất ở Châu Á. Còn Saigon thủ đô
của một chế độ đã chết, giờ mang tên mới Thành phố Hồ Chí Minh hết
còn là Hòn Ngọc Viễn Đông, bị tụt hậu tuy có nhiều sửa sang, xây
cất. Nón cối, dép râu, aó quần xộc xệch của cán bộ đã biến đi đâu
mất. Giao thông trong thành phố Saigon Hà Nội là một khủng hoảng
lớn. Giờ cao điểm xe cộ rối nùi; mạnh ai nấy lách, lấn. Đi bộ băng
qua đường là một thử thách. Du khách phải liều và bình tĩnh tiến
bước mới được. Taxi và xe ôm rất thông dụng. Saigon co gồn tám
triệu dân mà số xe gắn máy là bốn triệu chiếc.
Chuyện đánh cho Mỹ
cút cho ngụy nhào, giờ đã xưa rồi vì rằng Mỹ không có cút và ngụy
cũng chẳng có nhào. Đổi mới thực chất chỉ là trở về cái cũ. Thật
vậy, ảnh hưởng Mỹ và ảnh hưởng của các con rồng, con cọp kinh tế Á
Châu như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai Á, Thái Lan, Nhật…
hửơng lợi nhờ cuộc chiến nói trên, hiển hiện trong mọi sinh hoạt.
Dân tình sính dùng tiếng Anh nhiều hơn thời Việt Nam Cọng Hòa. Một
số người có cung cách Mỹ hơn cả Việt Kiều. Một anh bạn của tôi cho
biết khi tới một quán cà phê karoke ở Saigon anh nghe thấy họ hát
toàn nhạc tiếng Anh. Tôi không bị làm khó dễ ở phi trường khi nhập
nội hay khi trở về Mỹ. Báo chí nở rộ; in ấn đẹp, đủ loại, đủ kiểu,
rất hiện đại nhưng tất cả đều nằm trong vòng cương tỏa. Nhà văn,
nhà báo được nhà nước và đảng xem như con cháu trong nhà.
Trong gần một tháng ở
Việt Nam tôi không bị phiền nhiễu giấy tờ hay phải khai báo chỗ
lưu trú. Tôi cũng không hề thấy dấu vết gì của Nga và Trung Cọng.
Các điệu nhạc giống Tàu ra rã trong những ngày tháng sau khi quân
miền Bắc tiến chiếm Saigon không còn nghe nữa. Thiên hạ mua bán
rộn rịp. Nếu không thấy bóng dáng mấy anh cảnh sát hay cờ đỏ, khẩu
hiệu, tượng hình Hồ Chí Minh thì ta sẽ có cảm tưởng như cuộc sống
trở lại như thời trước 1975. Nhà văn Dư thị Hoàn trong một bài
phỏng vấn trên Văn Nghệ Sông Cửu Long ngày 27/9/06 cho biết “cuộc
chuyển hướng này không mang dáng dấp bước tiến, hay vũ điệu bước
ngoặt, mà thực chất là bước giật lùi, quay trở lại điểm xuất phát
của thời thị trường tự do, sau khi đã trượt dài trên con đường bao
cấp lạc hướng ê chề gần nửa thế kỷ qua”.
Cuộc cách mạng
thầm lặng
Ngoài ra, ít ai biết
một cuộc cách mạng thầm lặng đã diễn ra ở miền Bắc sau năm 1975.
Đó là “cuộc cách mạng khu phụ, có người gọi là nền văn minh toa
lết từ Saigon tràn ra”. Theo hai tác giả Nguyễn thị Ngọc Hà và
Trần Chiến trong cuốn 36 Góc Nhìn, sự kiện này là biến đổi lớn
trong nền kiến trúc nhà cửa của các gia đình Hà Nội. Người ta chịu
tốn nhiều tiền hơn để xây kiểu “xí bệt” thay vì kiểu “xí xổm”. Phó
Thủ Tướng Mả Lai Á Najib Razak trong một buổi triển lãm cầu tiêu
nhằm cổ động cho ngành du lịch nước này trong năm 2007 nói rằng
“cầu tiêu là bộ mặt của đất nước”. Và mức độ văn minh của quốc gia
được đánh giá qua độ sạch sẽ của phòng vệ sinh. Nếu thế thì hóa
ra, cuộc “giải phóng” miền Nam đã giúp và làm cho miền Bắc xã hội
chủ nghĩa văn minh hơn.
Về Việt Nam chưa được
một tháng nhưng tôi đã đi thăm đủ bà con anh em thân thích, mồ mã
cha ông từ Nam chí Bắc và gặp lại hầu hết bạn bè một thời; trở lại
đường xưa phố cũ để nhớ về những kỹ niệm cũ. Tôi đã được ăn lại
một số đặc sản của đất nước từ trái vú sửa, ly nuớc dừa ở Bến Tre,
Bình Định, bưởi Biên Hòa, cho đến bánh xèo, bánh bột lọc ở Huế và
chả cá, bánh cuốn ở Hà Nội... Lúc đầu tôi còn dè dặt sợ đau bụng
nhưng sau nhiều lần ăn thử thấy không sao tôi đã không từ nan thứ
gì bất kỳ ở đâu, từ đầu đường xó chợ cho đến các cửa tiệm như quán
TIB gặp Hoàng Tá Thích và Trịnh Vĩnh Tâm, hai bạn cũ, kể chuyện về
ông Bush ăn cơm Việt. Chỉ trừ uống nước có đá lạnh. Tôi thấy phở ở
Việt Nam không ngon bằng phở ở ngoại quốc. Chỉ có bún bò Huế là
ngon và càng ở chỗ bình dân lại càng tuyệt hơn. Tôi có dịp chiêm
nghiệm lời nhận xét của nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường cho rằng
lòng yêu nước là lòng yêu những món ngon mà mình được ăn hồi nhỏ.
Sau khi đến Saigon
một ngày, tôi đi Bến Tre thăm mộ Phan Thanh Giản ở ấp Thanh Nghĩa,
xã Bảo Thạnh, Huyện Ba Tri. Mộ được ông Phan Thanh Nhàn trông coi
sạch sẽ. Tôi không hiểu đảng Cọng Sản thù hằn gì Phan Thanh Giản
mà trong những ngày đầu chiếm miền Nam, họ đòi phải dời mộ cụ Phan
đi chỗ khác. Ông Phan Thanh Nhàn lúc đó học lớp chín bị đuổi,
không cho học tiếp. Nhà văn Lê Thị Huệ rất đúng khi trong cuốn
Văn Hóa Trì Trệ Nhìn Từ Hà Nội Đầu Thế Kỷ 21 đã gọi
“những người Cọng Sản là Những Kẻ Chiến Thắng Hèn Hạ”. (Tôi còn
nhớ trước 1975 trong một chuyến làm phóng sự khi đi qua mộ của cha
Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh, ông Tỉnh Trưởng chỉ cho tôi thấy và nói
“chúng tôi vẫn giữ cho được sạch sẽ”. Chính mắt tôi thấy một người
lao công đang quét dọn). Trước khi ra về, tôi ghé qua thắp nhang
hai ngôi mộ Võ Trường Toản và Đồ Chiểu. Hai ngôi mộ này được ty
Văn Hóa Thông Tin cử người đặc trách trông coi nên trông rất tươm
tất và lại rộng rãi.
Từ Saigon, tôi đi Qui
Nhơn, Bình Định thăm mồ mã anh chị em, bà ngọai, bà nội, ba má tôi
bằng máy bay của Hàng Không Việt Nam. Hồi xưa, trước năm 1945 gia
đình tôi ở đó. Bước lên chiếc maý bay hai cánh quạt của Nga Sô làm
tôi hơi ớn. Các cô chiêu đãi trên máy bay lịch sự, toàn là giọng
Bắc nhẹ nhàng. Trời buổi sáng tốt trong xanh. Maý bay bay êm ả,
mất khỏang một tiếng. Tôi được dịp nhìn bờ biển miền Trung. Qui
Nhơn phát triển nhiều, xây cất khắp nơi; dọc bờ biển toàn là khách
sạn dành cho du khách. Mồ mã chôn ở Huỳnh Kim, Nhơn Hòa, An Nhơn.
Người bà con dùng xe gắn maý chở tôi đi thăm mộ; chạy loanh quanh
qua các đường mòn nhỏ hẹp, len lõi qua nhiều cánh đồng. Sảng khoái
vì có thể hít thở không khí trong lành ở nhà quê và ngắm dãy
núi Trường Sơn xa xa. Bức tranh thật đẹp.Tất cả như mơ.
Từng đàn cò trắng
Hôm sau rời Qui Nhơn,
tôi về Huế bằng xe lửa để viếng mộ hai ông cố Phan Tôn, Phan Liêm,
ông nội; thăm bà con họ hàng sinh sống ở đất Thần Kinh; nhớ lại
thời học sinh ở trường Quốc Học. Ruộng đồng, đồi núi, biển cả lần
lượt lướt qua. Miền Trung có rất nhiều cò trắng. Chúng bay từng
đàn hay chậm rãi bước trên những cánh đồng vắng. Ở trong Nam, khi
đi Bến tre, xe chạy ra miền quê, tôi không thấy có nhiều cò như ở
đây. Có lẽ miền Trung nhiều cò là vì chiều tối chúng có nơi trú ẩn
ở các rặng núi xa xa? Xe lửa chạy mất một buổi mới đến Huế. Bầu
trời xám xịt, ướt át. Huế mùa đông lúc nào cũng buồn. Về nhà người
bà con ở. Nằm trong mùng nghe mưa rơi rĩ rã; tàu lá chuối sột
soạt. Lòng bồi hồi. Ôi tiếng quê hương sao mà thấm vậy. Mấy mươi
năm không về; cũng mấy mươi năm không ngủ trong mùng. Thao thức,
mông lung.
Mộ hai ông Phan Tôn
(1837-1893), Phan Liêm (1833-1896) được chôn ở chùa Trà Am, thôn
Tư Tây, xã Thủy An, Huế. Bia mộ làm cách đây hơn cả trăm năm, viết
bằng chử Hán nên con cháu, tuy biết nơi chôn, nhưng không định rõ
mộ naò vì đọc không được. Sau này nhờ vị trù trì chùa dịch ra; con
cháu mới làm thêm chữ quốc ngữ ở sau bia để dễ tìm. Mộ nằm gần
núi, xa xôi cách trở nên khó đi lại. Muốn đến chùa phải đi qua một
đoạn đường mòn Hồ Chí Minh. Cũng là một dịp hay cho tôi để biết vì
nghe nói nhiều về con đường này. Đường được tráng nhưa, rộng, tốt,
nhưng vắng hoe. Không có xe nào chạy ngang cả. Ba ngày ở Huế, tôi
đã đi lại những con đường quen thuộc. Vaò chợ Đông Ba, qua Gia
Hôi; vào Thượng Tứ rồi lên Thiên Mụ, thăm Văn Miếu Huế và bia tiến
sĩ, xây năm 1808 có những tên Phan Thanh Giản, Nguyễn Khuyến, Chu
mạnh Trinh…;về Vỹ Dạ, tôi thấy Huế quá nhỏ và thời gian ở đây như
chậm lại . Hồi đó đạp xe vòng vòng sao mà xa dữ.
Câu nói của tác giả
Diệu Phước trên tập san Tiếng Sông Hương: “Huế quan liêu phong
kiến, Huế cung cách bảo thủ, Huế thâm, Huế sâu, Huế trầm tĩnh hài
hòa, Huế lãng mạn, ướt át, Huế khắt khe khó tính, Huế đam mê cực
đoan, Huế đa tình, đa mang; vô vàng tĩnh từ khen chê khác nhau về
người Huế, bề mặt và bề sâu, có đó mà không có đó” đủ để nói
về cái chất và đất Huế. Mấy ai đã từng ở Huế hay đã đi qua Huế mà
không vấn vương về Huế. Tôi đến đứng trước trường Đồng Khánh và
Quốc Học để nhớ một thời. Thất vọng vì không còn thấy tà áo trắng.
Trường nữ bây giờ là trường học hỗn hợp nam nữ học chung. Và việc
chính quyền phá cái đàn Nam Giao để xây một đài liệt sĩ cũng làm
cho tôi cảm thấy ghê tởm như nhà văn Phạm Xuân Đài đã viết trong
Nghĩ Về Huế. Mặt khác, khi nhìn Tử Cấm Thành ở Huế quá nhỏ so với
Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh tôi không tránh khỏi buồn.
Tôi đến Thăng Long,
đất rồng bay, nơi mà năm 1010 Lý Công Uần lập đô, bằng chuyến xe
lửa từ Huế ra, vào lúc 5:30 sáng ngày 20/12/06; thuộc loại vé “nằm
mềm điều hòa”. Lần đầu tiên đặt chân xuống đất Hà Nội ở ga hàng
Cỏ, tôi đã háo hức đi ra nhìn thành phố còn lù mù dưới ánh đèn
đường. Tuy chưa bao giờ hít thở không khí quê ngoại của tôi, nhưng
đã thấy ba mươi sáu phố phường, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch, hồ
Tây, Văn Miếu, đền Ngọc Sơn, cầu Thế Húc, chùa Một Cột … qua sách
báo thơ văn từ thời niên thiếu. Thậm chí, còn nghêu ngao thì thầm
hát Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành: “Nhìn "em" mờ trong mây
khói, bước đi nhưng chưa nỡ rời. Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng
biệt ly” bao lần.
Hà Nội Trong Mắt
Tôi
Tôi cũng đã biết thủ
đô nước Việt Nam Dân Chủ trong thập niên 80 qua lời kể của nhiều
người trong đó có nhà tôi, trước khi vượt biên, đã ra Bắc tìm xác
cha, ông đã mất lúc đi học tập cải tạo; qua Hà Nội Trong Mắt
Tôi của nhà văn Phạm Xuân Đài; qua Lô Sơn Yên Tỏa của
nhà phê bình Trần Doãn Nho; và qua cuốn Văn Hóa Trì Trệ Nhìn Từ Hà
Nội Đầu Thế Kỷ 21. Thời đó, hầu như không có người nào ăn mặc đẹp
đẻ. Đầu đội nón cối. Quần áo bộ đội thì sẩm màu và nhầu nát. Xe
đạp khắp nơi. Tiếng chuông xe leng keng chừng như át cả tiếng
người. Ở đây không có ý niệm về đời sống của một đô thị văn minh.
Ngã tư có hệ thống đèn giao thông nhưng không nơi nào dùng cả.
Thành phố đang nằm dưới sức đè nặng trĩu của một cơ chế. Thảo nào,
nhà văn Dương Thu Hương khi vào đến Saigon, ngồi xuống vệ đường ôm
mặt khóc, vì “thấy nền
văn minh đã thua chế độ
man rợ”.
Hà Nội ngày nay rất đẹp. Trong cái lạnh se sẽ buổi sớm mai vào
tiết cuối năm, dễ khiến cho du khách muốn lang thang cùng khắp.
Nắng đã lên. Sinh hoạt rộn ràng, linh hoạt. Xe cộ chạy len lách
chẳng khác gì Saigon. Tôi đã ngồi bệt xuống một cái ghế nhựa thấp
kiểu vỉa hè, thưởng thức một diã bánh cuốn Thanh Trì. Ở xa nhìn
tới thấy như một dúm người ngồi chồm hỗm bu quanh một gánh hàng mà
ăn xì xụp. Rất thú vị; một bửa ăn sáng đáng nhớ. Sau đó tôi đi
loanh quanh để biết phố phường như thế nào. Rồi lại tạt vào một
quán cà phê vỉa hè, quán Thái. Lại một lần nữa, tôi hưởng cái thú
ẩm thực văn hóa vỉa hè. Một điệu nhạc quen thuộc của Trịnh Công
Sơn vụt đến với tôi “phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu”.
Xe lửa trước khi ngừng, họ bỏ bản nhạc Mùa Thu Hà Nội để nhắc mọi
người là đã đến nơi ngàn năm văn vật rồi.
Muốn thăm dân cho biết sự tình có lẽ la cà ở các quán ở vỉa hè là
tốt nhất. Hà NộI có trên ba triệu dân mà có đến 100.000 người sống
nhờ văn hóa ẩm thực ở vỉa hè. Hằng ngày các hàng ăn uống được phép
xử dụng vỉa hè để kinh doanh từ 5:00 giờ đến 8:00 giờ sáng hay từ
7:00 giờ đến 12:00 giờ đêm. Ngồi nơi đây có thể nghe đủ thứ
chuyện. Họ làm thầy bàn từ chuyện thể thao đến chuyện thế giới hay
chuyện riêng tư. Có một ông khách ngồi gần tôi cù tôi ghé quán ông
mới mở có món thịt chó hầm sâm, vừa ngon, vừa bổ, vừa rẻ. Ông đã
sáng tạo, kết hợp tài tình giữa ẩm thực Việt Nam và thế giới Trung
Hoa, Đại Hàn để có một món ăn mới. Ăn thịt chó hầm sâm sẽ làm tăng
được tính sinh lực cho cả ông lẫn bà và còn cho ta dáng đẹp lẫn
làn da hồng.
Tôi viếng thăm Hà Nôi chỉ có ba ngày. Một ngày đi tham quan danh
lam thắng cảnh Hạ Long. Còn hai ngày ngắn ngủi nhưng cũng đã thăm
bà con bên ngoại, viếng Đền Ngọc Sơn, cầu Thế Húc, Văn Miếu, làng
Bát Tràng bên bờ sông Hồng. Từ Hànội đi đến Bát Tràng nếu bằng xe
hơi mất chưa tới một tiếng. Đậy là nơi sản xuất đồ gốm lâu đời
nhất. Tôi thấy họ bày bán đủ chén bát diã, mấy tách trà tốt và rẻ
hơn ở bên Tàu. Tại Hà Nôi, tôi may mắn được hai người bạn trẻ,
hiện làm việc cho các hảng ngoại quốc, hướng dẫn đi tham quan và
ăn uống nên rất thoải mái. Tôi đã đi chợ đêm, ăn ốc ở Tây Hồ, chã
cá Lã Vọng. Hà Nội tuy có nhiều khẩu hiệu, nhiều hình tượng lãnh
tụ nhưng hai nam nữ mà tôi vừa quen rất thoáng và cởi mở. Họ tin
rằng, tương lai nằm trong tầm tay của họ chớ không phải tuỳ thuộc
vào cơ chế.
Các cô gái Hà Nội mà tôi gặp rất xinh, lịch lãm, khó quên. Giọng
nói dễ làm xiêu lòng. Còn thành phố đẹp là nhờ có những hàng cây
xanh xum xuê hơn ở Paris. Hình như mỗi phố có mỗi loại cây khác
nhau. Ngoài ra, Hà nội còn có nhiều nước. Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Hồ
Thiền Quang, Hồ Trúc Bạch…lúc nào cũng trong xanh diụ mát. Nhiều
cành cây là đà, rũ bên bờ trông rất thơ mộng. Tạp chí Travel and
Leisure của Mỹ vừa công bố kết quả bình chọn 10 thành phố du lịch
hấp dẫn nhất ở Châu Á, qua đó, thành phố này đứng hạng sáu, trên
cả Bắc Kinh. Ngoài những điểm nêu trên, Hà Nội còn là một thủ đô
có bề dầy lịch sử một ngàn năm và có nét kiến trúc hòa quyện nét
đặc trưng Á Đông với Phương Tây. Tuy nhiên, theo nhà văn Lê Thị
Huệ thì thành phố buồn vì vắng tiếng chim hót. Cây xanh Hà Nội
không phải là miền đất lành chim đậu vì nó không ăn ở tử tế với
lòai vật bé nhỏ, hiền lành. Tôi cũng không thấy bóng dáng người ăn
xin nào.
Xa lạ nhưng vẫn vậy
Tôi ở Hà Nội chỉ có ba ngày rồi phải bay về Saigon, thành phố mà
tôi đã lớn lên. Saigon vừa quen thuộc vừa xa lạ. Quen thuộc vì vẫn
góc phố đó, vẫn khu nhà đó; nhưng người lạ, tiếng nói lạ, quang
cảnh lạ. Tôi đã đi lại khắp phố cũ đường xưa. Tôi sống trong một
tâm trạng khó tả. Tôi rời Việt Nam năm 1976 và nghĩ rằng sẽ không
bao giờ trở lại và Không bao giở mơ rằng sẽ có một ngày ngồi lại ở
quán cà phê Givral, tán dốc với bạn bè thời trước. Bên kia Givral
là toà nhà Quốc Hội bây giờ là nhà hát lớn. Nơi này một cách đây
hơn ba thập niên đã có những sinh hoạt nghị trường, thể hiện phần
nào cái mô hình xã hội miền đất bại trận mà theo nhà văn nữ miền
Bắc Phạm Thị Hoài nhận định Việt Nam Cọng Hòa “là nhà nước đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam thiết lập trên những nguyên tắc căn
bản của nền dân chủ hiện đại”.
Nhờ có mô hình xã hội này mà “miền Nam Việt Nam trong thời kỳ ấy
cũng phát triển một nền văn học xứng đáng về phẩm lẫn lượng”. Đó
là nhận xét của nhà văn Võ Phiến trong văn học tổng quan. Sau ngày
30/4/75 sách, báo nhạc bị cấm bán, cấm hát; bị tịch thu đi, tịch
thu lại năm lần bảy lượt cho kỳ sạch vết tích. Dù vậy, nó vẫn tồn
tại trên mọi nẽo đường đất nước và trong tâm hồn nhiều người từ
Nam chí Bắc. Các tên tuổi Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc
Nhuận, Ngô Công Đức, Kiều Mộng Thu…một thời ồn ào, nổi đình nổi
đám từ chế độ này mà ra. Biết bao vui buồn, hỉ, nộ, ái, ố của thời
Đệ nhất, Đệ Nhị Cọng Hòa. Sau ngày dinh Độc Lập bị xe tăng Nga Sô
T54 uỉ tất cả êm re.
Tôi hỏi một người bạn về những khuôn mặt chống đối chế độ cũ bây
giờ đâu rồi? Anh ta trả lời: hào khí Nam kỳ - hễ thấy chuyện bất
bình thì nỗi xung lên tiếng, bênh vực - bây giờ như ngọn lửa rơm.
Chủ nghĩa Cọng Sản đốt cháy trụi. Phong trào Phục Hưng Miền Nam
giờ chẳng còn ai. “Đụ mẹ tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn nói cái
gì”? Ông Nguyễn văn Trấn, trong cuốn Viết Cho Mẹ & Quốc Hội cho
biết ông Tôn Đức Thắng đang ngồi đã liền đứng dậy bước ra khỏi
ghế vừa đi vừa nói khi được hỏi sao để cho cải cách ruộng đất giết
người nhiều như vậy? Điều này cho thấy rằng cái chủ nghĩa Cọng Sản
mà ông Hồ Chí Minh mang về Việt Nam là nguyên ủy của mọi trì trệ,
tang thương cho đất nước. Chất độc da cam thì níu áo Mỹ. Còn nọc
độc của chủ nghĩa Cọng Sản được xem như tội ác chống nhân loại,
thì bắt đền ai đây?
Ngay giữa trung tâm Saigon có một công viên Lê văn Tám, khá đẹp.
Công viên này trước kia là nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi. Bây giờ ai cũng
biết nhân vật lịch sử “anh hùng Lê Văn Tám” hoàn toàn không có
thật! Nhà sử học Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ tuyên truyền và
cổ động đã phịa ra Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người
và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè. Ông Trần Huy Liệu
được xem là một trong những nhà sử học hàng đầu và nhiều quyền lực
tại miền Bắc VN, mất năm 1969.
Sách giáo khoa dành cho lớp 5 có nói về anh hùng này. Nhiều tỉnh
và thành phố của VN lấy tên Lê Văn Tám đặt cho các trường học,
tượng đài, công viên, đường phố.
Khác với Trần Doãn
Nho khi ra Hà Nôi, nhìn lăng ông Hồ Chí Minh, nhà phê bình đã băn
khoăn “nghĩ đến những phiền hà mà thế hệ sau sẽ gặp phải trong
cuộc phế hưng”.
Tôi cho rằng giữa
Saigon mà có một biểu tượng dối trá, xúi trẻ thơ ăn đạn và chết là
môt tôi ác, tuy nhiên cũng là một điều hay. Bên Nga sau khi chế độ
Cọng Sản cáo chung, chính quyền Mạc Tư Khoa lập một công viên goi
là công viên những thần tượng bị hạ bệ. Họ lôi vào
đó các tượng đài Lenine, Staline cho nằm lăn lóc. Tôi đã đến nơi
này vào mùa hè năm 2006. Công viên anh hùng xạo Lê văn Tám đã được
dọn sẵn để làm nơi an nghỉ cho các tượng đài hết thời trong một
ngày nào đó.
Phan Thanh Tâm
2/2007