Lời nói đầu
Nhân dịp Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chuẩn bị Đại hội lần thứ XVII dự trù
vào tháng 10 sắp tới, chúng tôi làm lược duyệt các đại hội của
đảng này từ khi thành lập năm 1921 ở Thượng Hải.
Cũng như các
đảng cộng sản khác trên thế giới, ĐCSTQ không tránh khỏi những vụ
thanh trừng trong hàng lãnh đạo. Ngoại trừ Mao Trạch Đông và Giang
Trạch Giang có nhiệm kỳ ngoài 10 năm, những tổng bí thư khác có
nhiệm kỳ ngắn hạn. Cụ thể là Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Vương Minh,
Lý Lập Tam, Tần Bang Hiến, Trương Văn Thiên, Hoa Quốc Phong, Hồ
Diệu Bang, Triệu Tử Dương. Những lãnh tụ nổi tiếng khác có số phận
hẩm hiu hơn như Trương Quốc Đào, Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch, Bành
Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu,vv...
Những chiến
dịch "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", "Đại Nhảy Vọt" rồi
"Đại cách mạng văn hoá" của Mao Trạch Đông làm nhiều chục triệu
người tử vong và làm biết bao nhiêu chục triệu gia đình tan nát.
Gần đây nhất là sự kiện Thiên An Môn trong năm 1989. Sự kiện này
là một thảm kịch và bị người Trung Quốc ví như ngày sỉ nhục của
nhân loại cũng như ngày 28-2-1947 ở Đài Loan [Tưởng Giới Thạch cho
sát hại từ 10 đến 30 ngàn dân Đài Loan nổi loạn chống chính quyền
Nam Kinh lúc đó].
Bài viết này
chia ra làm hai phần. Phần đầu dành cho bình luận và phần sau dành
cho trình bày các đại hội.
I-Bình luận
1-Bối
cảnh ra đời của ĐCSTQ
ĐCSTQ ra đời
vào thời kỳ cực kỳ hỗn loạn. Vào cuối triều Thanh, đất đai Trung
Quốc bị ngoại bang chiếm đóng và chia ra nhiều tô giới : Nga Sô ở
Đông Bắc, Nhật Bản ở Sơn Đông, Anh và Pháp ở Thượng Hải và một số
nơi khác.
Sau cách mạng
Tân Hợi tháng 10-1911 lật đổ nhà Thanh (1644-1911), Tôn Dật Tiên
(1866-1925) trở thành tổng thống đầu tiên của Cộng Hoà Trung Hoa.
Viên Thế Khải (1859-1916) thừa cơ tình trạng rối ren để tái lập
nền quân chủ nhưng bất thành. Sau khi Viên chết, Lê Nguyên Hồng
lên cầm quyền ở Bắc Kinh nhưng thực tế là nạn sứ quân do các quân
phiệt chiếm cứ tranh hùng như thời Xuân Thu Chiến quốc.
Những nhóm quân
phiệt có ảnh hưởng lúc đó là những thủ hạ cũ của Viên Thế Khải như
Trương Huân (1854-1923), Phùng Quốc Chương (1859-1919), Nghê Tự
Xung (1871-1919), Đoàn Kỳ Thuỵ (1865-1936) và Từ Thụ Tranh
(1880-1925). Nhưng sau đó, họ chia ra hai nhóm để tranh giành
quyền lực. Nhóm Trực Lệ của Phùng Quốc Chương và nhóm An Phúc (còn
gọi là Bắc Dương) của Đoàn Kỳ Thuỵ, Từ Thụ Thanh và Nghê Tự Xung.
Nhóm Trực Lệ sau đó được Anh và Mỹ ủng hộ do Tào Côn (1862-1938),
Tôn Truyền Phương (1884-1935) và Ngô Bội Phu (1874-1939) kiểm soát
Giang Tô, Giang Tây và Hồ Bắc. Nhóm An Phúc kiểm soát Bắc Kinh,
Thiểm Tây, Sơn Đông, Chiết Giang và Phúc Kiến. Nhóm Phụng Thiên do
Trương Tác Lâm (1873-1928), được Nhật ủng hộ, kiểm soát ba tỉnh
Đông Bắc (Mãn Châu).
Nhiều nhóm nhỏ
khác chiếm cứ các tỉnh như Phùng Ngọc Tường (1882-1948) phía Tây
Bắc, Diêm Tích Sơn (1883-1960) tỉnh Sơn Tây, Triệu Hằng Tích
(1880-1917) ở Hồ Nam, Lưu Tương (1890-1932) ở Tứ Xuyên, Đường Kế
Nghiêu (1883-1927) thống trị Vân Nam và Quý Châu, Lục Vinh Đình
(1868-1928) chiếm cứ Quảng Tây vv…
Nói tóm lại,
mỗi vùng đều có một đốc quân chiếm cứ.
Tôn Dật Tiên,
sau nhiền lần thất bai, về Quảng Đông dưới sự bảo trợ của Trần
Quýnh Minh (1878-1933). Nhưng sự sống chung của ông với họ Trần
kéo dài không lâu. Ông kêu gọi các đại biểu của Quốc hội 1912 về
Quảng Đông và được họ bầu làm tổng thống vào tháng 4-1921. Ông chủ
trương xích lại gần với Liên Xô vì thất vọng với các cường quốc
tây phương. Mikhail Borodin (1884-1952) trở thành cố vấn chính trị
của ông từ tháng 10-1923. Trần Độc Tú, người sáng lập cộng sản
Trung Hoa, được bổ nhiệm bộ trưởng bộ Giáo Dục. Chính từ nơi này
mà Tưởng Giới Thạch, người nối tiếp Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn)
thành công thống nhất đất nước năm 1928.
ĐCSTQ ra đời
năm 1921 vào lúc nước Trung Hoa có một chính quyền không thực
quyền ở Băc Kinh, một chính quyền bấp bênh ở Quảng Châu và các
chính quyền của đốc quân ở các tỉnh. Đại bộ phận quần chúng là
nông dân sống trong cảnh nghèo khó. Công nghiệp bắt đầu thành hình
với các xí nghiệp vốn nước ngoài và tư sản mại bản. ĐCSTQ lúc ban
đầu lợi dụng khủng khoảng kinh tế trong những năm 1922-1924 để kêu
gọi công nhân nổi dậy ở thành phố nhưng thất bại. Tư năm 1927 trở
đi, Đảng này nương dựa vào nông dân vì bị QDĐ của Tưởng Giới Thạch
càn quét.
Sau khi bị
Tưởng càn quét ở thành thị, ban lãnh đạo ĐCSTQ dời về Tỉnh Cương
Sơn thuộc tỉnh Giang Tây để nương dựa vào nông dân. Chính ở nơi
đây, một "Cộng Hoà Xô Viết" được thành lập trong năm 1931 lấy thị
trấn Thuỵ Kim làm "thủ đô" với Mao Trạch Đông làm chủ tịch. Thực
sự quyền lực của Mao trong giai đoạn này còn giới hạn thậm chí còn
bị Vương Minh và người đại diện QTCS Otto Braun loại ra ngoài ban
lãnh đạo trong hè 1932. Tháng 10-1934, Thuỵ Kim bị 700000 quân
Tưởng bao vây, chính phủ của Mao phải tháo chạy mà sau nầy họ gọi
là cuộc "Vạn lý Trường Chinh" kéo dài trong một năm. Trên đường
tháo chạy, Mao cho triệu tập một hội nghị vào tháng 1-1935 ở Tuân
Nghĩa thuộc tỉnh Quý Châu để lấy lại quyền lực cho đến ngày chết
năm 1976.
2-ĐCSTQ
qua các Đại hội
Như chúng ta sẽ
thấy ở phần sau, các Đại hội đầu của ĐCSTQ không có định kỳ cho
đến Đại hội lần thứ IX. Từ Đại hội I đến Đại hội VI, trung bình có
từ một tới hai năm. Giữa Đại hội VI và Đại hội VII, khoảng cách
đến 17 năm. Lý do chính là ĐCSTQ đang ở vào thời kỳ củng cố quyền
lực và giao chiến vừa với Nhật và với QDĐ. Giữa Đại hội VIII và
Đại hội IX, khoảng cách là 13 năm. Trong thời gian này, Mao phiêu
lưu cho thực hành nhiều chiến dịch chống hữu khuynh, chiến dịch
Đại Nhảy vọt và thời kỳ đầu Đại cách mạng văn hoá. Giữa Đại hội X
và XII, khoảng cách là 4 năm. Từ Đại hội XII trở đi, định kỳ là 5
năm.
Cũng như các
đảng cộng sản khác trên thế giới, ĐCSTQ chịu sự chỉ đạo của Quốc
Tế Cộng sản (QTCS, Komintern). Hai thành viên Maring và Nicolsky
của QTCS tham dự và điều khiển Đại hội lần thứ I và ở các Đại hội
sau. Thậm chí, Đại hội lần thứ VI (1928) phải họp ở Mạc Tư Khoa.
Trong thời gian ngự trị của Stalin từ 1925 đến 1953, đường lối của
ĐCSTQ tuân theo chỉ thị của Stalin. Như chúng ta biết, Stalin vào
lúc ban đầu không tin tưởng nhiều ở ĐCSTQ. Stalin ngược lại đặt hy
vọng vào Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tôn Dật Tiên và ra lệnh ĐCSTQ
phải hợp tác dưới sự chỉ đạo của QDĐ. Một phái bộ của QTCS do
Borodin làm cố vấn chính trị bên cạnh Tôn Dật Tiên đặt trụ sở ở
Quảng Châu từ tháng 10-1923. ĐCSTQ và QDĐ hợp tác chặt chẽ thậm
chí nhiều lãnh đạo của ĐCSTQ được bầu vào ban Chấp hành của QDĐ và
đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như Đàm Bình Sơn, Lâm Bá Cừ,
Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai, Bành Bái vv..
Trần Độc Tú,
người lãnh đạo đầu tiên của ĐCSTQ tuân theo đường lối này cho đến
tháng 8-1927 thì bị các bạn đồng hành lên án theo "chủ nghĩa cơ
hội" và được Cù Thu Bạch lên thay. Nhưng họ Cù ở cương vị lãnh đạo
không lâu thì bị Hướng Trung Phát, một công nhân thiếu kinh nghiệm
lên thay ở Đại hội lần thứ VI ở Mạc Tư Khoa. Nhưng đây cũng chỉ là
một thoả thuận tạm thời giữa các phe nhóm trong ban lãnh đạo của
ĐCSTQ, thực quyền hành động do Lý Lập Tam nắm. Sau các cuộc nổi
dậy thất bại ở thành phố, Lý Lập Tam bị cách chức để nhường chổ
cho Vương Minh, người trung thành của Stalin. Khi Vương Minh được
đề cử làm đại diện cho ĐCSTQ bên cạnh QTCS vào tháng 9-1931, thì
phe cánh của Vương Minh là Tần Bang Hiến lên thay cho đến đầu
tháng 1-1935. Từ 1931 đến 1934, một "Cộng hoà Xô-Viết" được thành
lập ở Giang Tây do Mao Trạch Đông làm chủ tịch nhưng dưới sự lãnh
đạo của Tần Bang Hiến. Kế tiếp là cuộc Trường Chinh bắt đầu từ
tháng 10-1934. Trong cuộc Trường Chinh này, Otto Braun, người đại
diện của QTCS, làm cố vấn quân sự. Chính "nhờ" những thất bại liên
tiếp của Otto Braun mà Mao đã thành công lấy lại quyền lực ở hội
nghị Tuân Nghĩa đầu tháng 1-1935. Ở hội nghị này, Trương Văn
Thiên, Vương Gia Tường và Dương Thượng Côn, ba người trong 28
người "bôn–sê-vích" thuộc nhóm Vương Minh ủng hộ Mao trong khi Tần
Bang Hiến bỏ phiếu chống. Mao khôn khéo đưa Trương Văn Thiên giữ
chức tổng bí thư Đảng, chỉ nắm lấy chức vụ trách nhiệm về quân đội
cho tới khi về Diên An. Trong những năm đầu ở Diên An, Mao chưa
dám đương đầu thẳng với Vương Minh vì chống Vương Minh là chống
lại QTCS và Stalin. Tuy vậy, Mao từ từ cô lập Vương Minh bằng cách
đầu độc ông ta.
Như vậy có thể
nói là Stalin, thông qua QTCS, đã điều khiển ĐCSTQ cho đến 1943
khi Mao Trạch Đông chính thức thay Trương Văn Thiên làm tổng bí
thư Đảng.
Sau này khi Mao
Trạch Đông lên thống trị toàn lục địa, Mao đã nhiều lần lên án các
bạn đồng hành, đặc biệt là Vương Minh, đã tuân thủ một cách mù
quáng mệnh lệnh của Stalin.
Thực vậy, giữa
Mao và Stalin có một sự chống đối sâu đậm bắt đầu từ thập niên 20
trong thời kỳ chính quyền Xô-Viết ở Giang Tây.
Năm 1924, sau
gần 3 năm ĐCSTQ được thành lập, QTCS ra lệnh ĐCSTQ thành lập một
Mặt trận thống nhất với QDĐ. Trung Hoa lúc đó ở trong tình trạng
đại hỗn loạn, QTCS muốn ĐCSTQ hợp tác với QDĐ để lật đổ các lãnh
chúa quân phiệt hầu thống nhất đất nước dưới một chính phủ trung
ương. Nhưng từ năm 1927, Tưởng Giới Thạch quay lại giết hại những
người cộng sản và tiêu diệt cơ sở của Đảng trong thành thị. Mao
rút về Hồ Nam, quê hương của ông ta, tham dự những cuộc nổi dậy
của nông dân. Mao không quên, trong lịch sử của Trung Hoa, những
cuộc nổi dậy phát xuất từ nông thôn. Từ kinh nghiệm đó, Mao tin
chắc rằng cách mạng quốc gia của thế kỷ XX sẻ ở nông thôn và nông
dân sẽ là lực lượng nồng cốt. Mao đề ra một chiến thuật táo bạo
không chính thống trên phương diện chủ nghĩa Mác-Lê nhưng thích
hợp với điều kiện lịch sử của Trung Quốc. Mao phát động cuộc khởi
nghĩa "vụ gặt mùa thu" của nông dân do ĐCSTQ lãnh đạo. Mao hy vọng
với thời gian có thể làm hao tổn lực lượng của Tưởng và đồng thời
lãnh đạo nông dân chiếm thành thị.
Mao bị phe QTCS
phản đối và bị buộc tội hữu khuynh bảo thủ. Mao bị giáng chức cùng
bị khai trừ đảng tịch và bị phê phán thiếu kinh nghiệm. Từ đó về
sau, Stalin gọi Mao là "củ cải, hồng bên
ngoài nhưng trắng trong ruột".
Chiến tranh
Triều Tiên tạo thêm một nguồn căng thẳng giữa Mao và Stalin. Khi
quân đội Mỹ tiến đến sông Áp Lục, biên giới giữa Trung Quốc và
Triều Tiên, Mao thông báo cho Stalin là Trung Quốc sẽ gửi quân
sang chiến đấu. Nhưng Stalin không có ý định tham chiến vì sợ sẽ
đưa đến đại chiến thế giới lần thứ ba.
Sau Đại hội lần
thứ VII ở Diên An năm 1945, Mao tập trung quyền lực cho đến ngày
chết năm 1976.
Sau khi Cộng
Hoà Nhân dân Trung Hoa được tuyên bố ngày 1-10-1949 ở Bắc Kinh,
Mao trở thành chủ tịch Đảng kiêm chủ tịch Nước và chủ tịch Uỷ ban
quân sự TƯ.
Đại hội lần thứ
VIII (1956) lần đầu tiên ở Bắc Kinh là một đại hội thách thức cho
Mao. Đại hội được triệu tập vài tháng sau Đại hội lần thứ XX của
Liên Xô. Ở Đại hội này, báo cáo của Khrushchev lên án tội trạng
tày trời của Stalin làm chấn động cộng sản thế giới. Ban lãnh đạo
Trung Quốc đứng đầu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thừa cơ hội
lên án chủ nghĩa tôn sùng cá nhân và chủ trương lãnh đạo tập thể.
Nói một cách khác, hai người này gián tiếp công kích Mao đã hành
động như Stalin thậm chí còn đề nghị chức chủ tịch "danh dự" Đảng
cho Mao. Địa vị của Mao bắt đầu bị lung lay. Đặng Tiểu Bình trở
thành tổng bí thư Đảng và Lưu Thiếu Kỳ sau đó giành chức chủ tịch
Nước của Mao. Đây là bước ngoặt trong quan hệ giữa Mao và ban lãnh
đạo. Từ 1956 đến 1969, Mao phản công lại bằng cách mở ra những
chiến dịch "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", "Đại Nhảy Vọt"
và "Đại cách mạng văn hoá". Mao thành công loại trừ các địch thủ
với cái giá phải trả là đất nước trở nên kiệt quệ và nhiều chục
triệu người tử vong.
Để loại trừ
địch thủ, Mao liên minh với Lâm Bưu đang nắm quân đội và nhóm cực
đoan của Thượng Hải còn gọi là "tứ nhân bang" gồm Giang Thanh, vợ
Mao, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên. Đó là
kết quả của Đại hội IX (1969). Nhưng cuộc sống chung của Mao với
nhóm Lâm Bưu không lâu dài. Lâm Bưu muốn lấy chức chủ tịch Nước bị
bỏ trống từ khi Lưu Thiếu Kỳ bị loại thậm chí còn muốn thay thế
Mao. Lâm Bưu toan tính làm đảo chính trong tháng 9-1971 nhưng bất
thành và chết trên đường đào tẩu. Thế là nhóm Lâm Bưu bị loại ở
Đại hội X (1973).
Từ đó trở đi,
Mao lâm trọng bịnh và tạm thời giao quyền cho Hoa Quốc Phong. Đặng
Tiểu Bình được phục chức sau nhiều năm "học tập" ở Giang Tây. Đây
là thời kỳ tranh giành quyền lực giữa 3 nhóm : Hoa Quốc Phong,
Đặng Tiểu Bình và nhóm "tứ nhân bang". Sau khi Mao từ trần năm
1976, nhóm Hoa Quốc Phong và nhóm Đặng Tiểu Bình tạm thời liên
minh để loại trừ nhóm "tứ nhân bang". Sau khi thắng nhóm này, nhóm
Hoa Quốc Phong và nhóm Đặng Tiểu Bình chia quyền lực ở Đại hội lần
thứ XI (1977). Ở Hội nghị lần thứ 3 khoá XI (1981), Đặng Tiểu Bình
thực sự lấy lại quyền lực. Từ đó trở đi, có thể nói là thời kỳ của
Đặng Tiểu Bình cho đến ngày chết trong năm 1997. Thực vậy, ở Đại
hội lần thứ XII (1982), Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, hai người
thân gần của Đặng Tiểu Bình nắm hai chức vụ trọng yếu là Tổng bí
thư Đảng và thủ tướng chính phủ. Còn Đặng Tiểu Bình là chủ tịch Uỷ
ban quân sự và chủ tịch ban cố vấn. Quyền lực của ông Đặng không
thua kém Mao Trạch Đông trước đó. Cũng như Mao Trạch Đông, Đặng
Tiểu Bình không may mắn ở người thừa kế. Hồ Diệu Bang muốn mở rộng
chính trị cùng lúc với mở rộng kinh tế nhưng ông ta bị áp lực của
nhóm bảo thủ trong Đảng. Ông bị cách chức ngày 25-12-1986 sau khi
sinh viên và học sinh xuống đường biểu tình đòi tự do dân chủ.
Đại hội lần thứ
XIII (1987) đưa Triệu Tử Dương thay Hồ Diệu Bang. Họ Triệu thay họ
Hồ vào thời kỳ khó khăn về kinh tế. Ở hội nghị lần thứ 3 khoá XIII
(tháng 9-1988), nhóm bảo thủ đòi ngừng chỉ chính sách cải cách
kinh tế của Triệu Tử Dương. Từ đó, số phận của ông ta trở thành
bấp bênh cho đến sự kiện Thiên An Môn.
Ngòi nổ là sự
từ trần bất thần của Hồ Diệu Bang ngày 15-4-1989. Sinh viên và học
sinh chiếm lấy quảng trường Thiên An Môn lấy cớ tưởng niệm họ Hồ
để đòi chế độ dân chủ hoá như họ đã đòi trong mùa đông 1986. Thêm
một lần nữa, Triệu Tử Dương bị cách chức trong tháng 6-1989 vì
muốn hoà hoản với sinh viên và được Giang Trạch Dân lên thay.
Triệu Tử Dương bị quản thúc tại gia cho đến ngày chết (17-1-2005).
Đại hội lần thứ
XIV (1992) và thứ XV (1997) là Đại hội của Giang Trạch Dân. Trong
13 năm cầm quyền, họ Giang đặt những thủ hạ vào các chức vụ trọng
yếu mà người ta thường gọi là nhóm Thượng Hải. Họ Giang đặt quan
tâm phát triển ở các vùng duyên hải và bỏ rơi nông thôn. Hậu quả
là hơn 200 triệu dân công (mingong) về thành phố tìm kế sinh nhai.
Họ Giang nhường
chổ cho Hồ Cẩm Đào ở Đại hội lần thứ XVI (2002) nhưng bám giữ chức
chủ tịch Uỷ ban quân sự cho mình cho đến khi bắt buộc phải nhường
chức cho họ Hồ trong tháng 9-2004.
Từ 5 năm qua,
Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lãnh đạo đất nước. Về phương diện chính
trị, họ hành đông như người tiền nhiệm Giang Trạch Dân nghĩa là
vẫn áp dụng chính sách mở rộng kinh tế và siết chặc về chính trị,
thậm chí hai người này còn vượt họ Giang trong một số lãnh vực.
Không một tiếng nói đối lập nào có thể phát biểu trong nước. Chính
quyền kiểm soát chăt chẽ giới báo chí, các cà phê inernet vời sự
đồng loã của Google. Họ thẳng tay trừng trị hoặc bắt bớ các ký giả
bày tỏ quan điểm không giống họ cũng như họ đàn áp tôn giáo đặc
biệt là đối với môn phái Pháp Luân Công.
3-Thay
lời kết
Từ ngày thành
lập cho đến nay, ĐCSTQ đã có được 86 năm trong đó có 58 năm cầm
quyền ở lục địa.
Điều mỉa mai là
nếu mục tiêu của ĐCSTQ ở Đại hội lần thứ I là "huỷ bỏ tư hữu cho
đến không còn giai cấp" thì Quốc hội của họ vừa công nhận chính
thức quyền tư hữu của công dân. Đây là một điều tốt trong xã hội
dân chủ văn minh. Nhưng trong trường hợp của Trung Quốc, họ thực
tế làm hợp thức hoá những việc chiếm đoạt bất hợp pháp đất đai của
nông dân trong nhiều thập niên qua để làm thoả mãn giai cấp tư bản
đỏ. Ông Mác nếu còn sống có lẽ phải chết thêm một lần nữa.
Hai ông Hồ Cẩm
Đào và Ôn Gia Bảo, ngoại trừ biến cố khó có thể xảy ra, sẽ ở lại
thêm một nhiệm kỳ mới. Họ đã chuẩn bị từ nhiều tháng qua bằng cách
thay đổi các bí thư tỉnh uỷ ở các thành phố lớn như đưa Tập Cận
Bình về Thượng Hải, Trương Cao Lệ về Thiên Tân, Lý Kiến Quốc về
Sơn Đông cũng như họ đã cho thay đổi trước đó một số bí thư tỉnh
uỷ thân gần của Giang Trạch Dân.
II-Trình bày các
Đại hội
1-Đại hội
lần thứ nhất từ 23 đến 31 tháng 7-1921 ở Thượng Hải
Từ tháng 8 đến
tháng 10-1920, Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu chuẩn bị để thành lập
Đảng cộng sản Trung Quốc với sự tập họp của các nhóm cộng sản Bắc
Kinh, Thượng Hải, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Quảng Đông và sinh
viên ngoài nước ở Pháp và Nhật Bản. Một cuộc tập họp các đại biểu
diễn ra vào tháng 3-1921 để chuẩn bị Đại hội lần I dự trù từ ngày
23 đến ngày 26-6-1921. Nhưng vì nhiều đại biểu từ các nơi, do điều
kiện giao thông đương thời, không đến kịp. Họ chỉ tới ngày 23
tháng 7-1921. Hội nghị diễn ra trong một trường nữ học sinh đang
nghỉ hè ở 106 đường Wantz trong tô giới Pháp, nay là 76 đại lộ
Hành Nghiệp Thượng Hải.
Tham dự Đại hội
có 12 đại biểu đại diện cho 50 đảng viên.
Trần Độc Tú
1879-1942 và Lý Đại Chiêu 1889-1927, dù là những người cổ động
sáng lập, vắng mặt.
12 đại biểu đó là :
-Mao Trạch Đông,
1893-1976 và Hà Thúc Hành,
1870-1935, đại
biểu Trường Sa, tỉnh
Hồ Nam,
-Đỗng Tất Vũ, 1886-1975
và Trần Đàm Thu, 1896-1943,
đại biểu Vũ Hán, tỉnh
Hồ Bắc,
-Lý
Đạt, 1890-1966 và Lý Hán Tuấn, 1890-1927,
đại biểu Thượng Hải,
-Trương
Quốc Đào, 1897-1979
và Lưu Nhân Tĩnh,
1899- ?, đại biểu Bắc Kinh,
-Vương
Tận Mỹ, 1898-1925
và Đặng Ân Minh
1890-1930,
đại biểu Tế Nam, tỉnh Sơn Đông,,
-Trần
Công Bác 1890-1946, đại biểu Quảng Châu, tỉnh Quảng
Đông,
-Châu
Phật Hải, 1897-1948, học sinh lưu học tại
Nhật Bản,
-Bào
Huệ Tăng, đại diện Trần Độc Tú.
Ngoài ra còn có thêm hai đại
diện của Quốc Tế Cộng sản (QTCS) :
HS.Maring (bí danh H. Sneevliet,
gốc người Hoà Lan) và Nicolsky.
Trong ngày cuối cùng, đại hội
phải chuyển đi nơi khác trên một thuyền trên hồ Nam ở Gia Hưng
thuộc tỉnh Chiết Giang vì bị cảnh sát và công an khám xét rình mò.
Mục tiêu của Đại hội là thành
lập chính thức ĐCSTQ và mục tiêu của tranh đấu là "lật đổ chế độ
trưởng giả bằng quân đội cách mạng vô sản để thành lập độc tài
chuyên chính, huỷ bỏ tư hữu cho đến không còn giai cấp ".
Nguyên tắc tổ chức : tập
trung dân chủ.
Đại hội bầu ra ban lãnh đạo
gồm ba người sau :
-Trần Độc Tú : Bí thư
-Trương Quốc Đào : Trưởng ban
Tổ chức
-Lý Đạt : Trưởng ban Tuyên
truyền.
Chú thích
Những đại biểu đầu tiên,
ngoại trừ Mao Trạch Đông và Đổng Tất Vũ về sau nắm chính quyền,
những người khác bị chết hoặc bỏ Đảng như Trương Quốc Đào, Lưu
Nhân Tĩnh thậm chí phản Đảng như Trần Công Bác năm 1922 và Châu
Phật Hải năm1924.
2- Đại hội lần thứ II
từ 16 đến 23 tháng 7-1922 ở Thượng Hải.
Có 12 đại biểu đại diện 195
đảng viên.
Đại biểu tham dự có : Trần
Độc Tú, Trương Quốc Đào, Lý Đạt, Thái Hoà Sâm, Cao Quân Vũ, Vương
Tận Mỹ, Đặng Trung Hạ, Thi Tồn Thống, Lý Chấn Doanh, Dương Minh
Trai, Trần Vọng Đạo, Hạng Anh.
Đại hội chủ trương trong
giai đoạn đầu làm cách mạng dân chủ chống đế quốc và chống phong
kiến để đưa đến cách mạng xã hội trong giai đoạn hai. QTCS chủ
trương hợp tác với Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tôn Trung Sơn.
Đại hội bầu ra một ban Chấp
hành gồm :
-Uỷ viên chính thức
(5) : Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm, Cao Quân Vũ,
Đặng Trung Hạ.
-Uỷ viên dự khuyết
(3) : Lý Hán Tuấn, Lý Đại Chiêu, Hướng Cảnh Dự (nữ).
Bộ chính trị
Chủ tịch : Trần Độc Tú
Trưởng ban Tổ chức : Trương
Quốc Đào
Trưởng ban Tuyên truyền :
Thái Hoà Sâm.
3-Đại hội lần thứ III
từ 12 đến 20-6-1923 ở Quảng Châu
Có hơn 30 đại biểu trong đó
có 19 đại biểu có quyền bỏ phiếu đại diện cho 420 đảng viên.
Tham gia Đại hội có : Trần
Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Mao Trạch Đông, Thái Hoà Sâm, Cù Thu Bạch,
Trương Quốc Đào, Trương Thái Lôi, Trần Đàm Thu, Hướng Cảnh Dự,
Vương Hà Ba, Chu Thiếu Liên, Đàm Bình Sơn, Hạng Anh, La Chương
Long, Đặng Trung Hạ, Từ Mai Khôn, Đặng Bồi, Lý Hán Tuấn, Trương
Liên Quang vv..
Theo chỉ thị của QTCS, Đại
hội thảo luận thành lập một Mặt trận cách mạng thống nhất chống đế
quốc và vấn đề hợp tác với QDĐ. Trương Quốc Đào chống lại việc hợp
tác với QDĐ còn Mao Trạch Đông tuy không chống nhưng nghi ngờ khả
năng của QDĐ trở thành một tổ chức quần chúng. Cuối cùng, Đại hội
quyết định cho phép đảng viên gia nhập với tư cách cá nhân nhưng
vẫn giữ độc lập trên phương diện chính trị, ý thức hệ và tổ chức.
Đại hội bầu ra một Ban Chấp
hành gồm có :
Uỷ viên chính thức
(9) : Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Thái Hoà Sâm, Vương Hà Ba, Mao
Trạch Đông, Chu Thiếu Liên, Đàm Bình Sơn, Hạng Anh, La Chương
Long.
Uỷ viên dự khuyết (5) :
Đặng Trung Hạ, Từ Mai Khôn, Đặng Bồi, Lý Hán Tuấn, Trương Liên
Quang.
Trung ương Cục (Bộ
chính trị)
-Uỷ viên trưởng : Trần Độc Tú
-Bí thư : Mao Trạch Đông
-Thủ quỷ : La Chương Long
-Phụ nữ : Hướng Cảnh Dự
-Tuyên truyền : Thái Hoà Sâm,
Đàm Bình Sơn (Vương Hà Ba thay Đàm trong tháng 9).
Ngoài ra, 4 người đặc trách ở
các tỉnh : Lý Đại Chiêu / Bắc Kinh, Đàm Bình Sơn /Quảng Đông, Hạng
Anh / Hồ Bắc, Chu Thiếu Liên /Hồ Nam.
Chú thích
Như trên đã nói, Đại hội
lần thứ III mở đường hợp tác Quốc-Cộng dưới sự chỉ đạo của QTCS.
Tháng 10-1923, đại diện QTCS Mikhail Borodin (1884-1952) đặt phái
bộ bên cạnh Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu. [Ông Hồ Chí Minh làm việc
cho phái bộ này].
Đại hội lần thứ I của QDĐ
triệu tập từ 20 đến 30-1-1924 có 165 đại biểu trong đó có ngoài 20
đại biểu cộng sản như Lý Đại Chiêu, Lâm Bá Cừ, Đàm Bình Sơn,Trương
Quốc Đào, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông vv..
Đại hội bầu ra một ban
Chấp hành trong đó có 25% người cộng sản. Một số thành viên cộng
sản nắm nhiều chức vụ quan trọng như Đàm Bình Sơn làm trưởng ban
Tổ chức, Lâm Bá Cừ trưởng ban Nông dân, Mao Trạch Đông trưởng ban
lâm thời Tuyên truyền.
Ngoài ra theo lời đề nghị
của ĐCSTQ, hai học viện trong nước được thành lập : học viện Phong
trào Nông dân thành lập tháng 7-1924 do hai đảng viên cộng sản
Bành Bái và Nguyễn Khiếu Tiên lãnh đạo và học viện quân sự Hoàng
Phố tháng 5-1924 do Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng. Châu Ân Lai
(CS) đảm nhiệm phó chủ nhiệm khoa chính trị của học viện.
Nhiều cố vấn Liên Xô như
Blücher (bí danh Galen) làm cố vấn trường, học sinh cộng sản chiếm
10% trong đó có Trần Canh, một cố vấn quân sự sau này ở Việt Bắc.
Ngoài ra, Đại học Tôn
Trung Sơn dành cho người Trung Quốc (đa số là cộng sản) được thành
lập ở Mạc Tư Khoa.
4- Đai hội lần thứ IV
từ 11 đến 22-1-1925 ở Thượng Hải
Có 20 đại biểu đại diện cho
994 đảng viên. Mao Trạch Đông vắng mặt.
Ở Đại hội này, nhiều đại biểu
nêu lên vấn đề vai trò lãnh đạo của chuyên chính vô sản trong cách
mạng Trung Hoa thậm chí có người chỉ trích Đại hội III đã phạm sai
lầm công nhận QDĐ là lực lượng chính của cách mạng quốc gia.
Đại hội đề xuất quyền
lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng dân chủ và
vấn đề liên minh công nông và thông qua nghị quyết về phong
trào cách mạng dân tộc theo đó "giai cấp vô sản tham gia
Phong trào dân tộc không phải là lệ thuộc vào giai cấp tư
sản mà là vì vị thế và mục tiêu độc lập của giai cấp
mình".
Đại hội bầu ra một ban Chấp
hành gồm có 9 uỷ viên chính thức và 5 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên chính thức:
Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu*, Thái Hoà Sâm, Trương Quốc Đào, Hạng
Anh, Cù Thu Bạch, Bành Thuật Chi, Đàm Bình Sơn, Lý Duy Hán.
-Uỷ viên dự khuyết :
Đặng Bồi, Vương Hà Ba, La Chương Long, Trương Thái Lôi, Chu Cẩm
Đường.
Ban lãnh đạo gôm 5 người
sau :
-Tổng Bí thư : Trần Độc Tú
-Ban tuyên truyền : Bành
Thuật Chi, Thái Hoà Sâm, Cù Thu Bạch.
-Ban công nông : Trương Quốc
Đào.
Chú thích
Một sự kiện quan trọng xảy
ra là Tôn Trung Sơn (1866-1925) từ trần ngày 12-3-1925 ở Bắc Kinh
vì bệnh ung thư gan. Quyền lực của QDĐ vào tay của Tưởng Giới
Thạch sau biến cố ngày 20-3-1926. [Tưởng phao tin cộng sản muốn
chiếm học viện quân sự Hoàng Phố để làm đảo chính].
Một hội nghị khẩn cấp được
triệu tập ngày 13-12-1926 để thảo luận tình hình mới của QDĐ. Nghị
quyết của Trần Độc Tú đưa ra là lên án việc trệch hướng hữu khuynh
của QDĐ và việc bạo hành của phong trào nông dân. Mao phản đối bỏ
về Hồ Nam làm điều tra ở nông thôn từ tháng giêng đến tháng
2-1927. Ngày 12-4-1927, Tưởng Giới Thạch cho mở chiến dịch càn
quét căn cứ địa cộng sản. Cánh tả của QDĐ đứng đầu là Uông Tinh Vệ
chạy về Vũ Hán lập chính phủ song song với chính phủ ở Nam Kinh
của Tưởng, không kể chính phủ của Trương Tác Lâm ở Bắc Kinh.
[Tháng 12-1938, Uông thành lập chính phủ bù nhìn thân Nhật ở Nam
Kinh].
[*Lý Đại Chiêu 1889-1927
bị chính quyền Trương Tác Lâm treo cổ ở Bắc Kinh ngày 28-4-1927
cùng với 19 bạn đồng hành].
5-Đại hội lần thứ V từ
27-4 đến 9-5-1927 ở Vũ Hán
Đại hội triệu tập ở Vũ Hán 2
tuần sau chính biến do Tưởng Giới Thạch gây ra và ĐCSTQ trong tình
trạng nguy khốn.
Có 80 đại biểu đại diện 57900
đảng viên với sự có mặt của ba đại diện QTCS : M.N Roy (Ấn Độ,
1887-1954), Mikhail Borodin (Nga, 1884-1952) và G.N Voitinsky
(Nga, 1893-1956).
Đại hội thay vì kiểm điểm
tình hình nghiêm trọng của biến cố 12-4 lại chủ trương bám sát vào
chính phủ "tả" của Uông Tinh Vệ. Đại hội còn hạn chế cải cách
ruộng đất trái với ý muốn của một số đại biểu trong đó có Mao.
Trần Độc Tú dù bị lên án chủ nghĩa cơ hội và bị khiển trách nhưng
được tái cử được vài tháng.
Đại hội bầu ra một ban Chấp
hành gồm có 29 uỷ viên chính thức và 11 uỷ viên dự khuyết.
I-Bộ
chính trị.
-Uỷ viên
chính thức (7) :
Trần Độc Tú, Thái Hoà Sâm, Lý Lập Tam, Lý Duy Hán, Cù Thu Bạch,
Đàm Bình Sơn, Trương Quốc Đào.
-Uỷ viên dự
khuyết (4) :
Tô Triệu Trưng, Trương Thái Lôi, Trần Diên Niên, Châu Ân Lai.
II-Thường
vụ bộ chính trị :
Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm, Cù Thu Bạch.
III-Ban
bí thư :
Châu Ân Lai.
Danh sách
Ban Chấp hành
-Uỷ viên
chính thức (29) trong
đó có 24 người sau :
Trần Độc Tú,
Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm, Châu Ân Lai, Lý Duy Hán, Lý Lập
Tam, Cù Thu Bạch, Lưu Thiếu Kỳ, Tô Triệu Trưng, Trương Thái Lôi,
Nguyễn Khiếu Tiên, Nhiệm Bật Thời, Trần Diên Niên, La Diệc Nông,
Hạ Xương, Hướng Trung Phát, Bành Bái, Hạng Anh, Bành Công Đạt,
Triệu Thế Viêm, Uẩn Đại Anh, Đàm Bình Sơn, Bành Thuật Chi, La
Chương Long.
-Uỷ viên dự
khuyết (11)
trong đó có 8 người sau :
Mao Trạch Đông,
Trần Đàm Thu, Lục Trầm, Hoàng Bình, Lý Chấn Doanh, Viên Đạt Thời,
Lâm Dục Nam và Ngô Vũ Minh.
Chú
thích
Trần Độc Tú
bị loại ở hội nghị khẩn cấp họp ở Cửu Giang ngày 7-8-1927. Hội
nghị này thông qua nghị quyết về việc tổ chức "vụ gặt mùa thu" ở
các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây và Quảng Đông.
Cù Thu Bạch
lên thay với ban lãnh đạo mới.
Các thành
viên chính thức khác của bộ chính trị, ngoài Cù Thu Bạch, còn có :
Tô Triệu Trưng, Hướng Trung Phát, La Diệc Nông, Cố Thuận Chương,
Vương Hà Ba, Lý Duy Hán, Bành Bái, Nhiệm Bật Thời.
Châu Ân Lai,
Đặng Trung Hạ, Mao Trạch Đông, Bành Công Đạt, Lý Lập Tam, Trương
Thái Lôi và Trương Quốc Đào được bổ nhiệm uỷ viên dự khuyết.
Theo tư liệu
của ĐCSTQ, có 26000 người cộng sản bị hạ sát từ tháng 4-1927 đến
tháng 6-1928 trong đó có một số lãnh đạo như Trần Diên Niên, Trần
Kiều Niên, La Diệc Nông, Triệu Thế Viêm, Quách Lượng, Hướng Cảnh
Dự.
Hợp tác
Quốc–Cộng chính thức tan rã ngày 17-7-1927.
6-Đại hội
lần thứ VI từ 18-6 đến 11-7-1928 ở Mạc Tư Khoa
Đại hội này đặc
biệt họp tại Mạc Tư Khoa. Có 84 đại biểu chính thức và 34 đại biểu
dự khuyết đại diện cho 130000 đảng viên. [Số đảng viên không đáng
tin cậy vì đã có nhiều đảng viên bị hạ sát trước đó]
Cù Thu Bạch đọc
báo cáo "Cách mạng Trung Quốc và ĐCSTQ", Châu Ân Lai đọc "Công tác
tổ chức và vấn đề quân sự" và Bukharin, đại diện QTCS đọc "Cách
mạng TQ và nhiệm vụ của ĐCSTQ".
Đại hội làm
kiểm thảo về việc quá chú trọng công tác nổi dậy trong thành phố
nhưng không chú trọng đến việc đặt cơ sở cách mạng ở thôn quê.
Đại hội bầu ra
một ban Chấp hành gồm 23 uỷ viên chính thức và 13 uỷ viên dự
khuyết (Mao Trạch Đông vắng mặt).
Ban Chấp hành
bầu ra một bộ chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức và 7 uỷ viên dự
khuyết.
I-Bộ
chính trị
-Uỷ viên
chính thức (7) :
Hướng Trung Phát, Châu Ân Lai, Tô Triệu Trưng, Hạng Anh, Cù Thu
Bạch, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm.
-Uỷ viên dự
khuyết (7) :
Quan Hướng Ứng, Lý Lập Tam, La Đăng Hiền, Bành Bái, Dương Ân, Lư
Phúc Thản, Từ Tích Căn.
II-Thường
vụ bộ chính trị
-Uỷ viên
chính thức (5) : Hướng Trung Phát, Tô Triệu Trưng, Hạng
Anh, Châu Ân Lai, Thái Hoà Sâm.
-Uỷ viên dự
khuyết (3) : Lý Lập Tam, Từ Tích Căn, Dương Ân.
Hướng Trung
Phát được bầu chủ tịch và Châu Ân Lai Tổng bí thư kiêm trưởng ban
Tổ chức.
Ngoài ra, 5 uỷ
viên đảm nhiệm các chức vụ sau:
-Trưởng ban
tuyên truyền : Thái Hoà Sâm,
-Trưởng ban
quân sự : Dương Ân,
-Bí thư Uỷ ban
đặc trách xí nghiệp : Tô Triệu Trưng,
-Bí thư đặc
trách canh nông : Lý Lập Tam,
-Bí thư đặc
trách phụ nữ : Trương Kim Bảo.
Chú
thích
Sau Đại hội
VI ở Mạc Tư Khoa, nhiều biến chuyển trọng đại xảy ra cho đến Đại
hôi VII :
- Thái Hoà
Sâm bị loại vào tháng 11-1928, Lý Lập Tam lên thay. Khi Châu Ân
Lai được Đảng gửi đi Mạc Tư Khoa, Lý kiêm luôn ban Tổ chức. Thực
quyền lãnh đạo Đảng trong thời gian 1928-1930 do Lý Lập Tam nắm.
Tô Triệu Trưng bị bệnh chết năm 1929.
-Tháng
8-1930, ban lãnh đạo gồm Hướng Trung Phát, Lý Lập Tam, Châu Ân
Lai, Cù Thu Bạch, Từ Tích Khôn, Cố Thuận Chương*, Viên Bính Huy.
-Hội nghị
lần thứ 3 khoá VI vào tháng 9-1930, có ban lãnh đạo mới với Hướng
Trung Phát, Châu Ân Lai, Cù Thu Bạch. Lý Lập Tam bị loại vì thất
bại trong chủ trương chiến dịch nổi dậy trong thành phố.
-Tháng
1-1931, Hội nghị lần thứ 4 khoá VI họp ở Thượng Hải dưới sự chỉ
đạo của Pavel Mif, một lãnh tụ của QTCS. Pavel Mif cũng là lãnh tụ
của nhóm 28 sinh viên "bôn–sê–vích" ở Đại học Tôn Trung Sơn ở Mạc
Tư Khoa. Đại hội bầu ra ban lãnh đạo mới gồm có Vương Minh (Trần
Thiệu Vũ), Bác Cổ (Tần Bang Hiến), Lạc Phủ (Trương Văn Thiên),
Hướng Trung Phát, Châu Ân Lai. Ba người đầu thuộc nhóm bôn-sê-vích
của Pavel Mif. Tháng 9-1931, Vương Minh được ĐCSTQ bổ nhiệm làm
đại diện bên cạnh QTCS, Tần Bang Hiến (1907-1946) lên thay đến
tháng 1-1935 trước khi trao lại cho Trương Văn Thiên (1900-1976)
đến 3-1943.
Sau khi thay
Vương Minh, Tần Bang Hiến, vì vấn đề an ninh, chuyển ban Chấp hành
về Thuỵ Kim ở Giang Tây chỉ để lại một Trung ương cục ở Thượng Hải
do Lưu Thiếu Kỳ phụ trách.
-Tháng
10-1934, chính phủ Xô–Viết thành lập từ tháng 11-1931 ở Thuỵ Kim
do Mao làm chủ tịch bị quân đội Tưởng Giới Thạch bao vây phải bỏ
chạy về Thiểm Bắc. Cuộc tháo chạy này được gọi là "Vạn lý Trường
chinh" kéo dài trong một năm trên 10000 cây số.
-Cù Thu Bạch
(1899-1935) vì bệnh lao không thể đi theo Trường Chinh nên bị QDĐ
hành quyết ngày 18-6-1935.
[*Cố
Thuận Chương 1903-1934, đặc trách an ninh Đảng bị QDĐ bắt trong
tháng 4-1931 ở Vũ Hán và chỉ dẫn nơi cư trú của Hướng Trung Phát,
Thái Hoà Sâm và Uẩn Đại Anh. Hướng, Thái và Uẩn bị QDĐ hành quyết
trong tháng 6-1931. Tuy vậy, Cố Thuận Chương cũng bị QDĐ hành
quyết năm 1934 ở Tô Châu].
7-Đại hội
lần thứ VII từ 23-4 đến 11-6-1945 ở Diên An.
Đại hội này
diễn ra ở Diên An sau 17 năm với nhiều biến cố quan trọng. Sau
cuộc Trường Chinh về Bảo An trong tháng 10-1935 rồi sau đó về Diên
An đầu tháng 1-1937, Mao Trạch Đông thành công tóm thâu quyền lực.
Sau sự kiện Tây An vào cuối năm 1936, hai tướng QDĐ Trương Học
Lương (con Trương Tác Lâm) và Dương Hổ Thành buộc Tưởng Giới Thạch
hợp tác với cộng sản để chống Nhật.
Quân đội Nhật
lấy cớ sự kiện Lư Cầu Kiều ngày 7-7-1937 để chiếm đóng Trung Quốc
và chính phủ Tưởng Giới Thạch phải rời Nam Kinh về lập đô ở Trùng
Khánh năm 1938. Ngày 23-9-1937, Tưởng tuyên bố chính thức hợp tác
với cộng sản. Một nhóm kiên lạc gồm Châu Ân Lai, Tần Bang Hiến,
Diệp Kiếm Anh và sau đó có thêm Vương Minh đặt bên cạnh chính phủ
Tưởng ở ngoại ô Trùng Khánh.
Sau khi Nhật
đầu hàng Đồng Minh ngày 14-8-1945, Mao và Tưởng, dưới sự chỉ đạo
của đại sứ Mỹ Patrick Hurley, thương thuyết để thành lập một chính
phủ liên hiệp nhưng bất thành. Hợp tác Quốc–Cộng chống Nhật chỉ
kéo dài trong thời gian ngắn để rồi nội chiến tái diễn cho đến đầu
1949.
Đại hội lần thứ
VII ở Diên An gồm có 755 đại biểu trong đó có 547 đại biểu chính
thức và 208 đại biểu dự khuyết đải diện cho 1,21 triệu đảng viên.
Mao đọc báo cáo
chính trị bàn về chính phủ liên hiệp, Lưu Thiếu Kỳ đọc bản sửa đổi
điều lệ Đảng. Lần đầu tiên, "tư tưởng Mao Trạch Đông" được đưa vào
điều lệ Đảng. Chu Đức đọc báo cáo từ chiến trường đến vùng giải
phóng, Chầu Ân Lai về công tác Mặt trận thống nhất, Nhiệm Bật Thời
về vấn đề lịch sử của Đảng.
Đại hội bầu ra
một ban Chấp hành gồm có 44 uỷ viên chính thức và 33 uỷ viên dự
khuyết.
Ban Chấp hành
bầu ra bộ chính trị gôm có 13 người.
I-Bộ
Chính trị
Mao Trạch Đông,
Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai, Nhiệm Bật Thời, Trần Vân,
Khang Sinh, Cao Cương, Bành Chân, Đổng Tất Vũ, Lâm Bá Cừ, Trương
Văn Thiên và Bành Đức Hoài.
II-Ban Bí
thư :
Mao, Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai và Nhiệm Bật Thời.
Nhiệm Bật Thời
kiêm Tổng bí thư và Lý Phú Xuân, phó Tổng bí thư.
Mao trở thành
chủ tịch ban Chấp hành Đảng, bộ chính trị và ban bí thư.
Chú
thích
Từ Đại hội
VII năm 1945 ở Diên An đến Đại hội VIII năm 1956 ở Bắc Kinh, nhiều
sự kiện nổi bật xảy ra trong nội bộ Đảng như sau :
-Nhiệm Bật
Thời chết ngày 27-10-1950, Trần Vân lên thay.
-Hội nghị
lần thứ 4 khoá VII phê phán Cao Cương (1902-1955) và Nhiêu Thấu
Thạch. Hai người này bị
lên án phản Đảng và bị trục xuất khỏi Đảng trong tháng 3-1955.
Cao Cương tự vận.
-Lâm Bưu và
Đặng Tiểu Bình vào bộ chính trị ở hội nghị lần thứ 5 khoá VII
(tháng 4-1955).
8-Đại hội
lần thứ VIII từ 15 đến 27-9-1956 ở Bắc Kinh
Có 1026 đại
biểu chính thức và 86 đại biểu dự khuyết đại diện 10,73 triệu đảng
viên.
Mao đọc diễn
văn khai mạc, Lưu Thiếu kỳ đọc báo cáo chính trị, Đặng Tiểu Bình
báo cáo về điều lệ Đảng và Châu Ân Lai về kế hoạch ngũ niên lần
thứ hai.
Đại hội diễn ra
sau báo cáo của Khrushchev lên án Stalin ở Đại hội lần thứ XX của
Đảng cộng sản Liên Xô trong tháng 2-1956.
ĐCSTQ, dưới sự
hướng dẫn của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình noi gương Liên Xô,
lên án chủ nghĩa tôn sùng cá nhân và chủ trương lãnh đạo tập thể.
Tư tưởng Mao Trạch Đông trong điều lệ Đảng ở Đại hội VII bị xoá bỏ
thậm chí họ còn lập ra chức chủ tịch "danh dự Đảng" với thâm ý
dành cho Mao. Điều này làm Mao bất mãn và tìm cách lấy lại quyền
lực với những chiến dịch chống hữu khuynh, Đạy Nhảy Vọt và cuối
cùng Đại cách mạng văn hoá.
Đại hội bầu ra
một ban Chấp hành gồm 97 uỷ viên chính thức và 73 uỷ viên dự
khuyết.
I-Bộ
chính trị
gồm có 17 uỷ viên chính thức và 6 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên
chính thức (17)
: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân,
Đặng Tiểu Bình, Lâm Bưu, Lâm Bá Cừ, Đổng Tất Vũ, Bành Chân, La
Vinh Hoàn, Trần Nghị, Lý Phú Xuân, Bành Đức Hoài, Lưu Bá Thừa, Hạ
Long và Lý Tiên Niêm.
Uỷ viên dự
khuyết (6) :
Ô Lan Phu, Trương Văn
Thiên, Lục Định Nhất, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Bạc Nhất Ba.
II-Thường
vụ bộ chính trị gồm 6 người sau :
Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân và Đặng Tiểu
Bình.
Mao chủ tịch
Đảng, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân, phó chủ tịch
và Đặng Tiểu Bình Tổng bí thư Đảng.
III-Uỷ
ban kiểm tra kỷ luật Đảng
gồm có 21 uỷ viên với Đổng Tất Vũ làm bí thư.
Chú
thích
-Hội nghị
lần thứ 5 khoá VIII ngày 25-5-1958 bổ sung Lâm Bưu phó chủ tịch
Đảng. Kha Thanh Thi, Lý Tỉnh Tuyền và Đàm Chấn Lâm vào bộ chính
trị.
-Hội nghị
lần thứ 8 khoá VIII từ 2 đến 16 tháng 8-1959 ở Lư Sơn chỉ trích
"nhóm chống Đảng" gồm có Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên, Hoàng
Khắc Thành, Châu Tiểu Châu. Hội nghị sau đó cách chức Hoàng Khắc
Thành, TTM trưởng quân đội, Đàm Chính, chủ nhiệm Tổng cục chính
trị ra khỏi ban bí thư. Thay vào La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất,
Khang
Sinh. La Thuỵ Khanh thay Hoàng Khắc Thành làm TTM trưởng quân đội
và Lục Định Nhất làm trưởng ban Tuyên truyền TƯ. Lâm Bưu thay bành
Đức Hoài làm bộ trưởng bộ Quốc phòng.
-Tháng
9-1960, bộ chính trị cho thành lập 6 Cục trung ương và bổ nhiệm :
Đào Chú, bí thư Cục Trung Nam, Tống Nhiệm Cùng, bí thư Cục Đông
Bắc, Lý Tỉnh Tuyền, bí thư Cục Tây Nam, Lưu Lan Đào, bí thư Cục
Tây Bắc, Lý Tuyết Phong, bí thư Cục Hoa Bắc, Kha Thanh Thi, bí thư
Cục Hoa Đông.
-Đầu thời kỳ
Đại cách mạng văn hoá, hội nghị lần thứ 11 khoá VIII từ 1 đến 12
tháng 8-1966 thay đổi ban lãnh đạo ở thường vụ bộ chính trị.
Các uỷ viên
gồm có : Mao, Lâm Bưu, Châu Ân Lai, Đào Chú, Trần Bá Đạt, Đặng
Tiểu Bình, Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Lý Phú Xuân, Trần
Vân.
Lâm Bưu thay
Lưu Thiếu Kỳ ở địa vị số 2 và người thừa kế của Mao còn Đào Chú,
bí thư tỉnh uỷ tỉnh Quảng Đông trở thành nhân vật sô 4. Lưu Thiếu
Kỳ xuống hàng thứ 8.
-Từ Hướng
Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh, uỷ viên bộ chính trị và Lý
Tuyết Phong, Tạ Phú Trị, Tống Nhiệm Cùng uỷ viên dự khuyết bộ
chính trị. Tạ Phú Trị và Lưu Ninh Nhất được bổ sung vào ban bí
thư.
Đựợc bổ sung
vào ban Chấp hành với tư cách uỷ viên chính thức : Dương Đắc Chí,
Vi
Quốc Thanh (cựu cố vấn quận sự ở Việt Nam), La Quý Ba (cựu cố vấn
chính trị và đại sứ đầu tiên của Trung Quốc ở Việt Nam), Trương
Kinh Vũ, Tạ Giác Tai, Diệp Phi.
-Bãi
nhiệm ở ban bí thư : Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất.
-Dương
Thượng Côn trở thành uỷ viên dự khuyết ban bí thư.
-Ngày
7-8-1966, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tử Khôi, Bạc Nhất
Ba vv.. bị phê phán.
- Ở Hội nghị
lần thứ 12 khoá VIII từ 13 đến 31 tháng 10-1968, Lưu Thiếu Kỳ
(1898-1969) bị trục xuất khỏi Đảng và chết năm 1969 ở Khai Phong
vì bị hành hạ.
Hội nghị bổ
sung Hoàng Vĩnh Thắng,
Hứa
Thế Hữu、Trần
Tích Liên, Trương Đạt Chí, Hàn Tiên Sở, Phan Phục Sinh, Lưu
Kiến Huân, Lưu Tử Hậu, Ngô Đức, Lý Đạt Chương vào ban dự
khuyết ban Chấp hành.
9-Đại hội
lần thứ IX từ 1 đến 24-4-1969 ở Bắc Kinh
Đại biểu dự
đại hội là 1512 người, đại diện cho 22 triệu đảng viên.
Đại hội lần thứ IX được triệu tập vào năm thứ ba sau
chiến dịch "Đại cách mạng văn hoá". Mao Trạch Đông chủ trì
và đọc lời chào tại lễ khai mạc. Lâm Bưu đọc báo cáo
chính trị với chủ đề "Lý luận cách mạng liên tục dưới sự
chuyên chính của giai cấp vô sản".
Lâm Bưu khẳng
định "Đại cách mạng văn hoá giai cấp vô sản" là một cuộc
cách mạng giai cấp vô sản chân chính, là một đóng góp vĩ
đại mới cho lý luận thực tiễn của chủ nghĩa Mác Lê-Nin.
Đại hội thông
qua báo cáo chính trị và dự thảo sửa đổi điều lệ Đảng.
Điều lệ mới của Đảng ghi Lâm Bưu "là người bạn chiến đấu
thân mật và người thừa kế của Mao Trạch Đông" cùng đồng thời
huỷ bỏ thời kỳ dự bị của đảng viên, xoá bỏ ban Bí thư và
Uỷ ban Giám sát.
Đại hội bầu ra
một ban chấp hành gồm 170 uỷ viên chính thức và 109 uỷ viên dự
khuyết.
I-Bộ
chính trị
gồm có 21 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên
chính thức (21) :
Mao Trạch Đông,
Lâm Bưu và sau đó còn có (thứ tự theo nét chữ) : Diệp Quần
(nữ), Diệp
Kiếm Anh, Lưu Bá Thừa, Giang Thanh
(nữ), Chu
Đức, Hứa Thế Hữu, Trần Bá Đạt, Trần Tích Liên, Lý Tiên Niệm, Lý
Tác Bằng, Ngô Pháp Hiến, Trương Xuân Kiều, Khưu Hội Tác, Châu Ân
Lai, Diêu Văn Nguyên, Khang Sinh, Hoàng Vĩnh Thắng, Đỗng Tất Vũ,
Tạ Phú Trị.
-Uỷ viên dự
khuyết (4) : Kỷ Đăng Khuê, Lý Tuyết Phong, Lý Đức Sinh, Uông
Đông Hưng.
II-Thường
vụ Bộ chính trị :
Mao, Lâm Bưu, Châu Ân Lai, Trần Bá Đạt và Khang Sinh.
Chú
thích
-Giang Thanh
là vợ của Mao và Diệp Quần là vợ của Lâm Bưu.
Đại hội này
có thể nói là đại hội của 3 nhóm phân chia quyền lực: nhóm Mao,
nhóm Lâm Bưu và nhóm Giang Thanh.
-Ở Hội nghị
lần thứ 2 khoá IX họp ở Lư Sơn từ 23-8 đến 6-9-1970, Lâm Bưu với
sự trợ giúp của Trần Bá Đạt đòi chức vụ chủ tịch Nước bỏ trống cho
mình. Mao không đồng ý cho tạm ngừng hội nghị và phê phán Trần Bá
Đạt. Sự rạn nứt giữa Mao và Lâm Bưu bắt đầu từ đó. Nhóm Lâm Bưu bị
loại sau cuộc đảo chính hụt trong tháng 9-1971.
10-Đại
hội lần thứ X từ 24 đến 28-8-1973 ở Bắc Kinh.
Có 1249 đại
biểu thay mặt cho 28 triệu đảng viên. Đại hội lần này
được triệu tập sau khi nhóm Lâm Bưu bị loại.
Mao Trạch Đông
điều khiển Đại hội. Châu Ân Lai đọc báo cáo chính trị do
Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên...soạn thảo. Báo cáo vẫn
khẳng định "Đường lối chính trị và tổ chức của Đại hội
IX là đúng đắn", kêu gọi toàn đảng " kiên trì tiếp tục
cuộc cách mạng chuyên chính vô sản" và kiên trì tiếp tục
"cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản". Vương Hồng Văn trình
bày báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng.
Đại hội bầu
ra 195 ủy viên Trung ương và 124 ủy viên dự khuyết. Một số
nhân vật bị hãm hại trong Đại cách mạng văn hóa và bị gạt
khỏi Ban chấp hành Trung ương khóa IX như Đặng Tiểu Bình,
Vương Gia Tường, Ô Lan Phu, Lý Tỉnh Tuyền, Đàm Chấn Lâm,
Liêu Thừa Chí.vv..được bầu vào ban Chấp hành Trung ương.
Tuy nhiên, nhóm cốt cán của Giang Thanh vẫn còn ở lại ở ban
Chấp hành khóa mới.
Đại hội bầu Mao
chủ tịch Đảng.
Phó chủ tịch :
Châu Ân Lai, Vương Hồng Văn, Khương Sinh, Diệp Kiếm Anh, Lý Đức
Sinh.
I-Bộ
chính trị gồm có :
-Uỷ viên
chính thức (21) (thứ tự theo nét chữ) :
Mao Trạch Đông,
Vương Hồng Văn, Vi Quốc Thanh, Diệp Kiếm Anh, Lưu Bá Thừa, Giang
Thanh, Chu Đức, Hứa Thế Hữu, Hoa Quốc Phong, Kỷ Đăng Khuê, Ngô
Đức, Uông Đông Hưng, Trần Vĩnh Quí, Trần Tích Liên, Lý Tiên Niệm,
Lý Đức Sinh, Trương Xuân Kiều, Châu Ân Lai, Diêu Văn Nguyên, Khang
Sinh, Đỗng Tất Vũ.
-Uỷ viên dự
khuyết (4)
: Ngô Quế Hiền (nữ), Tô Chấn Hoa, Nghê Chí Phúc và Trại Phúc Đỉnh
(người uygur).
II-Thường
vụ bộ chính trị
: Mao Trạch Đông, Vương Hồng Văn, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức, Lý Đức
Sinh, Trương Xuân Kiều, Châu Ân Lai, Khang Sinh, Đỗng Tất Vũ.
Chú
thích
-Hội nghị
lần thứ 2 khoá X từ 8 đến 10-1-1975 bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình vào
nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng, nhà Nước và quân đội như : uỷ
viên thường vụ bộ chính trị, phó chủ tịch Đảng, phó chủ tịch Uỷ
ban Quân sự TƯ, tổng tham mưu trưởng quân đội và phó thủ tướng.
Ngoài ra, Lý Đức Sinh từ chức ở thường vụ bộ chính trị và phó chủ
tịch Đảng.
-Sau khi Mao
từ trần ngày 9-9-1976 và nhóm "tứ nhân bang" gồm Giang Thanh,
Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên bị bắt một
tháng sau đó. Hội nghị lần thứ 3 khoá X từ 16 đến 21-7 1977 bổ
nhiệm Hoa Quốc Phong chủ tịch Ban Chấp hành kiêm chủ tịch Uỷ ban
quân sự TƯ cùng đồng thời phục hồi chức vụ cũ của Đặng Tiểu Bình
đã bị mất hồi tháng 4-1976 dưới áp lực của nhóm Giang Thanh.
11-Đại
hội lần thứ XI từ 12 đến 18-8-1977 ở Bắc Kinh
Tham dự Đại hội
gồm có 1510 đại biểu thay mặt cho 35 triệu đảng viên.
Đại hội lần
thứ 11 được triệu tập để tuyên bố chấm dứt "đại cách mạng
văn hóa" đã kéo dài trong 10 năm và khẳng định nhiệm vụ căn bản
của Đảng trong thời kỳ sắp tới là xây dựng Trung Quốc một nước xã
hội chủ nghĩa hiện đại và hùng cường.
Hoa Quốc Phong
đọc báo cáo chính trị, Diệp Kiếm Anh đọc báo cáo về
sửa đổi điều lệ Đảng và Đặng Tiểu Bình đọc lời bế mạc hội
nghị.
Các đại biểu
bầu một Ban chấp hành gồm 201 uỷ viên chính thức và 132 uỷ viên
dự khuyết.
Ban Chấp hành bầu Hoa Quốc Phong, chủ tịch Đảng.
Phó chủ tịch:
Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng.
Năm người này
hợp thành thường vụ bộ chính trị.
I-Bộ
chính trị
gồm có 23 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên
chính thức (23) :
Hoa Quốc Phong
rồi sau đó (thứ tự theo nét chữ)
Vi Quốc Thanh,
Ô Lan Phu, Phương Nghị, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh, Lưu Bá
Thừa, Hứa Thế Hữu, Kỷ Đăng Khuê, Tô Chấn Hoa, Lý Tiên Niệm, Lý Đức
Sinh, Ngô Đức, Dư Thu Lý, Uông Đông Hưng, Trương Đình Phát, Trần
Vĩnh Qui, Trần Tích Liên, Cảnh Tiêu, Nhiếp Vinh Trăn, Nghê Chí
Phúc, Từ Hướng Tiền, Bành Xung.
-Uỷ viên dự khuyết
(3) : Trần Mộ Hoa (nữ), Triệu Tử Dương, Trại Phúc Đỉnh.
Chú
thích
-Hội nghị lần thứ
3 khoá XI từ 18 đến 22-12-1978 bổ nhiệm Trần Vân phó chủ tịch Đảng
và uỷ viên thường vụ bộ chính trị. Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Châu Ân
Lai), Hồ Diệu Bang và Vương Chấn uỷ viên bộ chính trị.
Hội nghị còn quyết
định thành lập Uỷ ban kiểm tra kỷ luật TƯ và bổ nhiệm Trần Vân làm
chủ tịch và khôi phục danh dự cho một số nhân vật bị hãm hại trong
thời kỳ Đại cách mạng văn hoá như Đào Chú, Bạc Nhất Ba, Dương
Thượng Côn.
-Hôi nghị
lần thứ 5 từ 23 đến 29 -2-1980 bổ nhiệm :
1- Hồ Diệu
Bang và Triệu Tử Dương vào thường vụ bộ chính trị,
2-Tái lập
Ban bí thư với sự bổ nhiệm Hồ Diệu Bang chức vụ Tổng bí thư Ban bí
thư với 11 uỷ viên sau :
Vạn Lý,
Vương Nhiệm Trọng, Phương Nghị, Cốc Mục, Tống Nhiệm Cùng, Dư Thu
Lý, Dương Đắc Chí, Hồ Kiều Mộc, Hồ Diệu Bang, Diêu Y Lâm và Bành
Xung.
3-Bãi nhiệm
chức vụ uỷ viên bộ chính trị cho Uông Đông Hưng, Kỷ Đăng Khuê, Ngô
Đức, Trần Tích Liên.
4-Phục hồi
danh dự cho cựu chủ tịch Nước Lưu Thiếu Kỳ.
-Ban Chấp
hành họp ngày 16-10-1980 trục xuất khỏi Đảng sau khi chết Khang
Sinh và Tạ Phú Trị.
-Hội nghị
lần thứ 6 khoá XI từ ngày 27 đến 29-6-1981 bổ nhiệm:
1-Hồ Diệu
Bang, chủ tịch Đảng, Triệu Tử Dương và Hoa Quốc Phong, phó chủ
tịch.
Đặng Tiểu
Bình, chủ tịch Uỷ ban Quân sự TƯ
2-Thường vụ
bộ chính trị mới gồm có : Hồ Diệu Bang, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu
Bình, Triệu Tử Dương, Lý Tiên Niệm, Trần Vân, Hoa Quốc Phong.
3-Tập Trọng
Huân được bổ sung vào Ban bí thư.
12- Đại
hội lần thứ XII từ 1 đến 11-9-1982 ở Bắc Kinh
Có ngoài 1600
đại biểu tham gia đại hội thay mặt 39,65 triệu đảng viên.
Đại hội lần nầy do Đặng Tiểu Bình chủ trì và đọc lời chào khai
mạc. Đặng đưa ra lý thuyết xây dựng "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc". Hồ Diệu Bang đọc báo cáo chính trị làm tổng kết về
việc tiêu trừ hậu quả tiêu cực của 10 năm "Đại cách mạng văn hoá"
và chỉ định mục tiêu phát triển kinh tế cho 5 năm tới. Lý Tiên
Niệm đọc diễn văn bế mạc.
Đại hội bầu
ra ban Chấp hành gồm 210 Uỷ viên chính thức và 138 Uỷ viên dự
khuyết và đồng thời bầu ra một Uỷ ban cố vấn Trung ương
gồm 172 người và Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Trung ương gồm
132 người. Đại hội quyết định bỏ chức chủ tịch Đảng để thay vào
một Tổng bí thư. Đại hội bầu Đặng Tiểu Bình chủ tịch Uỷ ban quân
sự TƯ và Trần Vân, bí thư Uỷ ban kỷ luật TƯ.
I-Bộ
chính trị gồm có : (thứ tự theo nét chữ)
-Uỷ viên
chính thức (25) :
Vạn Lý, Tập Trong Huân, Vương Chấn, Vi Quốc Thanh, Ô Lan Phu,
Phương Nghị, Đặng Tiểu Bình, Đặng Dĩnh Siêu, Diệp Kiếm Anh, Lý
Tiên Niệm, Lý Đức Sinh, Dương Thượng Côn, Dương Đắc Chí, Dư Thu
Lý, Tống Nhiệm Cùng, Trương Đình Phát, Trần Vân, Triệu Tử Dương,
Hồ Kiều Mộc, Hồ Diệu Bang, Nhiếp Vinh Trăn, Nghê Chí Phúc, Từ
Hướng Tiền, Bành Chân, Liêu Thừa Chí.
-Uỷ viên
dự khuyết
(3): Diêu Y Lâm, Tần
Cơ Vĩ, Trần Mộ Hoa (nữ).
II-Thường
vụ bộ chính trị :
Hồ Diệu Bang, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Triệu Tử Dương, Lý
Tiên Niệm, Trần Vân.
III-Ban
bí thư
gồm có 9 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên
chính thức
(9) : Hồ Diệu Bang, Vạn Lý, Tập Trọng Huân, Đặng Lực Quần, Dương
Dũng, Dư Thu Lý, Cốc Mục, Trần Phi Hiển, Hồ Khải Lập, Diêu Y Lâm.
-Dự khuyết (2) :
Kiều Thạch, Hách Kiến Tú (nữ).
IV-Uỷ ban
Quân Sự TƯ
-Chủ tịch :
Đặng Tiểu Bình
-Phó chủ tịch :
Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Dương Thượng Côn
(phó chủ tịch thường trực).
V-Uỷ ban
Cố vấn TƯ (172
người)
-Chủ tịch :
Đặng Tiểu Bình
-Phó chủ tịch :
Bạc Nhất Ba, Hứa Thế Hữu, Đàm Chấn Lâm, Lý Duy Hán.
VI-Uỷ ban
kiểm tra kỷ luật Đảng (132
người)
Bí thư thứ nhất
: Trần Vân
Bí thư thứ
hai : Hoàng Khắc Thành
Bí thư thường
trực : Vương Hạc Thọ.
VII-Nhà
Nước và Quốc Hội
-Lý Tiên Niệm,
chủ tịch Nước và Ô Lan Phu, phó chủ tịch. Bành Chân, chủ tịch Quốc
hội.
Chú
thích
-Hội nghị
lần thứ 5 khoá XII ngày 24-9-1985 bổ sung vào bộ chính trị những
người sau : Điền Kỷ Vân, Kiều Thạch, Lý Bằng, Ngô Học Khiêm, Hồ
Khải Lập và Diêu Y Lâm.
-Ban bí thư
mới gồm có những người sau : Hồ Diệu Bang, Hồ Khải Lập, Vạn Lý, Dư
Thu Lý, Kiều Thạch, Điền Kỷ Vân, Lý Bằng,
Trần Phi Hiển, Đặng Lực Quần, Hách Kiến Tú, Vương Triệu Quốc.
-Hôi nghị
lần thứ 6 khoá XII ngày 28-9-1986 quyết định loại 64 uỷ viên TƯĐ
trong đó có 10 uỷ viên bộ chính trị sau : Diệp Kiếm Anh, Đặng Dĩnh
Siêu (nữ), Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Ô Lan Phu, Vương Chấn,
Vi Quốc Thanh, Lý Đức Sinh, Tống Nhiệm Cùng, Trương Đình Phát.
- Thường vụ
bộ chính trị họp từ ngày 10 đến 16-1-1987 chấp nhận sự xin "từ
chức" của Hồ Diệu Bang và bổ nhiệm Triệu Tử Dương ở chức vụ Tổng
bí thư Đảng.
13-Đại
hội lần thứ XIII từ 25-10 đến 1-11-1987 ở Bắc Kinh
Có 1936 đại
biểu thay mặt cho hơn 46 triệu đảng viên. Đặc biệt lần này có
hơn 400 phóng viên trong và ngoài nước tham dự.
Triệu Tử
Dương đọc báo cáo công tác với tiêu đề "Tiếp tục tiến lên
trên con đường chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc".
Báo cáo trình bày chỉ rõ Trung Quốc hiện đang ở trong
giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Đặng Tiểu Bình điều
khiển phiên bế mạc Đại hội.
Đại hội bầu
một ban Chấp hành, một Uỷ ban cố vấn và một Ủy ban kiểm tra
kỷ luật Đảng.
Ban Chấp hành
gồm có 175 uỷ viên chính thức và 110 uỷ viên dự khuyết, Uỷ ban cố
vấn gồm 200 người và Uỷ ban kỷ luật gồm 69 người.
Ban chấp hành ngày 2 tháng 11 bầu :
I-Bộ
chính trị
gồm 17 uỷ
viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết:
-Uỷ viên
chính thức
(17) : Triệu Tử Dương, Lý Bằng, Kiều Thạch, Hồ Khải
Lập, Diêu Y Lâm, Vạn Lý, Điền Kỷ Vân, Giang Trạch Dân, Lý Thiết
Ánh, Lý Thuỵ Hoàn, Lý Tích Minh, Dương Nhữ Đại, Dương Thượng Côn,
Ngô Học Khiêm, Tống Bình, Hồ Diệu Bang (từ trần ngày 15-4-1989),
Tần Cơ Vĩ.
-Uỷ viên dự
khuyết : Đinh Quan Căn
II-Thường
vụ bộ chính trị :
Triệu Tử Dương,
Lý Bằng, Kiều Thạch, Hồ Khải Lập, Diêu Y Lâm.
Tổng bí thư
Đảng : Triệu Tử Dương
III-Ban
Bí thư
:
-Hồ Khải Lập,
Kiều Thạch, Nhuế Hạnh Văn, Diêm Minh Phục, Ôn Gia Bảo (dự khuyết).
IV-Uỷ ban
quân sự TƯ
Chủ tịch : Đặng
Tiểu Bình
Phó chủ tịch :
Triệu Tử Dương, Dương Thượng Côn.
V-Uỷ ban
kiểm tra kỷ luật Đảng
(69 người)
Bí thư : Kiều
Thạch
Phó bí thư :
Trần Tác Lâm, Lý Chính Đình, Tiêu Hồng Đạt.
VI-Uỷ ban
cố vấn
(200 người)
Chủ tịch :
Trần Vân
Phó chủ tịch :
Bạc Nhất Ba, Tống Nhiệm Cùng.
Chú
thích
-Quốc hội họp
từ ngày 12 đến 24-11-1987 bổ nhiệm Lý Bằng tạm thay Triệu Tử Dương
ở chức vụ thủ tướng.
-Quốc hội lần
thứ 1 khoá IX họp từ ngày 25-3 đến 13-4-1988 chính thức bổ nhiệm
Lý Bằng thủ tướng, Dương Thượng Côn, chủ tịch Nước, Vương Chấn,
phó chủ tịch Nước.
Sau sự kiện
Thiên An Môn trong tháng 6-1989, hội nghị lần thứ 4 khoá XIII từ
23 đến 24 -6- 1989 quyết định cách chức Triệu Tử Dương và bổ nhiệm
Giang Trạch Dân lên thay làm Tổng bí thư Đảng.
I-Bộ
chính trị mới
-Uỷ viên
chính thức (14):
Giang Trạch
Dân, Lý Bằng, Kiều Thạch, Diêu Y Lâm, Tống Bình, Lý Thuỵ Hoàn, Vạn
Lý, Dương Nhữ Đại, Ngô Học Khiêm, Tần Cơ Vĩ, Điền Kỷ Vân, Lý Thiết
Ánh, Lý Tích Minh, Dương Thượng Côn.
-Uỷ viên dự
khuyết:
Đinh Quan Căn
II-Thường
vụ bộ chính trị :
Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Kiều Thạch, Tống Bình, Lý Thuỵ Hoàn.
III-Ban
bí thư:
Kiều Thạch, Lý Thuỵ Hoàn, Đinh Quan Căn.
Chú
thích :
-Hội nghị
lần thứ 5 khoá XIII họp từ 6 đến 9-11-1989 bổ nhiệm Giang Trạch
Dân thay Đặng Tiểu Bình ở chức vụ chủ tịch Uỷ ban quân sự và Dương
Thượng Côn và Lưu Hoa Thanh, phó chủ tịch. Dương Bạch Băng, tổng
thư ký.
14-Đại
hội lần thứ XIV từ ngày 12 đến 18-10-1992
Tham dự Đại hội
có 1989 đại biểu thay mặt hơn 51 triệu đảng viên. Nhiệm vụ
của Đại hội là làm tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong 14
năm qua kể từ Hội nghị lần thứ 3 khoá XI và xác định sự bố
trí chiến lược trong thời kỳ tới.
Giang Trạch
Dân đọc bản báo cáo mang tựa đề " Tăng nhanh nhịp bước
cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa, phấn đấu
giành lấy thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc".
Đại hội quyết
định huỷ bỏ Ủy ban cố vấn TƯ và đưa vào điều lệ Đảng "lý
thuyết xây dựng xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc"
của Đặng Tiểu Bình.
Đại hội bầu ra
một ban Chấp hành gồm có 189 uỷ viên chính thức và 130 uỷ viên dự
khuyết.
Ban Chấp hành
bầu ra :
I-Bộ
chính trị
gồm có 19 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết.
-Uỷ viên
chính thức (19) :
Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Kiều Thạch, Lý Thuỵ Hoàn, Chu Dung Cơ,
Lưu Hoa Thanh, Hồ Cẩm Đào. Điền Kỷ Vân, Lý Thiết Ánh, Châu Gia
Hoa, Đinh Quan Căn, Tiền Kỳ Tham (Sâm), Trần Hy Đồng, Dương Bạch
Băng, Lý Lam Thanh, Ngô Bang Quốc, Tạ Phi, Đàm Thiệu Văn (từ trần
ngày 3-2-1993), Khương Xuân Vân, Uý Kiện Hành.
-Uỷ viên dự
khuyết (2)
:
Ôn Gia Bảo,
Vương Hán Bân.
II-Thường
vụ bộ chính
trị gồm có 7 người
sau:
Giang Trạch
Dân, Lý Bằng, Kiều Thạch, Lý Thuỵ Hoàn, Chu Dung Cơ, Lưu Hoa
Thanh, Hồ Cẩm Đào.
III-Ban
Bí thư :
Hồ Cẩm Đào,
Đinh Quan Căn, Uý Kiện Hành, Ôn Gia Bảo, Nhiệm Kiện Tân.
IV-Ủy ban
kiểm tra kỷ luật Đảng (108
người)
V-Uỷ ban
quận sự TƯ
Chủ tịch :
Giang Trạch Dân
Phó chủ
tịch : Lưu Hoa Thanh, Trương Chấn
Thành viên :
Trì Hạo Điền,
Trương Vạn Niên, Vu Vĩnh Ba, Phó Toàn Hữu.
VI- Phân
công
-Giang Trạch
Dân : Tổng bí thư Đảng kiêm chủ tịch Nước và chủ tịch Uỷ ban quân
sự TƯ,
-Lý Bằng : Thủ
tướng chính phủ
-Kiều Thạch :
Chủ tịch Quốc hội,
-Lý Thuỵ Hoàn :
Chủ tịch Chính trị Hiệp thương.
-Uý Kiện Hành :
Bí thư Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng.
-Chu Dung Cơ :
Phó thủ tướng thứ nhất.
Chú
thích
:
-Hội nghị
lần thứ 4 vào tháng 9-1994 bổ sung Hoàng Cúc vào Bộ chính trị, Ngô
Bang Quốc và Khương Xuân Vân vào Ban Bí thư.
-Hội nghị
lần thứ 5 khoá XIX từ 25 đến 28-9-1995 bổ nhiệm Trương Vạn Niên và
Trì Hạo Điền phó chủ tịch Uỷ ban quân sự TƯ và cách chức Trần Hy
Đồng, uỷ viên bộ chính trị kiêm bí thư thành uỷ Bắc Kinh vì tham
nhũng.
15-Đại
hội lần thứ XV từ 12 đến 18-9-1997 ở Bắc Kinh
Đại hội lần
này có 2074 đại biểu chính thức đến tham dự thay mặt cho
59 triệu đảng viên. Đại hội lần này được triệu tập vào
lúc bước sang thế kỷ 21. Đại hội kiên định tiếp tục đi theo
con đường "xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung
Quốc".
Lý Bằng chủ
trì lễ khai mạc đại hội. Giang Trạch Dân đọc báo cáo với
nhan đề "Giương cao ngọn cờ vĩ đại lý luận Đặng Tiểu
Bình, thúc đẩy toàn diện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội mang đặc sắc Trung Quốc tiến sang thế kỷ 21".
Đại hội chấp
nhận đưa vào điều lệ Đảng theo đó " lý luận Đặng Tiểu Bình
là tư tưởng chỉ đạo của Đảng".
Đại hội bầu ra
một ban Chấp hành gồm 191 uỷ vien chính thức và 151 uỷ viên dự
khuyết.
Sau đó, ban
Chấp hành bầu :
I-Bộ
chính trị gồm có :
22 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết
-Uỷ viên
chính thức bộ chính trị (22) : [thứ tự theo nét chữ]
Đinh Quan Căn,
Điền Kỷ Vân, Chu Dung Cơ, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Lý Trường
Xuân, Lý Lam Thanh, Lý Thiết Ánh, Lý Thuỵ Hoàn, Ngô Bang Quốc,
Ngô Quan Chính, Trì Hạo Điền, Trương Vạn Niên, La Can, Hồ Cẩm Đào,
Khương Xuân Vân, Giả Khánh Lâm, Tiền Kỳ Tham (Sâm), Hoàng Cúc, Uý
Kiện Hành, Ôn Gia Bảo, Tạ Phi (chết ngày 27-10-1999).
-Uỷ viên dự
khuyết (2):
Tăng Khánh
Hồng, Ngô Nghi (nữ).
II-Thường
vụ bộ chính trị gồm có 7 người sau:
Giang Trạch
Dân, Lý Bằng, Chu Dung Cơ, Lý Thuỵ Hoàn, Hồ Cẩm Đào, Uý Kiện Hành,
Lý Lam Thanh.
III-Ban
Bí thư
Hồ Cẩm Đào, Uý
Kiện Hành, Đinh Quan Căn, Trương Vạn Niên, La Can, Ôn Gia Bảo,
Tăng Khánh Hồng.
IV-Uỷ ban
Kiểm tra kỷ luật Đảng (115 người)
V-Uỷ ban
quân sự TƯ
-Chủ tịch :
Giang Trạch Dân
-Phó chủ tịch :
Hồ Cẩm Đào*, Trương Vạn Niên, Trì Hạo Điền.
-Thành viên :
Phó Toàn Hữu, Vu Vĩnh Ba, Vương Khắc, Vương Thuỵ Lâm, Tào Cương
Xuyên*, Quách Bá Hùng**, Từ Tài Hậu**.
*bổ nhiệm
4-11-1998
** bổ nhiệm
31-10-1999
VI-Phân
công
-Giang Trạch
Dân : Tổng bí thư Đảng kiêm chủ tịch Nước và chủ tịch Uỷ ban quân
sự TƯ,
-Lý Bằng : Chủ
tịch Quốc Hội,
-Chu Dung Cơ :
Thủ tướng chính phủ,
-Lý Thuỵ Hoàn :
Chủ tịch Chính trị Hiệp thương,
-Hồ Cẩm Đào :
Phó chủ tịch Nước kiêm bí thư Ban bí thư,
-Uý Kiện Hành :
Bí thư Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng,
-Lý Lam Thanh :
Phó thủ tướng thứ nhất.
16- Đại
hội lần thứ XVI từ ngày 8 đến 14-11-2002 ở Bắc Kinh
Tham dự Đại hội
có 2114 đại biểu chính thức và 40 đại biểu thay mặt cho
hơn 66 triệu đảng viên. Đặc biệt lần này có thêm đoàn đại
biểu của doanh nghiệp và đoàn đại biểu tài chính Trung
ương. Tư tưởng "ba đại biểu" dù không nói là của Giang Trạch Dân
được đưa vào điều lệ Đảng. Giang Trạch Dân đọc báo cáo với
tiêu đề "Xây dựng toàn diện xã hội khá giả, mở ra cục
diện mới cho sự nghiệp chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Quốc".
Đại hội bầu
ra Ban chấp hành Trung ương khóa XVI với 198 ủy viên chính
thức và 158 ủy viên dự khuyết cùng đồng thời bầu 121 uỷ viên
vào Ủy ban kiểm tra kỷ luật Trung ương.
Ban chấp hành
sau đó bầu ra :
I-Bộ
chính trị
gồm có 24 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết :
-Uỷ viên
chính thức (24)
Hồ Cẩm Đào 1942, Ngô Bang Quốc 1941, Ôn Gia Bảo 1942,
Giả Khánh Lâm
1940,
Tăng Khánh Hồng 1939, Hoàng Cúc 1938, Ngô Quan Chính
1939,
Lý Trường Xuân 1944, La Can
1935,
Vương Lạc Tuyền
1944,
Vương Triệu Quốc
1941,
Hồi Lương Ngọc
1944,
Lưu Kỳ
1942,
Lưu Vân Sơn 1947, Ngô Nghi
nữ, 1938, Trương Lập Xương
1939,
Trương Đức Giang
1946,
Trần Lương Vũ*1946,
Châu Vĩnh Khương 1942, Du Chính Thanh1945,
Hạ Quốc Cường 1943, Quách Bá Hùng 1942, Tào Cương Xuyên
1935,
Tăng Bồi Viêm
1938.
[*Bí thư thành uỷ Thượng Hải bị cách chức ngày 25-9-2006 vì tham
nhũng, Hàn Chính tạm thay cho đến 24-3-2007, kế tiếp là Tập Cận
Bình, con của Tập Trọng Huân]
-Uỷ viên dự khuyết (1)
: Vương Cương 1942.
II-Thường
vụ bộ chính trị
Hồ Cẩm Đào,
Ngô
Bang Quốc,
Ôn Gia
Bảo,
Giả
Khánh Lâm,
Tăng
Khánh Hồng,
Hoàng
Cúc,
Ngô
Quan Chính,
Lý Trường
Xuân,
La Can.
III-Ban bí thư
Tăng Khánh Hồng, Lưu Vân Sơn, Châu Vĩnh Khương, Hạ Quốc Cường,
Vương Cương, Từ Tài Hậu
1943,
Hà Dũng 1940.
IV-Uỷ ban quân sự TƯ
-Chủ tịch: Giang Trạch Dân, 1926.
-Phó chủ tịch : Hồ Cẩm Đào, Quách Bá Hùng, Tào Cương Xuyên.
-Thành viên : Từ Tài Hậu 1943, Lương Quang Liệt, 1940, Liêu Tích
Long, 1940, Lý Kế Nại, 1942.
Chú thích:
Giang Trạch Dân từ chức chức vụ chủ tịch Uỷ ban quân sự TƯ ngày
19-9-2004, Hồ Cẩm Đào lên thay. Ngoài ra, Từ Tài Hậu được tiến cử
phó chủ tịch thứ 3 và 4 tướng khác được bổ sung ở ban thành viên.
Các tướng đó là Trần Bính Đức, chủ nhiệm Tổng Cục Quân nhu, nguyên
tư lệnh quân khu Tế Nam, Kiều Thanh Thần, tư lệnh lực lượng Không
quân, Trần Định Phát, tư lệnh lực lượng Hải quân, Tịnh Chí Viễn,
tổng tham mưu trưởng pháo binh.
V-Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng (121 người)
VI-Phân công
-Hồ Cẩm Đào : Tổng Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Nước và chủ tịch Uỷ
ban quân sự TƯ,
-Ngô Bang Quốc : Chủ tịch Quốc hội,
-Ôn Gia Bảo : Thủ tướng chính phủ,
-Giả Khánh Lâm : Chủ tịch Chính trị Hiệp thương.
-Tăng Khánh Hồng : Phó chủ tịch Nước kiêm bí thư Ban bí thư,
-Hoàng Cúc : Phó thủ tướng thứ nhất,
-Ngô Quan Chính : Bí thư Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng,
-Lý Trường Xuân : Không có chức vụ đặc biệt,
-La Can : Bí thư Uỷ ban Chính trị Pháp luật.
Phùng Nguyên
Paris tháng 4-2007
Tài liệu tham khảo
1-Website: Zhongguo gongchandang xinwen, Đảng cộng sản Trung Quốc
tân văn (http://cpc.people.com.cn)
2-History of the chinese communist party, a chronoly of events
(1919-1990), Foreign Languages Press, Beijing, 1991.
3-Shi nian zheng zhi da shi ji (1976-1986): 10 năm chính trị đại
sự ký, Nhật báo Quang Minh xuất bản, Bắc Kinh, 1988.
4-Jacques Guillermaz : Le Parti communiste chinois au pouvoir,
ĐCSTQ cầm quyền (2 cuốn): Petite bibliothèque Payot, Paris 1979.
5-Mao Zedong si ren yi sheng hui yi lu, Mao Trạch Đông tư nhân y
sinh hồi ức lục của bác sĩ Lý Chí Tuy, Đài Bắc 1994.