.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

" Không có tự do phê phán, thì chỉ còn nịnh bợ mà thôi - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)
 CHUYÊN MỤC

Tư Tưởng

Giáo Dục

n Học

Diễn Đàn

Đời sống

Chính Luận

Môi Trường

Văn minh - Văn hóa

Viễn tượng Việt Nam

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 SÁCH - BÚT/HỒI KÝ CHÍNH TRỊ

Gene Sharp : Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên : Đêm giữa ban ngày

 

 

 

 Viễn Tượng Việt Nam

 

MỘT ĐẾ QUỐC THIẾU NHẤT QUÁN

Tóm tắt nội dung cuốn L’Empire Incohérent của Michael MANN, công dân Anh và Mỹ, Giáo sư xã hội học, Đại học Californie ở Los Angeles

  • Vương Văn Đông lược dịch

Giới thiệu của người dịch : Lược dịch một vài chương chính trong tác phẩm "Một Đế Quốc thiếu nhất quán" của Michael MANN người ta thấy rõ rằng nước Mỹ, vào đầu thiên niên kỷ Thứ ba, là một đế quốc có một lực lương quân sự vô cùng hùng hậu nhưng đồng thời đã mang trong mình một mầm mống quân phiệt.  Do đường lối chính trị chỉ dựa trên sức mạnh của võ khí nên Mỹ đã không thành công trong tham vọng đặt một trật tự thế giới mới. Theo Emmanuel TODD, trong cuốn Après L’Empire, "Mục tiêu chiến lược cơ bản của Mỹ là từ nay phải kiểm soát được về mặt chính trị những tài nguyên của thế giới, vì việc cung cấp vật liệu đủ loại và vốn trở nên chủ yếu cho Mỹ.  Nhưng tình trạng suy đồi về kinh tế, quân sư và hệ tư tưởng làm cho Mỹ không chế ngự được một thế giới quá rộng, quá đông, ngày càng có học và có dân chủ hơn. Và để chứng tỏ vai trò "rốn của vũ trụ", Mỹ đã phải đạo diễn "sức mạnh" của mình.  Do đó, thế giới chứng kiến sự phát triển một hình thức "quân phiệt sân khấu". Tuy nhiên, sức mạnh này cũng chỉ nhắm vào các nước nhỏ như Irak, Iran, Bắc Cao Ly, Cuba v..v.. và Mỹ sẽ không thể bắt các tác nhân có tính chất chiến lược như Nga, Âu Châu và Nhật, vào khuôn phép được.  Đó là một chướng ngại cho sự bá quyền".  Michael MANN nói một cách ẩn dụ là "Đế quốc Mỹ vừa là một anh khổng lồ về mặt quân sự, vừa là một anh chàng lăng săng về  kinh tế (la mouche du coche de l’économie) vừa bị bệnh tâm thần phân lập về chính trị (schizophrene politique) và có ảo tưởng về hệ tư tưởng của mình (mirage idéologique). Tình trạng này đưa tới sự thiếu nhất quán trong đường lối và nhiều thất bại về ngoại giao".

 

            Với một kho vũ khí tấn công vô cùng hùng mạnh, với một địa thế được thiên nhiên ưu đãi, nước Mỹ không sợ bị nạn ngoại xâm, như vậy tại sao Mỹ lại coi những nước nhược tiểu ở Trung Đông và Đông Bắc Á châu như thù địch, đe doạ nền an ninh của mình?  Cuốn "Một đế quốc thiếu nhất quán" cho rằng đường lối chính trị của đế quốc Mỹ hiện nay tạo ra nhiều quân khủng bố hơn là làm giảm đi; tạo ra nhiều "quốc gia côn đồ" quả quyết hơn và làm yếu đi vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới.

 

            Tham vọng không giấu giếm của Mỹ là áp đặt một "trật tự Mỹ" (pax americana) và có ý đồ thống trị đơn phương thế giới mà Mỹ vừa là cảnh sát, vừa là tấm gương luân lý vừa là mô hình kinh tế.  Nhưng thực tế đã không biến chuyển như vậy.  Không quân đội nào có thể chống lại sức mạnh quân sự của Mỹ, nhưng Mỹ lại bất lực trong việc bình định những khu vực đã chiếm đóng. Về chính trị thì Mỹ lại thường lưỡng lự giữa đường lối đối thoại và bạo lực, giữa chính sách đóng cửa và sự can thiệp ở khắp mọi nơi.  Đề cao tự do, dân chủ và phồn vinh, nhưng Mỹ thường làm trái lại lời nói do ý muốn áp đặt bằng vũ lực những giá trị của mình cho mọi nước.     


 

 

 


 

I. - MỘT "ANH KHỔNG LỒ" VỀ QUÂN SỰ

Sức mạnh quân sự của Mỹ hiện nay thì vô song. Tất cả ngân sách quân sự trên thế giới đều giảm sút, trừ ngân sách quốc phòng Mỹ. Trong năm 2003, ngân sách quốc phòng Mỹ vượt trội 40% ngân sách quân sự của toàn thế giới và lớn hơn gấp 25 lần chi phí của toàn thể 7 "nước côn đồ" mà Mỹ xếp hạng là thù địch. Mỹ là siêu cường quân sự độc nhất trên thế giới. Lực lượng quân sự Mỹ quá lớn. Nhưng có vì thế mà tạo  được một đế quốc không? Những đế quốc đòi hỏi 4 loại phương tiện quân sự: một loại vũ khí phòng vệ hay răn đe có khả năng vận hành tốt, một lực lương tiến công, một khả năng chiếm giữ đất đai và dân chúng và sau cùng khả năng bình định. Như vậy, quân lực Mỹ có đủ khả năng tới mức nào để hoàn thành những điều kiện trên.

 

A - Kho vũ khí của Mỹ

- Vũ khí nguyên tử:  Từ năm 1945, vũ khí nguyên tử được xử dụng để ngăn ngừa mọi cuộc tấn công của một đối thủ. Theo hiệp ước START III năm 2002, Mỹ và Nga đồng ý giảm số đầu đạn nguyên tử ở tình trạng tác chiến xuống 2000 hay 2500 từ nay đến năm 2007.  Tuy nhiên, với số đầu  đạn dự trữ, Mỹ vẫn còn số vũ khí nguyên tử mà không một nước nào vượt qua được. Tuy nhiên, Nga cũng sẽ giữ một kho vũ khi ở mức đủ để tiêu diệt đất Mỹ nếu cần thiết. Trước một sức mạnh như vậy nên đế quốc Mỹ không có một quyền lực quân sự gì đối với Nga, cũng như đối với ba lực lượng khác là: 300 đầu đạn nguyên tử của Pháp, 250 của Trung Quốc và 185 của Anh. Sau đó, đến 4 nước có hoả tiễn tầm ngắn có đầu đạn nguyên tử như Do Thái (100-200) Ấn Độ và Pa - ki- xtăng mỗi nước có độ 30 đến 50 đầu đạn nguyên tử và sau cùng Bắc Hàn với 1 hay 2 đầu đạn. Với số vũ khí này, không một chánh quyền nước nào có lý tính mà lại tính tấn công Mỹ. Khả năng phòng thủ của Mỹ mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới. Như vậy thì các nước khác trên thế giới mới phải bận lòng về phòng thủ chứ không phải là Mỹ.  Nhưng vũ khí nguyên tử sẽ chả được tích sự  gì để bình định một khu vực có tài nguyên khai thác, trừ phi muốn có một đế quốc bị ô nhiễm vì phóng xạ.

- Vũ khí thông thường:  Một đế quốc cần dựa trên một lực lương thông thường chứ không phải trên vũ khí nguyên tử.  Quân số quân đội Mỹ quan trọng, nhưng chưa đủ để thể có sức mạnh lấn áp tuyệt đối. Quân số Mỹ từ 2,2 triệu trong những năm 80 bây giờ xuống còn 1,45 triệu, trong khi Trung Quốc có 2,5 triệu và Ấn Độ, Bắc Cao Ly, Nga mỗi nước có độ hơn 1 triệu quân.  So với tổng số quân trên thế giới thì Mỹ chỉ có được độ 5% quân số. Với số quân như vậy, dĩ nhiên Mỹ không thể nào tuần tiễu được hết địa cầu. Nếu tính gồm những lực lượng cần thiết cho những vụ can thiệp quân sự, một mạng lưới căn cứ quân sự trên khắp hoàn cầu, những đơn vị phòng thủ lãnh thổ và các toà đại sứ Mỹ hay các ống dẫn dầu, nơi có quyền lợi của Mỹ ở ngoại quốc thì quân đội Mỹ hiện nay đã được xử dụng gần hết. Trong điều kiện đó, Mỹ có thể đồng thời tham chiến được bao nhiêu mặt trận?  Chiến lược hiên tại của Mỹ là có thể cùng một lúc thực sự tham chiến trong một cuộc chiến tranh rưỡi (1+0,5): thứ nhất tích cực gây hấn, mở mặt trận vào cuộc chiến, thứ hai là thực hiện hoạt động duy trì an ninh. Vấn đề quân số đặt ra là, sau chiến thắng, phải thực hiện việc bình định khu vực chiếm đóng. Như trong lịch sử các đế quốc, Mỹ cũng sẽ rơi vào tình trạng hoả lực mạnh hơn đối phương nhưng khó khăn về bình định.

- Việc dàn quân khắp hoàn cầu:  Lầu Năm Góc khẳng định là căn cứ quân sự Mỹ hiện diện trên 132 nước. Không một nơi nào trên thế giới mà không ở trong tầm tay quân sự của Mỹ. Mỹ là nước độc nhất có khả năng dàn quân khắp hoàn cầu. Nhưng không một căn cứ nào ở sát cận dân chúng, vừa để tránh đụng chạm, với dân chúng địa phương vùng Vịnh, đặc biệt chống đối, vừa để bảo đảm an ninh sau những hàng rào thép gai, không khác mấy các đồn lũy thời xưa. Ngược đời, là sự hiện diện của quân đội Mỹ làm bấp bênh thêm hơn là củng cố cho chánh quyền địa phương. Các căn cứ quân sự Mỹ do đó có những thiếu sót quá quan trọng cho một đế quốc. Ngược lại, những đồn trú của những đế quốc thời xưa thì lại nằm ngay tại cửa ngõ các thành thị hay chợ búa.

 

Từ lâu, Mỹ tiến hành các cuộc chiến với ưu tư tránh triệt để tổn thất nhân lực và chú trọng đến tiện nghi tối đa của binh sĩ. Vì vậy, Mỹ trong chiến tranh đã sử dụng tối đa hoả lực thay thế cho các cuộc tấn công trực diện để tránh tổn thất nhân mạng. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã mang hiểm họa cho chiến lược đó. Để tránh lập lại kinh nghiệm Việt Nam và theo chủ thuyết Powell, mọi cuộc tham chiến quân sự phải được thực hiện với lực lượng trội hơn gấp bội phía địch và với tổn thất tối thiểu. Nhưng có thể nào xâm chiếm và nhất là bình định được một đế quốc chỉ bằng những cuộc tấn công từ xa để tránh tổn thất nhân mạng cho Mỹ? Kinh nghiệm cho thấy là một cuộc tấn công từ xa, không trực tiếp với đối thủ không thể làm đối thủ đầu hàng được.  Chiến tranh ở Bosnie năm 1992 và ở Kosovo năm 1999, Mỹ phối hợp các vụ thả bom với các cuộc tấn công trên mặt trận của lực lượng croates và albanaises.  Ở Afganistan năm 2001-2002, quân đội Mỹ gần như tuỳ thuộc vào bộ binh của Liên Hiệp phía Bắc (Alliance du Nord). Sự thật là 3 đồng minh trên đã chiếm cứ các lãnh thổ, đưa tới việc đầu hàng của địch chứ không phải là quân đội Mỹ.  Thực tế là Mỹ không kiểm soát nổi lực lương của các đồng minh địa phương.

 

B - Vũ khí của kẻ yếu

- Các quốc gia côn đồ và vũ khí huỷ diệt hàng loạt:  Ngôn từ "vũ khí huỷ diệt hàng loạt" chỉ định các loại vũ khí nguyên tử, sinh và hóa. Nhưng thật ra, đó là một ngôn từ rất có dụng ý.  Ít khi người ta viện dẫn nó ra đối với nhóm cường quốc có vũ khí nguyên tử, mặc dầu hiển nhiên là họ có nhiều loại vũ khí này hơn là mấy nước nhỏ như Bắc Hàn. Không có gì lạ khi họ cũng cố gắng tìm cách để có được những vũ khí đó. Ngôn từ này cũng không bao gồm những vũ khí "loại thường" mặc dầu nó còn có sức phá huỷ lớn hơn vũ khí hoá và sinh học, nhất là khi do Mỹ xử dụng.  Mỹ là nước đứng hàng thứ nhất về sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt, đồng thời cũng là nước có trách nhiệm nhất  trong vấn đề "lạm phát" các vũ khí có sức tàn phá cao do việc bán vũ khí cho ngoại quốc. Ngôn từ này cũng không kể đến các vũ khí dùng đạn "uranium apprauvri" có tính chất phóng xạ mà Mỹ đã sử dụng. Về lâu dài loại này có hậu quả cho cả binh sĩ sử dụng lẫn dân thường trong vùng, hoặc các loại vũ khí hoá như napalm hay Roundup Ultra để khai hoang các khu rừng hay khu vực trồng trọt. Thật ra ngôn từ "vũ khí huỷ diệt hàng loạt" cũng chủ quan, thiên vị, chỉ dùng để tố cáo kẻ thù khi họ tìm cách để có được những vũ khí trên.  

      Khởi thủy, chỉ những cường quốc, có nền kỹ nghệ tiên tiến như Mỹ, Nga, Anh và Pháp, là có vũ khí nguyên tử. Sau đến Trung Quốc với nguồn nguyên liệu thiên nhiên dồi dào và Israël tuy nhỏ nhưng có kỹ thuật rất cao, trở thành nhóm nước có vũ khí nguyên tử. Vũ khí nguyên tử lan đến Ấn Độ, Pakistan, tuy  những nước này vẫn còn nghèo. Bắc Cao Ly thì chỉ quân đội là nhiều. Iran, Irak, Syrie và Libye nghèo nhưng cũng tìm cách có được vũ khí nguyên tử. Sự khuếch tán vũ khí hạt nhân không lan tới những nước giàu có như Đức, Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Gia Nã Đại, Nhật và Úc Đại lợi, tuy họ có khả năng chế tạo, nhưng không thấy sự cần thiết vì không cảm thấy bị đe doạ, vì là những nước thân hữu. Hiển nhiên là thái độ hữu nghị giữa các nước là đường lối hữu hiệu nhất để ngăn cản sự khuếch tán quan trọng các vũ khí huỷ diệt hàng loạt.

Nhưng trong môi trường mà họa chiến tranh có khả năng xẩy ra ở Nam bán cầu, vũ khí nguyên tử nẩy nở rộ lên vì các nước coi vũ khí này như một lực lượng răn đe hữu hiệu với một giá không quá đắt. Vài nước nghĩ rằng như vậy có thể bảo vệ chống đế quốc Mỹ.  Họ lý luận một cách đơn giản là Mỹ sẽ suy nghĩ hai lần trước khi tấn công một nước có vũ khí nguyên tử.  Tuy nhiên, loại vũ khí này thật ra không nhằm mục đích tấn công.  Bởi lẽ, bất cứ nước nào tính chuyện tấn công Mỹ bằng vũ khí nguyên tử thì chắc chắn tự gây ra họa bị tiêu diệt. Như vậy, những vũ khí này không thể nào là mối đe doạ cho Mỹ cũng như các nước láng giềng.

Một khi có vũ khí hạch nhân, một nước yếu thế về vũ khí loại thường sẽ công bố có khả năng sử dụng vũ khí hạch nhân để đánh phủ đầu trong trường hợp bị đe doạ tấn công. Đồng minh Tây phương đã dùng chiến lược này đối với Liên Xô, cũng như Israël tại Trung Đông và Pakistan đối với Ấn Độ.

Vũ khí hoá học và sinh học cũng theo con đường này. Các vũ khí này tuy vậy không có sức tàn phá như bom nguyên tử. Nhưng các nước nhỏ hay nghèo có thể chế tạo một cách dễ dàng hơn là vũ khí hạt nhân. Bởi chưng nó chỉ là những dẫn xuất của kỹ nghệ dược phẩm và hoá học ra. Vũ khí này hiện tại chỉ được coi như một chọn lựa phản công, tựa như vũ khí hạt nhân, nhưng ít tàn phá hơn. Đối với những nước nhỏ thì vũ khí này là một răn đe đối với mọi cuộc tấn công, ngay cả với những nước mạnh hơn rất nhiều.  Trong những năm 80, Irak đã sử dụng vũ khí hoá học chống lực lượng thông thường hùng mạnh hơn nhiều. Những vũ khí này là vũ khí của các nước yếu. Nó mang tính chất ngăn ngừa hơn là công kích.

 

- Những đe doạ khủng khiếp hơn trong tương lai: các gián điệp thuộc tổ chức đặc biệt hay những người khủng bố dễ dàng mang theo một quả bom nguyên tử, hoá học hay sinh học với kích thước không quá một chiếc vali, thay vì phải dùng tới tên lửa. Trường hợp này có khả năng xẩy ra trong khoảng một thập niên tới.  Các nước trên thế giới tuy vậy có bốn phương tiện đề phòng hiểm hoạ này:

 

      1 - Quan hệ quốc tế tốt:  Khuyến khích tinh thần hữu nghị giữa các nước là đường lối hiệu nghiệm nhất để giảm thiểu những đe doạ khủng bố hay khuếch tán vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Nhiều nước đã quyết định không chế tạo vũ khí hạch nhân vì không cảm thấy bị đe doạ, như trường hợp Ba Tây, Á Căn Đình, Nam Phi Châu, Ukraine, Bilorussie và Kazakhstan. 

Đặt gỉa thuyết là động cơ chính thúc đẩy một nước tìm cách để có được vũ khí huỷ diệt hàng loạt là sự lo sợ bị tấn công, thì đường lối hữu  hiệu nhất, chống sự khuếch tán loại vũ khí này, là làm giảm đi chứ không phải là tăng thêm cảm giác bị đe doạ.  Mỹ phải làm yên tâm các nước nhỏ chứ không phải là đe doạ, làm mất đi tình hữu nghị.  Hiển nhiên là đường lối của Mỹ, đối với các nước được gán cho là "côn đồ", được quan niệm hoàn toàn  ngược lại.

 

      2 - Một chiến lược răn đe:  Cứ coi là "chiến lược răn đe có hiệu quả" như trước đây với vũ khí hạt nhân. Trong quá khứ, Mỹ và Liên Xô không tấn công lẫn nhau bằng vũ khí hạt nhân, vì cùng sợ bị trả đũa. Thái độ này cũng rất là hợp lý. Kenneth Waltz là một nhân vật nồng nhiệt chủ trương quan điểm thực dụng trong quan hệ quốc tế. Nhân vật này khẳng định là càng nhiều nước có vũ khí hạt nhân càng tốt và vũ khí hạt nhân đóng góp cho việc bảo vệ hoà bình.

Ngay trường hợp chiến tranh nổ ra giữa các nước có vũ khí hạt nhân, thì cuộc chiến đó sẽ được giải quyết chóng vánh, vì canh bạc quá lớn và một trong hai đối thủ sắp chiến thắng thì  chắc chắn sẽ bị trả đũa bằng vũ khí huỷ diệt hàng loạt và như vậy sẽ mất hết. Ngay như những vũ khí nguyên tử cũ kĩ cũng không thiếu sức tàn phá kinh khủng. Không ai có thể dự đoán một cách chính xác hậu quả ra sao. Kenneth Waltz cho đấy chính là ích lợi của chủ trương trên. Waltz còn nhấn mạnh là "không một nước nào lại đi quấy rối thêm một nước có vũ khí hạt nhân đang ở trong tình trạng khó khăn" và dẫn chứng lời của Bernard Brodie: "Chiến tranh phải có một mục tiêu chính trị tương xứng với cái giá phải trả" và kết luận rằng không một mục tiêu nào cân xứng với sự tàn phá của nguyên tử.

Scott Sagan thì bác lại quan điểm của Waltz. Theo ông, chiến lược răn đe hữu hiệu là dựa vào khả năng có thể trả đũa sau khi bị địch thủ tấn công nguyên tử.  Chung ra thì các nước nhỏ thiếu khả năng trả đũa, như vậy chiến lược răn đe không thực hiện được đối với các nước lớn. Kết quả là chiến lược tấn công phủ đầu bằng vũ khí hạt nhân có thể xẩy ra. Điều này làm ta đáng sợ các nước lớn có vũ khí hạt nhân, đặc biệt là Mỹ, hơn là các nước ở miền Nam. Sagan thì  bảo vệ thuyết bất trắc này dễ xảy ra ở các nước nghèo vì họ không có hệ thống báo động đáng tin, có thể nhầm lẫn cuộc tấn công bằng vũ khí thông thường với cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Sagan khuyến cáo nên cảnh giác đối với một nước Pakistan dưới sự kiểm soát của Hồi giáo quá khích. Về phần tôi, tôi thấy cũng cần cảnh giác đối với bộ ba Bush-Cheney-Rumsfeld, khi họ tán thành chiến lược ưu tiên đánh phủ đầu. 

Tuy nhiên, nguy cơ có thể do kẻ khủng bố lấy cắp hay mua được, của một nước cẩu thả trong việc tồn kho hoặc tham nhũng, loại vũ khí huỷ diệt lớn, kích thước nhỏ, có thể mang trong hành lý xách tay. Việc khẩn cấp ưu tiên là tăng cường biện pháp an ninh các cơ sở tồn trữ vũ khí huỷ diệt hàng loạt.

 

      3 - Chính sách đơn phương:  Một chọn lựa mang tính chất đế quốc là Mỹ hành động đơn phương bằng vũ lực để huỷ bỏ vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Mỹ tới nay không biểu lộ mong muốn phi hạt nhân hoá các nước đang có vũ khí hạt nhân. Nhưng Mỹ có thể dùng chính sách đổi lợi lộc với các nước để họ từ bỏ không tìm cách chế tạo vũ khí huỷ diệt hàng loạt (củ cà rốt và cây gậy). Cuối cùng, vẫn còn đường lối phòng ngừa bằng vũ lực, đường lối chủ trương bởi giới thuộc đế quốc mới.

Đem lợi đổi lấy việc ngừng chế tạo vũ khí huỷ diệt hàng loạt, được chứng minh đầy đủ, qua chính sách tài trợ ngân khoản để huỷ diệt số vũ khí dư của Liên Xô cũ.  Chương trình của Mỹ về giảm đe dọa qua hợp tác (Cooperative Threat Reduction) được biết dưới danh hiệu Nunn-Lugar, tên hai thượng nghị sĩ Mỹ. Chương trình này nhằm huỷ diệt vũ khí thặng dư của cựu Liên Xô.  Từ tháng 7 năm 2002, chương trình này đã tài trợ để huỷ bỏ 5 970 đầu đạn hạt  nhân, 1 279 tên lửa và hoả tiễn tầm xa, 829 làn phóng tên lửa, 97 oanh tạc cơ có tầm bay xa và 24 tiềm thuỷ đĩnh được trang bị tên lửa, tổng cộng khoảng 1/4 số thừa của kho vũ khí Liên Xô. Nhiều chương trình khác giúp Ukraine, Bielorussie và Kazakhstan trở thành những nước phi vũ khí hạt nhân.

Lúc đầu, "Bush con" chống đối chương trình Nunn-Lugar, dưới áp lực của giới Cộng hoà bảo thủ. Nhưng tới tháng giêng năm 2003, kết cục chính phủ cho phép chương trình hoạt động trong ba năm, trên một quy mô nhỏ, với 1/3 ngân khoản 3 tỷ USD đề nghị. Ngân khoản này theo thượng nghị sĩ Lugar, chủ yếu dùng vào việc huỷ diệt 2 triệu vũ khí hóa học, đầu đạn tên lửa Scud, tồn kho ở Tchétchénie. Ông ta nhận xét là những "vũ khí đó vẫn ở tình trạng  sử dụng được và trong số đó, có nhiều loại kích thước nhỏ, dễ chuyên chở,  rất nguy hiểm nếu lọt vào tay các tổ chức khủng bố, các giáo phái quá khích hay các nhóm bán quân sự". Ông ta nhấn mạnh là số vũ khí dó có khả năng tiêu diệt dân chúng toàn cầu. Nếu so sánh thì số vũ khí này nhiều hơn tất cả vũ khí của những "nước côn đồ" có thể tập trung được. Như vậy, việc huỷ diệt những kho vũ khí này còn quan trọng cho việc "chống-khuếch- tán hạt nhân" hơn bất cứ chính sách nào chống "trục ác hại". Thế mà, chính quyền Bush đã tiêu 100 tỷ USD để xâm lăng Irak và chỉ bỏ ra 1 tỷ USD để loại bỏ những vũ khí của Liên Xô cũ. 

Trong lúc Mỹ đe doạ các nước đang tìm phương tiện chế tạo các vũ khí huỷ diệt hàng loạt, chánh quyền Mỹ trong bốn mươi năm, đã làm ngơ trước số vũ khí nguyên tử và hoá học của Israel. Cũng như hiện tại, đã bỏ qua những báo cáo của cơ quan tình báo về sự trao đổi kỹ thuật hạt nhân và tên lửa giữa Pakistan và Bắc Cao Ly, tiếp tục cho tới tháng 7-2002. Dĩ nhiên là Mỹ không bao giờ nuôi dưỡng ý định giải giới mình cả, và cũng không chịu một sự kiểm tra nào. Hoặc tán thành một cuộc kiểm soát toàn diện vũ khí thông thường, vì việc bán vũ khí của họ là yếu tố tăng sinh vũ khí có sức tàn phá, đồng thời cũng từ chối ký kết hiệp ước ngăn cấm hoàn toàn việc thử vũ khí hạt nhân (Traìté d’interdiction complète des essais nucléaires TICE). Thông thường thì Mỹ hay không phê chuẩn các hiệp ước hoặc đổi ý kiến về những điều đã cam kết, có khi lại còn vi phạm các điều khoản của hiệp ước. 

Tháng giêng năm 2003, Bộ chỉ huy chiến lược (Stratcom) được phép trù liệu xử dụng tất cả các loại vũ khí, kể cả vũ khí nguyên tử, trong trường hợp gặp lực lượng địch ở Irak. Như vậy sự chọn lựa phương tiện quân sự được trao cho giới quân sự. (Ở bất cứ một nước dân chủ nào, việc xử dụng vũ khí nguyên tử thuộc quyền duy nhất của chính quyền dân sự. Vũ khí nguyên tử không còn là phương tiện quân sự mà là một phương tiện chính trị. Lời dịch giả). Chính sách ngăn chặn việc khuếch tán vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Mỹ trước tiên nhằm vào các nước nghèo và thù nghịch, rồi đến các nước nghèo nhưng thân thiện và sau cùng các nước giàu có, nhưng nó không áp dụng cho chính nước Mỹ. Điều này không làm an tâm các nước khác. Không vì lý do nào mà các nước tự "phi-hạt-nhân" hóa để làm tăng thêm ưu thế quân sự của Mỹ.  Chính sách này là một lầm lỗi lớn nhất của Mỹ.

 

      4 - Chính sách đa phương:  Đây là chính sách cà rốt và cây gậy, cùng với chính sách liên minh giữa các cường quốc hay với Liên Hiệp Quốc. Chính sách hạch nhân hiện thời bảo vệ thành viên câu lạc bộ nguyên tử. Hiệp ước không khuếch tán vũ khí hạt nhân (TNP) cho phép Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc được bảo toàn kho vũ khí, nhưng một mặt, cấm các nước khác chế tạo  vũ khí hạt nhân, mặt khác lại làm ngơ cho Israël, Ấn Độ và Pakistan. Nếu qua con đường Liên Hiệp Quốc thì mọi trừng phạt có được tính cách chính đáng, đồng thời có thể chia nỗ lực tài chánh trong việc giúp đỡ kinh tế cho nước đối tượng. 

Các công ước về vũ khí hoá và sinh học, hiệp ước chống khuếch tán vũ khí hạt nhân (TNP) và hiệp ước cấm toàn diện thử nguyên tử (TICE) đã được ký kết bởi phần lớn các nước. Các thoả thuận này quy định tiêu chuẩn chung, kiện toàn bởi các cuộc thanh tra và các biện pháp trừng phạt trường hợp vi phạm. Irak, Israël và Bắc Cao Ly tìm cách tránh khỏi việc kiểm soát, còn chính Mỹ thì coi thường tất cả những chương trình đa phương.  Mỗi một thành viên mới của câu lạc bộ các nước có vũ khí huỷ diệt hàng loạt lại trở nên một nguồn khuếch tán tiềm tàng vũ khí huỷ diệt hàng loạt.

 

- Du kích quân :  Quân du kích là một đe doạ thứ hai cho nhóm quân phiệt Mỹ. Thật vậy, chiến tranh du kích không có nhiều đòi hỏi về kỹ thuật và tổ chức. Nói tới du kích là nghĩ ngay đến khẩu súng liên thanh xung phong Kalachnikov, với gía rẻ mạt là 15 dollars.  Người ta tính ra là hiện nay có khoảng 100 triệu lưu hành trên thế giới. Nó trở thành biểu tượng của các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Trên lá cờ của Mozambique có hình  khẩu Kalachnikov và được tượng trưng trên quốc huy của sáu nước. Ngoài ra, không thiếu những vũ khí khác như tên lửa có thể xách tay, chống trực thăng, may bay và chiến xa như loại tên lửa Strela-2M của Nga, giá chừng vài trăm USD, đã từng bắn hạ trực thăng Black Hawk của Mỹ ở Somalie, trực thăng Nga  Mi-26 ở Tchet-chen. Ở Irak, trực thăng Mỹ cũng bị hạ bởi những vũ khí tốt hơn như loại tên lửa Mỹ Stinger.

Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết đã đổ ra một kho vũ khí cá nhân đồ sộ, có khả năng thách thức với những vũ khí tối tân hơn và làm khiếp đảm những người dân thường chỉ có tay không. Nhờ kỹ nghệ súng đạn, trong năm 2001, có tới hơn sáu trăm hãng sản xuất loại vũ khí nhẹ rải rác trên chín mươi lăm nước, và giới buôn lậu, nên tình trạng này đã đổi ngược hiệu quả của sự kiện "cách mạng trong sự vụ quân sự "(RMA, Revolution dans les affaires militaires) của Mỹ, làm cho cân bằng khả năng chiến đấu của các đối thủ có những phương tiện kỹ thuật rất chênh lệch nhau.

Những nước nhỏ yếu ở miền Nam như Somalie, Congo, Liberia, Côte d’Ivoire bị tàn phá bởi nội chiến với những phương tiện kỹ thuật thô sơ. Ngay cả những nước lớn mạnh như Nga, Ấn Độ, Nam Dương và Phi-lip-pin cũng bất lực trong chiến lược dẹp yên nhiều vùng ở xa trung tâm như Tchetchen, Cachemire, Nam Phi-lip-pin hay khu vực Atjeh.  Israël cũng nhận thấy rằng phi cơ F-16 và súng M-16 cũng bất lực, không tiêu diệt đươc những nhóm pa-les-tin chỉ được trang bị bằng AK-47 và bom tự làm lấy.

Do đó, đứng về mặt quân sự, ta thấy con số chiến tranh không có cường độ lớn gia tăng nhiều. Tuy thế, những tổ chức bán quân sự này không đe doạ gì Mỹ, khi mà Mỹ không có cai quản các nước này. Nhưng hoàn cảnh thay đổi hẳn khi Mỹ mưu toan thiết lập một đế quốc, xâm chiếm lãnh thổ nước ngoài. Dĩ nhiên, không một nước nào có thể chống lại được hoả lực tấn công của Mỹ, vì vậy, mọi cuộc kháng chiến đều áp dụng du kích chiến.

 

- Quân khủng bố:  Quân khủng bố thường hòa vào với các tổ chức bán quân sự. Cả hai đều xử dụng những vũ khí đã nói ở trên. Nhưng kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1983, họ coi như đã hoàn thiện được một vũ khí mới. Ngày hôm đó, hai chiến sĩ của tổ chức Hezbollah, lái một chiếc xe tải chứa đầy chất nổ tới tổng hành dinh của lực lượng quốc tế duy trì hoà bình ở Beyrouth và cho nổ.  Tổn thất về nhân mạng là 241 quân nhân Mỹ bị chết. Trong một cuộc khủng bố khác, 58 lính dù Pháp mất mạng. Những người mang bom tự ý chấp nhận cái chết, trở thành những người đầu tiên tự tử để mưu sát trong thời đại mới. Sự đột nhập của quân đội Tây Âu vào Liban để tìm kiếm du kích quân tại các trại định cư, là đầu mối cho các cuộc mưu sát.  Tổ chức Hezbollah là một phong trào quốc gia libanais hơn là phong trào Hồi giáo. Thật ra, trong số lãnh đạo tôn giáo, nhiều người phản đối chiến thuật này, khẳng định là Hồi giáo không có thể bào chữa cho sự tự sát. Nhưng phương pháp này tỏ ra quá hữu hiệu nên đã lan truyền ra trong một vùng lớn thuộc khu vực Hồi giáo. Mặc dầu những thành kiến, các cuộc tự tử để mưu sát không phải là độc quyền của hồi giáo, và cũng không phải của giới hồi giáo thủ cựu. Thành viên các phong trào phi giáo hội "giải phóng dân tộc" ỏ Sri Lanka, Tigres Tamouls, năm 1987, cũng bắt chước Hezbollah, mang bom để mưu sát. Tới nay, thành viên Tigres Tamouls đã tấn công gần hai trăm vụ bằng hành động khủng bố tự tử. Phương sách này là vũ khí cuối cùng của kẻ yếu, và đã phát triển tới chiến tranh Irak.

Quân khủng bố cũng được sự ủng hộ của các nước có thiện cảm với sự nghiệp của họ, như cơ quan tình báo ISI của Pakistan đã giúp quân khủng bố Ca-sơ-mia hay afghan từ hơn mười năm nay. Người hướng dẫn tinh thần của tổ chức Hamas, Cheikh Ahmad Yassine tuyên bố là: Dân tộc pa-les-tin không có phi cơ Apache, F-16, thiết giáp và tên lửa. Tài sản độc nhất của họ là bản thân họ, mà họ sẵn sàng tử vì đạo. Bác sĩ Ramadan Shalah, tổng thư ký của tổ chức Djihad Hồi giáo pa-les-tin,  khi nói về Israël, khẳng định là :"Kẻ thù của chúng ta có những vũ khí tối tân nhất thế giới và quân đội của họ có trình độ huấn luyện rất cao...chúng ta thì không có gì cả...trừ cách tử vì đạo. Hành động này rất dễ và chỉ mất sinh mạng của ta thôi. Người ta không thể  thắng được, ngay cả bằng bom nguyên tử, những người biến thành bom.

Tổ chức "Lực lượng quân sự cách mạng Colombie" (FARC) và "Quân đội giải phóng quốc gia" (ELN) phản đối một cách chính đáng việc Mỹ chiếm giữ đất đai của họ để giải quyết vấn đề ma tuy, thì bị trực thăng và phi cơ Mỹ bắn phá và rải chất hoá học để triệt tiêu việc trồng trọt. Tỷ số rất cao - 81% - những vụ tấn công vào thường dân hay cơ sở quyền lợi của Mỹ đều xẩy ra ở Colombie.  

Hiển nhiên Mỹ là một khổng lồ quân sự, đáng coi là nguy hiểm. Sức mạnh tàn phá của họ có thể làm cho người Mỹ nhầm lẫn và làm họ tin tưởng rằng sức mạnh đó có thể giúp họ xây dựng một thế giới hoàn thiện hơn. Nhưng vũ khí nào có thể  xây dựng được một thế giới hoàn thiện không? Công cuộc bình định chống du kích và khủng bố, có thể nào thực hiện được bằng súng đạn, bằng hệ thống các căn cứ quân sự, bằng lực lượng khổng lồ với chủ trương tránh thiệt hại sinh mạng cho quân nhân Mỹ?                                                              

 

II - MỘT "ANH LĂNG SĂNG" VỀ KINH TẾ

Nền kinh tế Mỹ là một bộ máy rất lớn (tuyệt vời).  Sau Dệ nhị Thế chiến, khả năng kinh tế Mỹ sản xuất bằng nửa khả năng của cả thế giới, cũng như  tiền dự trữ  mới. Mỹ được trao cho quyền bổ nhiệm các tổng giám đốc Ngân hàng quốc tế, có số phiếu quan trọng để có thể phủ quyết mọi sáng kiến. Các hãng Mỹ tập hợp nhiều- nước lan tràn khắp hoàn cầu. Nhưng nền kinh tế Âu châu và Nhật đã nhanh chóng phục hồi, còn các nền kinh tế khác phát triển ở Đông châu Á. Kinh tế Mỹ vẫn giữ vai trò động lực chính của sự tăng trưởng trên thế giới, nhưng vai trò này hiện nay tuỳ thuộc vào sức tiêu thụ quá đỗi của dân chúng Mỹ hơn là do ưu thế của kỹ nghệ sản xuất. Về khối lượng sản xuất tổng quát và trao đổi thương vụ, Mỹ chỉ là một trong ba cực kinh tế quan trọng, ngang với Cộng đồng châu Âu và trước cực Nhật-Đông Á châu một ít. Ngoài ra, Mỹ không có quyền quyết định đơn phương trong các tổ chức như Tổ chức thương mại quốc tế, trong G8 hay các tổ chức quốc tế phối hợp kinh tế.

Thời suy tàn của cộng sản đã củng cố sự cạnh tranh kinh tế của các khối địa phương hơn là ưu đãi kinh tế Mỹ. Mối giây liên lạc kinh tế giữa Nga và Âu châu mạnh hơn là với Mỹ. Trong năm 2002, trao đổi thương mại giữa Nga với Cộng đồng châu Âu là 37%,  với Mỹ chỉ có 5%. Nước này còn đứng dưới cả hai nước Đức và Hoà Lan. Đầu tư của Mỹ bằng 16% số vốn đầu tư nước ngoài vào Nga, hơi kém Đức nhưng thua xa Cộng đồng châu Âu. Ngoài ra, các bạn hàng chính của Trung Quốc là các xí nghiệp Trung quốc đầu tư ở nước ngoài trong khu vực châu Á. Rồi đến Nhật và sau đó là Mỹ và Âu châu chia nhau hàng thứ ba. Các nước cộng sản cũ duy trì mối giây liên lạc mật thiết với các nước láng giềng hơn là với Mỹ. Đúng ra thì phải nói là miền Bắc bán cầu giữ tình trạng bá chủ về sản xuất và thương mại, cung ứng 80% sức sản xuất, thương mại và tài chánh, và 95% hoạt động nghiên cứu và phát triển.

Chính là nền tài chánh đã giúp cho Mỹ còn đứng ở hàng đầu. Đồng đô-la, sau khi bỏ bản vị vàng (étalon d’or) năm 1973, trở thành tiền dự trữ quốc tế, trong lúc giá trị trao đổi thương mại tại Wall Street có khối lượng gần hai phần ba thị trường chứng khoán trên thế giới. Thị trường chứng khoán đều xử dụng đô-la, và phần lớn các nước đều lấy đô-la làm tiền dự trữ và tiền tiết kiệm. Thế giới đầu tư vào kinh tế Mỹ qua Wall Street, giúp cho dân chúng Mỹ có thể chồng chất nợ để tiêu thụ, và chánh quyền Mỹ tài trợ cho những  thiếu hụt thương mại và ngân sách rất lớn. Như vậycó nghĩa là các nước nghèo đã trợ cấp cho kinh tế Mỹ hơn là nước này giúp đỡ họ phát triển. Chính vì vậy mà các nhà đầu tư ngoại quốc đã trợ cấp một phần lớn cho quân lực Mỹ.

Tình trạng này sẽ không kéo dài nếu Mỹ làm mất lòng đa số các nước trên thế giới tới mức các nhà đầu tư rút về khối tiền dự trữ của họ. Số dự trữ này, phần lớn được đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu và cổ phần, có thể nhanh chóng thanh toán. Tuy vậy, các nhà đầu tư này chỉ bỏ khu vực đô-la và Mỹ, nếu họ mất tin tưởng vào nền kinh tế hoặc khả năng của Mỹ có thể bảo đảm sự ổn định kinh tế và địa dư chính trị thế giới. Từ vài thập niên nay, vì  khả năng kỹ nghệ và sản xuất của thế giới dư ra, nên làm cho mức lợi nhuận thực bị giảm đi. Sau những vụ tai tiếng về giả mạo kế toán của các xí nghiệp lớn như Enron hay WorldCom, các xí nghiệp Mỹ không còn là chỗ đầu tư đáng tin cậy nữa. Hiện nay, giá cổ phần Mỹ đang tụt xuống, tạo ra một phản ứng dây chuyền trên thị trường chứng khoán Mỹ. Vấn đề không phải do một số tội phạm.  Vấn đề có nguyên nhân ở cơ cấu của Mỹ, do đặt ưu thế nền tư bản tài chánh trên nền tư bản sản xuất. Thực tế là  những dấu hiệu đầu tiên của sự mất tin tưởng đã xuất hiện khi dòng vốn về Mỹ bắt đầu giảm xuống từ năm 2000. Tiền đô-la mất giá khoảng 20% so với đồng euros, thu nhập thuế má xuống cấp trong khi thiếu hụt ngân sách tăng lên.

Tuy nhiên, rồi Mỹ và Anh sẽ phải trả giá cuộc xâm lăng Irak năm 2003.  Ước tính chính thức đầu tiên về cuộc chiến  này vào khoảng năm mươi tỷ đô-la, để rồi tiến gần tới một trăm tỷ. Lawrence Lindsey, cố vấn kinh tế của Tổng thống, tuyên bố là giá phải trả có  thể lên tới hai trăm tỷ đô-la. Ông ta đã bị mất chức.  Irak có thể trở thành một Việt Nam thứ hai. Guồng máy kinh tế không được dự kiến cho trường hợp này. Thị trường dựa trên sự tin cẩn, và Mỹ không thể kiểm soát được, bởi vì đó là một hệ thống tư bản. Vì vậy, cái ý đầu tiên về từ ngữ tôi sử dụng ở chương này là Mỹ "chỉ là một anh lăng săng về mặt kinh tế", không kiểm soát gì được cả. 

Hiện tại, guồng máy hãy còn chạy khá đủ để tiến hành ba chính sách kinh tế đế quốc. Trước tiên, Mỹ có quyền lực ngăn cản bất cứ kẻ thù nào, thật hay tưởng tượng, được tiếp xúc tới nguồn tài nguyên kinh tế, bằng cách trừng phạt kinh tế. Thứ hai, Mỹ có khả năng chấp thuận các lợi ích kinh tế: giúp đỡ, cho vay với lãi xuất rẻ, giảm bớt quan thuế, cung ứng vũ khí. Nhưng đây không phải thuần túy là món quà. Bởi Mỹ bắt buộc các nước nhận viện trợ phải dùng ngân khoản này để mua sản phẩm và dịch vụ của Mỹ. Sau cùng, Mỹ theo đuổi chính sách mà mục tiêu là khích động thế giới mở thương khẩu hơn nữa, căn cứ vào lý tưởng mà ta gọi là "chủ nghĩa tự do mới "

 

      - Việc trừng phạt kinh tế của Mỹ:  Hành động đơn phương trừng phạt kinh tế chỉ hiệu quả khi được thực thi ở các nước gần Mỹ về phương diện địa lý, như Cuba lụn bại vì bi Mỹ cấm vận mà không có khả năng thay thế tác nhân thương mại ở quá xa, như Âu châu hay Nhật. Chính sách tàn nhẫn của đế quốc kinh tế, mặc dầu sự bài xích của nhiều nước, làm cho các nước trong khu vực Trung Mỹ không dám theo chân Cuba, chống đối Mỹ.

Nhưng tại các địa phương khác, chính sách cấm vận chỉ hiệu quả khi có sự đồng ý của cộng đồng thế giới. Ngược lại, việc trừng phạt đơn phương của Mỹ không đem lại kết quả gì, vì các nước cạnh tranh nhau sẽ vội vã thay chân chiếm thị trường.  Mỹ có cố sức điều khiển các nước, nhưng cũng vẫn cần sự ủng hộ của họ để có thể áp dụng được cấm vận.

 

      - Chương trình giúp đỡ và phát triển:  Giới Mỹ trung bình,  theo những cuộc thăm dò dư luận, tin rằng đất nước họ để ra 15% tổng ngân sách để giúp các nước ngoài. Thật là một lầm lẫn. Những chương trình giúp đỡ không nghĩa lý gì và càng bớt đi từ năm 2003.  Bất ngờ ông Bush đã tuyên bố tăng viện trợ dần dần trong tương lai. Trong năm 2005, số tiền viện trợ cho ngoại quốc đạt tới mười tám tỷ đô-la, gấp đôi số tiền năm 2001. Nhưng tiền viện trợ này tính theo giá trị hằng số (valeur contante) thì chỉ bằng một nửa số viện trợ năm 60 và số tiền cho năm 2005 chỉ bằng 0,2% tổng sản lượng quốc nội (PIB).

Cách đây ba mươi năm, LHQ yêu cầu các nước giầu có nhất hãy cấp cho việc trợ giúp quốc tế  0,7% tổng sản lượng quốc nội, một số tiền không có gì là to lớn. Chỉ có bốn nước ở Âu châu là đạt được mục tiêu này. Mỹ là nước đứng đội sổ trong số hai mươi hai nước giàu có cho tiền và tiếp tục ở vị trí đó trong năm 2005. Hoà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển và Đan Mạch bỏ ra hơn mười lần/đầu người. Viện trợ Mỹ ít hơn một nửa tiền bán vũ khí cho ngoại quốc, trong khi ngân sách quân sự cộng với kinh phí của Bộ ngoại giao dành cho an ninh năm 2003 lên tới con số làm chóng mặt là ba trăm chín mươi tỷ đô-la, bằng ba mươi lần số tiền dành cho viện trợ trong cùng một năm. Ưu tiên của đế quốc hiển nhiên là nhiều vũ khí hơn là bơ. Một phần tư ngân quỹ dành cho viện trợ trên thực tế là dùng cho các chương trình huấn luyện quân sự, phần khác cho "việc giúp đỡ an ninh", nói cách khác là cung ứng vũ khí.

Mặt khác, điều đáng ngạc nhiên nếu biết nước nào đã hưởng những viện trợ ấy?  Nó không tới được các nước nghèo nhất. Một phần ba số viện trợ được dành cho một nước trong số hai mươi nước giàu nhất trên thế giới-Israël. Một phần năm cho Egypte, sau tới Jordanie. Như vậy, phần lớn viện trợ được dùng để hỗ trợ cho một nước nhỏ, Iraël với dân số bằng một phần nghìn dân số hoàn cầu. Tính ra mỗi người dân Do Thái nhận được năm trăm đô-la mỗi năm của người dân Mỹ. Còn lại mười phần trăm viện trợ kinh tế mới đến tới những nước cực nghèo trên thế giới. Tiền viện trợ cho Phi Châu tính ra mỗi người được tăng từ ba xu đến mười xu. Người ta tự hỏi với số tiền đó thì họ mua được những gì?

Israël hưởng ưu đãi đặc biệt là được viện trợ bằng tiền mặt, tự do xử dụng tiền, không cần phải thanh minh,  không bắt buộc phải mua sản phẩm của Mỹ và có thể dùng tiền viện trợ để làm mọi thứ, từ tên lửa hạt nhân hay xây nhà thờ. Các nước khác bắt buộc phải mua hàng của Mỹ và nêu lý do chi tiết việc quản trị ngân khoản. Từ nhiều năm, Israël là nước được viện trợ quân sự quan trọng nhất, trị giá hai tỷ hai đô-la, sau tới Egypte đứng hàng thứ nhì với số viện trợ 1,3 tỷ và Jordanie với hai trăm triệu, Colombie một trăm triệu. Israël còn có đặc quyền trực tiếp mua vũ khí của giới cung cấp vũ khí Mỹ, mà không phải thông qua sự kiểm tra nào của bộ quốc phòng Mỹ.

Nói về yếu tố trợ giúp để phát triển thế giới của Mỹ thì thật ra ít ỏi. Về phương diện này, nói đây là một đế quốc "nhân từ" thì thật là gỉa đạo đức. Nhân từ ở đây được đặt vào mức chiến lược. Mỹ ủng hộ Israël, bỏ tiền mua các nước chung quanh để họ có thái độ dung hoà với Israël, giúp đỡ các nước thuộc Liên bang Xô viết cũ để biến các nước này thành khu đệm giữa Mỹ và Nga.  Hai nước Colombie và Pérou nhận được phần lớn viện trợ dùng cho Châu Mỹ la-tin, vì vấn đề chống ma tuý xuất phát từ đây. Cũng như trường hợp các nước Pakistan, Yemen, Djibouti, Indonésie, Qatar, Oman, Géorgie, Philippines, ủng hộ Mỹ trong các cuộc chiến hiện tại, được hưởng viện trợ kinh tế và quân sự dưới hình thức mới. Điều này cũng không có gì là ác ý. Chỉ có là đế quốc ban thưởng cho các đồng minh chiến lược của họ, chứ không phải cho toàn thể thế giới. Hành động này thua xa hành động vô vị lợi của các nước Hoà Lan và Thuỵ Điển.

Viện trợ này tuy ít ỏi, nhưng vẫn bị giới thủ cựu chỉ trích. Để đáp lại thái độ chỉ trích của giới thủ cựu, chánh phủ Mỹ cho ra chương trình "Millennium Challeng Account" tháng ba năm 2002. Chương trình  này tăng cường viện trợ Mỹ bằng những hợp đồng song phương. Các nước muốn hưởng các khế ước này, phải có tinh thần trách nhiệm và chấp nhận ba nguyên tắc :

      - Một chánh phủ cầm quyền tốt (bonne gouvernance)

      - Thanh toán tham nhũng, tôn trọng nhân quyền và luật pháp,

      - Lấy những biện pháp chiếu cố đến tình trạng y tế và giáo dục (đường lối kinh tế đúng đắn, thúc đẩy đầu óc kinh doanh. Thị trường tự do, ngân sách đứng vững được, tự do kinh doanh và sáng tạo)

 

Đây chính là nguyên tắc cột trụ của đường lối tự do mới, một lần nữa che giấu quyền lợi kinh tế của Mỹ, bởi vì các nước bắt buộc phải tán thành luật lệ của Mỹ về "quyền sở hữu trí tuệ ", nói cách khác là các bằng sáng chế của Mỹ.   

Theo chương trình này,  các nước nghèo phải cạnh tranh để có được sự viện trợ. Nhưng chỉ có dưới mười hai nước được coi là đủ tiêu chuẩn, nên số tiền trợ giúp tổng quát trung bình một trăm triệu đô-la, quá ít so với Israël. Vì cùng lúc, nước này xin Mỹ trợ cấp 10 tỷ đô-la. Mỹ đồng ý bảo đảm cho vay 9 tỷ và 1 tỷ cho viện trợ quân sự.

Đáng tiếc là một phần ba các nước ở miền Nam không thực hiện được nguyên tắc "cầm quyền tốt ". Số nước này đúng là những nước nằm ở dưới đáy, bị thải khỏi nền kinh tế quốc tế. Đầu tư từ nước ngoài và nền thương mại quốc tế của họ bị thụt lùi. Trong một vài nước đó, các lãnh đạo độc tài, các đại tá hay lãnh chúa, đã phát minh ra một thứ tư bản kalachnikov. Trong khi ấy thì dân càng nghèo nàn, quyền con người bị trà đạp, không chống nổi bệnh tật và đói khổ. 

Viện trợ Mỹ có góp phần vào sự phát triển của một số nhỏ các nước, nâng đỡ một vài nước thân hữu, mặc dầu tính chất trấn áp và nghèo khổ của chế độ. Viện trợ này được hoàn toàn dành riêng cho lãnh vực quân sự. Cho tới nay, Mỹ không vận dụng chính sách đầu tư cần thiết cho việc xây dựng một đế quốc.

 

      - Tự do mậu dịch:  Những chương trình viện trợ không thể mang lại được sự phát triển bền vững, trừ phi ở quy mô chương trình Marshall hay sự giúp đỡ Israël. Nhưng viện trợ ít quan trọng hơn là thương mại. Phi châu chỉ góp 2% vào nền thương mại quốc tế và con số này cũng xuống cấp. Tuy vậy, mặc dầu tỷ lệ yếu kém này, nhưng còn 10 phần trọng yếu cho nền kinh tế của đại lục hơn là mọi viện trợ có thể nhận đươc. Chánh quyền Mỹ gần đây tuyên bố rằng thị trường tự do là cơ sở của đường lối Mỹ về phát triển. Đối với Mỹ, chức năng chính của một chánh phủ là vận dụng một chính sách thuận lợi cho thị trường và giảm bớt vai trò của chánh phủ. Người ta gọi đây là "chủ nghĩa tự do mới" (néolibéralisme) hay là "sự nhất trí" của Hoa Thịnh Đốn, một trong nhưng tư tưởng chủ yếu (idées-forces) của đế quốc Mỹ.

Sự phi-kế-hoạch-hóa nền thương mại quốc tế có lợi cho những xuất khẩu chính của những nước nghèo, gồm sản phẩm  nông nghiệp và sản phẩm kỹ nghệ thô sơ, tương đối thuận lợi hơn các nước giàu, nhờ ở nhân công rẻ. Các nước này đón nhận tự do mậu dịch một cách hồ hởi trong lãnh vực nông nghiệp với Mỹ cũng như các nước giàu có ỏ miền Bắc.  Để bảo vệ, những nước này trợ cấp cho nông nghiệp của họ một số tiền lớn hơn 6 lần tổng số tiền các chương trình viện trợ quốc tế. Mặt khác, về kỹ nghệ tiên tiến, các nước phía Nam, trong hoàn cảnh tự do mậu dịch, thường không đủ sức cạnh tranh được với miền Bắc.

Tự do mậu dịch thường được ca tụng vì có tiếng vang lý tưởng gợi lên ở nước Mỹ. Các chính khách Mỹ thường coi như một phương trình việc mở rộng thị trường, tự do mậu dịch với tự do dân chủ. Trong bài diễn văn về tình trạng Liên Bang năm 2002, tổng thống Bush tuyên bố:"Trong mỗi khu vực, việc mở rộng thị trường, tự do mậu dịch và một xã hội tự do chứng tỏ khả năng nâng cao đời sống... Chúng ta chứng minh là các lực lượng khủng bố không có thể làm ngừng lại động lực của tự do". Ông ta muốn nói bóng gió là mọi đối lập với tự do thị trường và tự do mậu dịch coi như tương đương với sự giúp đỡ "lực lượng khủng bố".

 

      - Chủ nghĩa tự do mới và quyền lợi của Mỹ:  Mỹ đứng đầu phong trào dẫn tới việc mở rộng thị trường thế giới. Tỷ xuất thuế quan chỉ có 4%. Phần lớn kỹ nghệ Mỹ vì giá có thế cạnh tranh nên thuận lợi trong nền thương mại mở rộng. Các ngân hàng Mỹ đầy vốn, nhất thiết muốn cho vay tiền ở ngoại quốc qua trung gian thị trường vốn (capitaux libres)  tự do.

Trong lúc những lĩnh vực của kinh tế Mỹ được bảo vệ nhiều nhất thì lại là những lĩnh vực chuyên môn của các nước nghèo. Nông nghiệp là lĩnh vực được che chở nhất. Do đó, nông gia Mỹ nhận được trợ cấp trực tiếp nên tốn phí xuất cảng ở mức tối thiểu. Ngược lại với những nước giàu có khác, Mỹ không có viện trợ tiền mặt cho các nước thiếu lương thực thực phẩm. Vì, họ có thể tự mua thực phẩm và như vậy giúp cho nông nghiệp của họ phát triển. Ngược lại, Mỹ xuất khẩu thặng dư thực phẩm đến các nước trên nhằm mục đích "khai triển thị trường tiêu thụ" cho chính thực phẩm của mình-gây thiệt hại cho nông dân sở tại mà sản phẩm không cạnh tranh được với sản phẩm xuất khẩu được trợ cấp của Mỹ.  Đây không còn là "viện trợ" nữa, mà là một hình thức lừa đảo tàn nhẫn.  Dĩ nhiên là các nước giàu bảo vệ quyền lợi của mình về các lãnh vực nông nghiệp, kỹ nghệ vải vóc, quần áo và giầy dép, chống các nước nghèo nhiều hơn là chống lại nhau, đem lại hậu quả là tổn hại cho các nước kém năng khiếu. Chỉ cần so sánh hàng nhập cảng của Pháp, nước giàu, với hàng của Bangladesh, nước nghèo nhất thế giới thì đủ thấy rõ. Số lượng nhập khẩu Pháp tính theo giá đô-la cao hơn 13 lần số lượng của Bangladesh. Nhưng tiền thuế quan nhập khẩu, Bangldesh phải trả cho Mỹ cao hơn thuế quan nhập khẩu của Pháp vào Mỹ.  Số tiền thuế quan 331 triệu USD, mà Bangladesh phải trả cho Mỹ làm lu mờ số tiền 84 triệu, viện trợ của Mỹ cho Bangladesh. Của cải phong phú lại được phân phối lại cho các nước giàu. 

Ông Bush đồng thời làm ngược lại thuyết tự do mậu dịch. Vào tháng ba năm 2002, khi muốn thoả mãn những đòi hỏi của các khối áp lực, ông đã bất thần tăng thuế nhập khẩu sắt lên 30% và tăng trợ cấp cho nông sản lên 80%. Ông ta miễn thuế nhập cảng sắt cho 80 nước nghèo "những nước không có kỹ nghệ luyện kim".  Bộ trưởng bộ sản xuất Á-Căn-Đình, José Ignacio de Mendiguren than phiền là "Sự thực là Mỹ không muốn mua hàng của chúng tôi. Á Căn Đình là một nước sản xuất lớn với giá rất hời về lãnh vực nông sản, nhưng chúng tôi phải cạnh tranh với nông sản Mỹ và Âu châu, không những họ đóng cửa biên giới đối với sản phẩm của chúng tôi, mà còn trợ cấp cho nông sản của họ, cùng loại mà chúng tôi sản xuất. Từ trước đến nay vẫn như thế. Bất cứ sản phẩm nào mà Á Căn Đình có thể xuất khẩu thì chúng tôi đều biết rằng Mỹ sẽ điều chỉnh sự trao đổi thương mại để bảo vệ các nhà sản xuất Mỹ trên lưng chúng tôi."

Chế độ thuế quan bảo vệ vô liêm sỉ nhất là sự thoả thuận chi phối quyền sở hữu trí tuệ (propriété intellectuelle) và các chứng chỉ phát minh mà các nước giàu áp đặt lên tổ chức thương mại quốc tế. Hiệp định này đặc biệt bảo vệ các kỹ nghệ dược được bán với giá cao, các dược phẩm cần thiết cho sự sống còn của dân chúng các nước nghèo. Thuốc chữa sida cho một người trong một năm lên tới 10 000 USD, nhưng nếu sản xuất tại Ấn Độ hay Brésil thì chỉ tốn 300 USD. Nhưng dưới áp lực của Mỹ, Tổ chức thương mại quốc tế tuyên bố là những thuốc này là làm giả. Thực là một sự xâm phạm trắng trợn nhân quyền nên, TCTMQT, trong những buổi họp trong năm 2001 đã cho phép các nước đang phát triển được sản xuất thuốc này dưới dạng thuốc cùng chủng loại (médicaments génériques). Nhưng đến tháng 12 năm 2002, Mỹ đã làm thất bại hiệp định trên.

 

      - Giải phóng dòng tài chính (flux financiers) và Chương trình sửa đổi cơ cấu:  Sự đột khởi chính của thuyết tự do mới của Mỹ nằm trong lãnh vực tài chánh, qua Quỹ tiền tệ quốc tế (FMI), Ngân hàng quốc tế và các ngân hàng khác về phát triển, tất cả đều dưới sự kiểm soát của Mỹ. Nguyên Tổng Thư Ký LHQ, Boutros Boutros-Ghali, nhận định rằng, sau chiến tranh lạnh, thế lực của Mỹ càng tăng lên thì vai trò của LHQ, trong công việc phát triển thế giới càng yếu đi: "Sự hợp tác và phát triển kinh tế, thuộc thẩm quyền của LHQ, được chuyển vào tay của Ngân hàng quốc tế, Quỹ tiền tệ quốc tế và Tổ chức thương mại quốc tế. Hội đồng kinh tế và xã hội (Conseil économique et social) của LHQ chỉ còn là một cơ quan qua đó các nước nhận viện trợ bầy tỏ hy vọng và ước mơ của họ."  Trong thập niên 70, các ngân hàng thuộc miền Bắc cho vay với xuất lãi rất thấp, nên các nước miền Nam đã vay những số tiền lớn để đầu tư vào phát triển. Nhưng đến năm 1979, Paul Volker bất thần tăng lãi xuất Mỹ lên cao. Tình trạng này làm cho các nước miền Nam không còn khả năng trả lãi và vốn, đưa tới cuộc khủng hoảng trầm trọng, làm rung chuyển các nước miền Nam.

Do Ngân khố Mỹ kiểm soát FMI và BM, nên cơ quan này trong thực tế trở nên như một chủ nợ của thế giới và áp đặt điều kiện trả nợ theo thuyết tự do mới, mà người ta gọi là "chương trình sửa đổi cơ cấu". Mục đích chính của những cơ quan tài chánh này không phải là vấn đề phát triển kinh tế, mà là vấn đề trả nợ. Trong mục đích đó, Mỹ tính áp đặt chương trình tự do mới, gồm: chính sách thuế khoá- austérité fiscale- (giảm chi tiêu ngân sách và tăng thuế), lãi xuất cao, ổn định tiền tệ, mở rộng tự do thương mại, thị trường vốn và lao động, bỏ những kiểm soát của chánh phủ. Thị trường là vua.

 

      - Thuyết tự do mới và quyền lợi giai cấp:  Phần lớn các kinh tế gia đều nhìn nhận là các chương trình kinh tế được chấp nhận trong thập niên 80–90, đã làm tăng thêm sự bất bình đẳng tại châu Mỹ - La tinh. Samuel Morley chứng minh là những cuộc cải cách thuế khoá thực sự có hại nhất, khi giảm tỷ xuất cơ sở đánh thuế để thúc đẩy đầu tư và tăng thuế hàng tiêu thụ nhằm tránh ngân sách thiếu hụt. Thành ra, người giàu được hưởng tỷ xuất thuế thấp, ngược lại người nghèo bị mất phần lớn thu nhập để trả thuế hàng tiêu thụ hàng ngày.

Hiện nay, ở tại các nước nghèo, các kỹ nghệ khai thác rừng và mỏ, cũng như kỹ nghệ thực phẩm nông sản, tìm cách lợi dụng đất đai của những nông dân bị phá sản. Các công ty kỹ nghệ này, được sự ủng hộ của chánh quyền, sẵn sàng làm mọi thứ để thu hút đầu tư ngoại quốc và duy trì nạn tham nhũng. Tình trạng này là nguyên nhân của những cuộc nội chiến lan tràn trong những vùng xa xôi ở Colombie, Guatemala, Ấn Độ hay Nam Dương. Thật ra, một cuộc cải cách ruộng đất có thể giải quyết được vấn đề và nước Mỹ có thể đóng góp. Nhưng, ngay cả sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, thành kiến giai cấp của Mỹ vẫn còn nguyên vẹn. Mỹ chứng tỏ sự thiên vị rõ rệt trong cách xử sự đối với nhiều chiến cuộc, chẳng hạn ở Colombie, giữa du kích nông dân và thân binh võ trang của các đại điền chủ hoặc ở Nepal giữa du kich Mao-ít và hoàng gia ủng hộ địa chủ. Trong hai trường này, Mỹ giúp đỡ quân sự để đàn áp các phong trào nổi dậy.

Chánh quyền Mỹ không chút do dự làm áp lực lên các chánh quyền ngoại quốc nhân danh quyền lợi của các nhóm tư lợi. Hợp đồng ký kết giữa nhà máy điện Mỹ ở Dabhol và tiểu bang Maharashtra ưu đãi cho xí nghiệp nhờ ở tiền đút lót cho nhân viên chánh quyền.  HRW phát giác ra những chứng cớ là xí nghiệp đã đút lót cảnh sát địa phương đàn áp nông dân biểu tình phản đối khi bị cưỡng đoạt đất và nước.

Chánh phủ Ấn thử tìm cách điều đình lại hợp đồng nhưng đã gặp phải áp lực rất mạnh của xí nghiệp và chánh phủ Mỹ.  Trước buổi hội kiến giữa ông Bush và Vajpayee, thủ tướng Ấn, xí nghiệp nói trên thú nhận đã bất hợp pháp khai man tiền lời quá lên 600 triệu USD. Tai tiếng này đưa xí nghiệp đến tình trạng vỡ nợ. Xí nghiệp này có tên là Enron.

Vụ này cho thấy sự bất bình đẳng đối xử. Một mặt, các nhân viên cao cấp nhất của chánh phủ làm mọi cách để nâng đỡ quyền lợi của các xí nghiệp khổng lồ (nguồn tài trợ tài chánh cho cuộc tranh cử của Bush, và các hoạt động "tội ác"). Mặt khác, không cho phép một sự giúp đỡ nào cho thợ thuyền. Bên khinh bên trọng là một trong những mâu thuẫn của chánh sách Mỹ. Trong suốt thời gian chiến tranh lạnh, chánh sách này được coi như chính sách phòng thủ của tự do kinh doanh chống cộng sản. Từ khi cộng sản sụp đổ, công nhân đã thay thế vào địa vị kẻ thù.  Thuyết tự do mới không phải chỉ là một lý thuyết kinh tế, mà là chiến tranh giai cấp và sự vận dụng nó chỉ làm tăng thêm các cuộc xung đột.

 

      - Sự tăng trưởng của thuyết tự do mới:  Giới theo thuyết tự do mới công nhận là những chương trình sửa đổi cơ cấu có thể, trong ngắn hạn, đưa tới sự bất bình đẳng và giảm quyền lợi của giới lao động. Nhưng trong dài hạn, những thành kiến về giai cấp không quan trọng, kinh tế sẽ phát triển và ai cũng sẽ được hưởng lộc. Người ta gọi đó là "trickle-down economics" hoặc "économies des retombées" mà chúng ta có thể dịch là hưởng của rơi vãi. Diễn viên hài kịch Bill Maher thích dùng danh từ sống sượng hơn là "pissing-down economics ". Dân giàu đứng trên vai trên cổ người nghèo để đái xuống.

Thuyết tự do mới chi phối hai thập niên 80-90, sau 2 thập niên theo thuyết của J.M. Keynes. Sự tăng trưởng kinh tế tại những khu vực nghèo nhất thế giới bị xuống cấp bất thần trong hai thập niên đó. Giới tự do mới hài lòng và chứng minh là nền thương mại quốc tế mang lợi ích cho sự tăng trưởng. Nhưng họ không chứng minh được sự  quan hệ qua lại giữa tỷ xuất thuế quan và tỷ xuất tăng trưởng. Một quốc gia dĩ nhiên tha thiết hội nhập vào thị trường thế giới, nhưng quốc gia đó sẽ gặp nhiều nguy hiểm nếu chỉ vào để mở thị trường quốc gia cho sự cạnh tranh của ngoại quốc

Joseph Stiglitz, giải thưởng Nobel về kinh tế, trong cuốn sách La Grande Désillusion của ông, đã tấn công tổng quát thuyết tự do mới, viện lý là phần lớn các chương trình của Ngân hàng thế giới, trong cuộc khủng hoảng tài chánh tại châu Á năm 1998, đã chỉ làm tăng thêm khủng hoảng. Việc buộc các chánh phủ phải áp dụng chính sách thuế má khắc khổ (austérité fiscale) trong tình trạng kinh tế suy thoái đã chỉ làm cho tình trạng xấu hơn vì cung cầu bị chậm lại, đưa tới bất ổn xã hội. Trong năm 1998, chính phủ Nam Dương, hủy bỏ trợ cấp thực phẩm, theo lệnh của FMI, tức khắc gặp phải những cuộc nổi dậy của dân đói. Tỷ xuất lãi cao, do FMI quyết định, cũng làm cho nhiều xí nghiệp bị phá sản, tuy có sinh lợi. Theo lý thuyết thì không có gì đáng lên án việc tư hữu hoá các xí nghiệp, nhưng nhà nước phải có khả năng quy định và giới hạn tình trạng độc quyền hậu quả của chương trình trên. Phần lớn các nước đang phát triển không có được một loại chánh phủ như vậy, vì vậy tư hữu hoá làm nẩy nở một loại tư bản "ăn cắp" như tư bản Nga.

Lịch sử đã cho một luận chứng quyết định. Ở thời buổi mới, ngoại trừ nước Anh ở thế kỷ 18, không một nước nào thúc đẩy nổi sự tăng trưởng kinh tế thực sự qua những biện pháp như biện pháp tự do mới hiện nay. Tất cả đều trợ cấp cho nền kỹ nghệ phôi thai và xuất khẩu, quy định thuế nhập khẩu và đặt cơ chế hành chánh để điều hoà vấn đề đàm phán và bảo vệ xã hội.  Chỉ sau đó mới bắt đầu đi vào quá trình tự do hoá. Sơ đồ này được chứng minh qua sự phát triển của Mỹ và Đức vào cuối thế kỷ 19, cũng như sự trỗi dậy của Nhật và các con rồng Đông Á trong những năm 50-60. Alice Amsden nhận thấy là kỹ thuật "chủ nghĩa nhà nước" về phát triển, được áp dụng ở Nhật và Đông Á, lan rộng đến các nước được coi là mẫu mực của thành công như Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Dương, Mã Lai, Đài Loan, Thái Lan, Brésil, Chili, Mexique và Thổ Nhĩ Kỳ. Các nước này đã trợ cấp cho công nghệ tiền tiến và xuất khẩu sản phẩm chế tạo với các hợp thành sản xuất tại địa phương, đầu tư vào công trình nghiên cứu và phát triển.

Những chỉ trích gần đây chống thuyết tự do mới của FMI và Ngân hàng thế giới đã đem lại kết quả. Thời gian trước, sự phân xử của Ngân hàng thế giới không đếm xỉa gì đến chánh quyền các nước ngoài việc lên án, nay thì họ chịu công nhận là một chánh quyền hữu hiệu mang lại tăng trưởng.

 

      - Thuyết tự do mới và chủ quyền quốc gia:  Những cải tổ tự do mới là nguồn gốc của sự khuấy động chính trị và bài Mỹ. Dĩ nhiên không thuộc giới giàu có, nhưng người dân thường cảm thấy những đường lối đó là bộ phận khăng khít của một đế quốc kinh tế toàn cầu, trong đó kẻ giàu bóc lột quần chúng và Mỹ bóc lột phần còn lại của thế giới. Các chánh quyền của các nước ở phía Nam bán cầu có nhiệm vụ đáp ứng sự biểu lộ cảm tính trên. Là một quốc gia có chủ quyền như những nước khác, chính họ phải thực thi đường lối kinh tế của họ chứ không phải là đường lối do nước Mỹ hoạch định. Họ có những ưu tiên chính trị của chính họ.

Ngay một nước mắc nợ cũng không thể thực hiện những cải tổ do Mỹ áp đặt. Về mặt kinh tế toàn cầu, chánh quyền Mỹ chỉ đóng vai trò của một anh lăng săng, quấy rối người xà ích - nhà nước chủ quyền - nhiều lúc lại roi vọt để nhắc nhở họ trở lại trật tự. Nhưng không phải Mỹ là người cầm cương. Làm người xà ích tức giận, Mỹ chỉ làm tăng thêm khả năng tai nạn.

Á Căn Đình, trong thời gian kinh tế tăng trưởng, đã để đồng peso theo hối suất của đồng đô la, làm mất đi chủ quyền tài chánh. Như vậy đã chấp nhận đồng peso mà tỷ suất hối đoái do Mỹ quyết định, không liên quan tý gì đến những điều kiện kinh tế của Á Căn Đình. Cuộc khủng hoảng về tiền tệ ở châu Á năm 1998 đã tạo ra những vấn đề nghiêm trọng. Sản phẩm xuất khẩu Á Căn Đình trở nên quá đắt. Xuất khẩu xuống thấp làm giảm thu nhập ngoại tệ để trả nợ (bằng đô la). Chánh phủ không đủ tiền cần thiết để giữ thăng bằng ngân sách.

Cuối năm 2001, chánh phủ Eduard Duhalde đứng trước tình trạng, một mặt bị FMI đòi hỏi phải triệt để giảm chi phí công cộng để đổi lấy viện trợ 15 tỷ đô la, mặt khác, là những cuộc biểu tình vĩ đại chống mọi biện pháp giảm ngân sách. Á Căn Đình chống lại, không giảm ngân sách và tiếp tục vay cộng đồng quốc tế với lãi xuất rất cao, lấy lại quyền tự chủ tài chánh, phá giá đồng peso, ra khỏi liên hệ với đô la, hạ giá hàng xuất cảng, tái lập được thu nhập ngoại tệ. 

Bỏ ngoài tai khuyến cáo của FMI là phải giảm chi tiêu công cộng 60%, trước tháng hai năm 2003. Duhalde cho biết làm như vậy sẽ phải sa thải bốn trăm nghìn nhân công và nạn thất nghiệp hiện thời 20% sẽ tăng vượt mức tới 25%. Các cuộc biểu tình phản đối chánh phủ, FMI và các ngân hàng ngoại quốc rơi vào bạo lực với hơn trăm người thiệt mạng. Chánh phủ của Duhalde nhất định không lay chuyển trước những yêu sách của FMI, và đến cuối năm 2003 thì nền kinh tế bắt đầu phục hồi trở lại.  Sau đó, phong trào tả khuynh ôn hoà lan truyền khắp các nước Mỹ la tinh. Nestor Kirchner, thuộc đảng peroniste trúng cử tổng thống.  Ở Brésil, Venezula, Equateur, Bolivie phong trào tả khuynh nắm được chánh quyền. Những tuyên bố và diễn văn của họ đều nêu lên rõ ràng là thuyết tự do mới do Mỹ đề ra là không sử dụng được. 

 

      - Hiểm hoạ quan trọng tới đâu? : Được nuôi dưỡng bởi hệ thống tài chánh quốc tế, bộ máy sản xuất của Mỹ hãy còn phi thường. Nhưng Mỹ không khác gì con ruồi lăng săng quanh chiếc xe, vì bất lực trong việc kiểm soát trực tiếp các nền kinh tế hay đầu tư của ngoại quốc. Mỹ rất ít quyền hạn trên những nền kinh tế của các nước ở Bắc cầu và các nước lớn như Nga, Trung Quốc hay Ấn Độ. Đối với các nước ở Nam cầu, những chương trình sửa đổi cấu trúc và các hiệp định thương mại có ít nhiều áp lực, ảnh hưởng đến những nền kinh tế, nhưng thực sự không hướng dẫn được. Cũng có lúc, thỉnh thoảng con ruồi cầm được cương xe. African Growth and opportunity Act, hay là luật về tăng trưởng và khả năng kinh tế ở Phi châu năm 2000, có một điều khoản cấm các nước Phi châu đã ký hiệp định, không được chống đối đường lối ngoại giao của Mỹ. Mỹ đã dựa vào điều khoản trên để có được sự ủng hộ cuộc xâm lăng Irak của mình. Đại sứ đảo Maurice bị cách chức vì không chịu ký.  Phần lớn các nước thường theo chỉ thị của Mỹ. Nhưng lần này, họ giữ vững lập trường, chống lại việc xâm lăng Irak. Tháng hai và tháng ba năm 2003, Mỹ đem tất cả những lý lẽ về kinh tế, lần lượt sử dụng kế hoạch củ cà-rốt và cây gậy, để kéo một số đông các nước trong Hội đồng bảo an về phe mình. Nhưng thất bại. Chili, Mexique, Pakistan, Guìnée, Angola và Cameroun đã không ký ủng hộ việc tấn công Irak.

Những chương trình giúp đỡ phát triển không đáng kể và phụ thuộc vào mục tiêu quân sự chiến lược. Thuyết tự do mới không đem lại tăng trưởng cho những khu vực bị thua thiệt trên trái đất. Nó chứng tỏ tính thiên vị của Mỹ với các nước thuộc Bắc cầu và những giai cấp giàu có trên thế giới. Còn đi theo con đường này, nước Mỹ sẽ làm nảy nở một sự đe dọa quan trọng. Nếu Mỹ tiếp tục bảo vệ các nước giàu và dựa vào các bạo chúa đồng minh thì Mỹ sẽ gặp sự chống đối trên khắp hoàn cầu. Không phải sự nghèo khó đưa đến khủng bố mà là sự áp bức. Nghèo khó là đất ươm của ức hiếp, của lý tưởng chống áp bức và sự ủng hộ của quần chúng cho khủng bố.  

 

III - TÂM THẦN PHÂN LẬP VỀ CHÍNH TRỊ

Trên các đổ nát của đế quốc đã sản sinh thời đại của Quốc gia-dân tộc, với lý tưởng riêng của nó là chủ nghĩa quốc gia. Hiện thời có chín mươi nước tuyên bố là "Quốc gia-dân tộc ", nói cách khác là các nhà nước, nhân danh quốc gia hay dân tộc, đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ. Nhưng không phải tất cả đều có chủ quyền thực sự - bằng chứng là những nước như Afghanistan, Colombie hay Somalie. Tuy nhiên, trong một thế giới Quốc gia-Dân tộc, những nước này có thể áp dụng quyền lực tối cao một cách hợp pháp trong lãnh thổ của họ. Hiến chương LHQ bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ một nước thành viên. Như chúng ta đã thấy, không một nước nào có khả năng thách thức đế quốc Mỹ. Nhưng ngược lại, đế quốc cũng phải khắc phục được cả một thế giới Quốc gia-Dân tộc có chủ quyền. Sự tranh chấp này của các quốc gia có thể diễn tiến tập thể dưới hình thức một cuộc đề kháng địa dư chính trị nhiều thành phần. Cũng có thể xẩy ra trong nội bộ mỗi một quốc gia mà Mỹ muốn can dự vào. Chính tình trạng lưỡng hợp (nhi nguyên) là nguồn gốc của sự tâm thần phân lập chính trị của Mỹ. Sự gò bó chính trị kèm theo hai gò bó tư tưởng, chủ nghĩa quốc gia và chống đế quốc.

      - Đường lối địa dư chính trị đa phương: Thuyết đa phương dựa trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các nước. Hàng ngàn hiệp ước song phương đòi hỏi tính hỗ tương và bình đẳng giữa các bên ký kết. Hội đồng LHQ vì vậy tượng trưng cho nguyên tắc "một nước, một lá phiêu" Nhưng trong thế giới đa phương này, không phải nước nào cũng bình đẳng như nhau. Các cường quốc hạn chế chủ quyền của các nước nhỏ. Hội đồng bảo an LHQ duy trì một cách lạ lùng sự bất bình đẳng về quyền hạn được thiết lập từ cuối những năm 40: Hội đồng gồm năm thành viên thường trực (Mỹ, Liên Xô, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp) có quyền phủ quyết, và mười thành viên không thường trực, luân phiên được chọn nhưng không có quyền phủ quyết. Thật ra, bộ máy HDBA do hai đại cường quốc, và sau này chỉ còn một, nắm quyền điều khiển. Trong thực tế, LHQ biểu quyết những nghị quyết, việc trừng phạt và can thiệp quân sự mà Mỹ có toàn quyền điều khiển. Chính Mỹ chọn Tổng thư ký LHQ, như việc buộc Boutros Boutros-Ghali từ chức và chọn Kofi Annan, ít tầm cỡ hơn, thay thế.

Mỹ đã dùng quyền phủ quyết nhiều hơn tất cả mọi nước thành viên trong HDBA. Dù là chống hay ủng hộ việc sử dụng vũ lực, Mỹ luôn luôn thắng lợi, ít ra là cho tới năm 2003. Để đạt được mục tiêu, Mỹ nhiều lần phải dùng đến hăm doạ và mua chuộc, nhưng gần như lần nào cũng đi tới kết quả. Từ sau ngày Liên Xô sụp đổ cho tới 2002, không một nước nào dám đồng minh với một nước khác để thành một liên minh chống lại ý muốn của Mỹ. Martin Shaw nhấn mạnh là Mỹ trở thành trái tim của cái gọi là "Một quốc gia tây phương". Nhờ ở các đồng minh, Mỹ thống trị toàn thể LHQ, đến mức khối Mỹ - tây phương chớm nở thành  một "quốc gia toàn cầu".  Như vậy, Mỹ đã biểu lộ, không dè dặt, tính cách đế quốc không chính thức, ở một hệ thống được coi là đa phương giữa các nước có chủ quyền. Hệ thống  quốc gia-dân tộc không có gì đáng để ngăn cản sức mạnh của Mỹ. Điểm này có lý do là Mỹ, chứ không phải LHQ, đảm bảo cho an ninh một phần lớn trên thế giới. Chính sách đa phương quốc tế, dưới đường lối địa dư chính trị "cứng "(hard), thường chỉ che dấu tính cách bá quyền của Mỹ.

Nếu như vậy là chính sách đa phương thì cần gì Mỹ sử dụng đến đường lối đơn phương?  Một cuộc can thiệp không có sự bảo lãnh của LHQ có thể phải trả một giá rất đắt, về phương diện quân sự, kinh tế và hệ tư tưởng. Một sự ủy nhiệm của LHQ cho phép sử dụng không điều kiện những căn cứ ngoại quốc và quân đội đồng minh, cung ứng tiền bạc cần thiết cho các cuộc hành quân và, trên hết, có được tính chất chính thống.  Mỹ không phải không biết điều đó. Thế mà, năm 2002-2003, trong thời gian có cuộc khủng hoảng về Irak, Mỹ lũng đoạn HDBA như chưa từng thấy trước đó. Đe dọa  và bỏ tiền mua các nước nhỏ, xúc phạm đồng minh nào hơi tỏ ra không đồng ý. Doạ nạt không hơn không kém từ bỏ thuyết đa phương và gây chiến chống Irak gần như một mình. Mỹ hình như tin tưởng là thái độ hăm doạ sẽ mang lại kết quả, nhưng đường lối ngoại giao của Mỹ, dao động giữa chánh sách đa phương và đơn phương, cho thấy bắt đầu có những dấu hiệu của tình trạng tâm thần phân lập.

Cuộc xâm lăng Ăng-lô  Xắc-xông vào Irak được tiến hành với độc nhất lực lương Mỹ, Anh và Úc cộng thêm năm mươi sáu lính Ba Lan. Thực tế đúng là một cuộc "xung đột giữa nền văn minh" Ăng- lô Xắc- xông với phần còn lại của thế giới. Sự thất bại này bắt nguồn từ sự căm thù càng ngày càng lớn khi Mỹ rút khỏi các hiệp ước quốc tế, và tìm cách hăm doạ hoặc mua chuộc các nước khác. Còn nguyên nhân khác nữa, sâu đậm hơn: Âu châu cảm thấy từ nay ít còn bị đe dọa, chiến tranh cũng không đe doạ châu Mỹ la - tinh. Thế giới thấy không cần đến đế quốc Mỹ, và càng không thấy cần thiết được phòng thủ chống một anh độc tài phường tuồng cầm quyền ở Irak.

Hoa Thịnh Đốn coi như một đe doạ chính, hai khu vực: Đông bắc Á châu và Trung Đông. Nhưng tại Trung Đông, đường lối chánh trị Mỹ càng ngày càng khác với đường lối của phần lớn các nước Âu châu và Nga, và rất ít được sự hưởng ứng trên thế giới. Trong khi đó, tại Đông bắc Á châu, Nhật, Nam Hàn và Nga càng ngày càng phản đối Mỹ. Nhà nước "tây phương" và nhà nước "toàn cầu" do Shaw miêu tả có bị tan rã do sức ép của chánh sách đơn phương Mỹ không?  Như Talcott Parsons nhấn mạnh là sức mạnh nguyên thô, ngược lại với quyền lực được ưng thuận, ngày càng mất giá.

      - Việc thay đổi chế độ:  Bây giờ chúng ta hay xét đến những cuộc tranh cãi xẩy ra ngay trong nội bộ các nước có chủ quyền. Một  trường hợp điển hình : Mỹ muốn "thay đổi chế độ", nói cách khác là muốn lật đổ một chánh quyền thù nghịch bằng một chánh quyền thân thiện. Trong thời chiến tranh lạnh, họ thường thành công trong loại mưu đồ này, nhất là tại châu Mỹ la-tinh, và rất ít khi phải dùng đến sự can thiệp quân sự trực tiếp. Trong lúc Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã có những thành công ngoạn mục: chỉ qua áp lực, Mỹ đã tranh thủ được mười lăm chế độ hậu cộng sản, tất cả đều càng ngày càng tỏ ra rất ân cần đối với Mỹ. Nhưng tới thập niên sau thì chì thấy toàn thất bại.  Mỹ xác định bẩy "Quốc gia côn đồ", tất cả đều nhỏ và yếu (có lẽ đặc biệt trừ Bắc Hàn). Mỹ đe dọa, thi hành cấm vận và có khi ném bom một vài nước này. Nhưng số nước côn đồ này vẫn đứng vững. 

Sau vụ 11 tháng 9, Mỹ bất thần leo thang chiến tranh, xâm lăng Afghanistan và thiết lập tại chỗ một chế độ thân hữu và sau đó là việc tấn công chiếm đóng Irak. Trong trường hợp thành công, thì Mỹ sẽ tiếp tục các cuộc can thiệp khác. Iran và Syrie bị đe doạ ngay trước khi chiến thắng được đảm bảo ở Irak. Mong muốn thiết lập được một quốc gia dân tộc có chủ quyền thân hữu, thì hỏi Mỹ có đủ phương tiện không ? Gỉa thuyết tối thiểu theo thể thức của Michael Ignatieff, là "kiến thiết lại quốc gia". Cụ thể là một cuộc chiếm đóng ngắn hạn của Mỹ, tổ chức và huấn luyện một lực lượng cảnh sát và một quân đội địa phương, tái thiết một số hạ tầng cơ sở, trao trả quyền hành cho một lãnh đạo tay sai, rồi rút đi vĩnh viễn. Những biện pháp này bao hàm một số điều kiện là quốc gia này đã có một mức độ nào đó về xã hội - chính trị, là chế độ cũ đã mất nhân tâm, chế độ mới được quần chúng chấp nhận... Nhưng rất hiếm là tất cả những điều kiện đó được hội tụ. Trong trường hợp này, như ở Afghanistan, Mỹ và chánh quyền mới bó buộc phải cai trị, không phải theo quá trình "kiến thiết lại quốc gia", mà theo châm ngôn "chia để trị", ít ra trên phương diện sắc tộc. Chủ trương "kiến thiết lại quốc gia" thật ra che dấu một chánh sách tàn nhẫn: vấn đề là trừ tiệt địch thủ trước khi rút khỏi địa phương, chứ không phải là làm nẩy nở một quốc gia có chủ quyền như đã hứa.  Hành động can thiệp điển hình này của Mỹ không đóng góp gì cho việc thiết lập trật tự thế giới. Trái lại, nó chỉ làm tăng thêm tình trạng vô trật tự.

Ở thái cực khác, thì có giả thuyết thiết lập một đế quốc chiếm đóng thường trực. Những mưu toan tương tự trước đây là một Đế quốc ngàn năm của Đức, một Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật và khối Liên Xô, không làm cho mọi người yên tâm lắm. Những nhân vật đế quốc mới đảm bảo Mỹ là một đế quốc khoan dung, nhưng quốc xã Đức, quân phiệt Nhật và cộng sản Liên Xô cũng nói vậy. Phần đông người Mỹ khẳng định không muốn có đế quốc chiếm đóng. Nhưng trước đó, Anh, Pháp, Bỉ cũng khẳng định như vậy: khởi đầu, họ chỉ muốn buôn bán thôi. Nhưng ở nhiều nơi, viễn tượng có thể đặt được thuộc địa hay khai thác tài nguyên đã đẩy họ tiến xa hơn nữa. Mỹ có sao lại chánh sách của tư tưởng đế quốc không? Chẳng hạn dạy dỗ quần chúng học tiếng Anh, theo Thiên chúa giáo; giáo dục con em thuộc thành phần tinh hoa của xã hội địa phương; hoặc phối hơp cai trị giữa người Mỹ với người bản xứ. Những điều này đã được thực hiện ở Phi Luật Tân, nhưng cuộc thí nghiệm đã kết thúc năm 1941. Mỹ cũng đã bắt đầu thi hành ở Việt Nam trước đây, nhưng đã thất bại.  Tôi tin là sẽ không bao giờ có một "đế quốc chiếm đóng" Mỹ.

 

Một bài bản thực tế hơn cho đế quốc Mỹ là : chiếm đóng một địa phương với lực lượng quan trọng nhưng tạm thời, để đảm bảo sự trung thành và chủ quyền của một nước khách hàng. Sau Đệ nhị thế chiến, chiến lược chính trị của Mỹ đối với Đức, Nhật là đổ hết trách nhiệm trong quá khứ cho giới quân phiệt và phát xít, chiếm đóng tạm thời, đổ tiền vào cho chế độ mới để tái thiết nền kinh tế, cải tổ lãnh vực lao động để giải quyết các cuộc tranh chấp xã hội mà trong quá khứ đã là nguyên nhân đưa phát xít và quân phiệt lên cầm quyền. Sự thành công rực rỡ này dựa vào mong muốn hoà bình của dân chúng hai nước này sau những thiệt hại về chiến tranh. Hơn nữa, Đức và Nhật có được sự thuần nhất về sắc tộc nên có thể đề nghị những giải pháp cho các cuộc tranh chấp xã hội. Mọi thay đổi chế độ đòi hỏi những biện pháp tương tự để giải quyết các tranh chấp nội bộ của Nhà nước-dân tộc hiện nay. Nhưng những tranh chấp ở thời buổi này chủ yếu là sắc tộc và tôn giáo.

Trong trường hợp các nước yếu kém hơn thì, ngược lại, một chiến thắng nhanh chóng lại gây ra nhiều vấn đề. Cái chắc chắn là Mỹ đè bẹp nhanh chóng lực lượng quân sự của bất cứ nước côn đồ nào. Nhưng lúc đó thì lực lượng địch bị tản mát đến mức khu vực chiếm đóng chỗ nào cũng đầy người vũ trang và trở nên khó bình định. Chiến thắng chỉ có được khi dân chúng địa phương sẵn sàng chấp nhận mọi thứ để có hoà bình, và những điều kiện đã đưa các lãnh tụ côn đồ lên nắm quyền đã thay đổi. Sự tàn bạo đẫm máu của chánh quyền Sadam Hussein không phải chỉ có nguyên nhân là ý thích thất thường của ông ta. Vấn đề nằm ở chỗ Irak là một nước mà sự thống nhất không phải dễ gì giữ được. Người ta không thể chỉ đơn giản lật đổ Sadam Hussein là có thể tái lập được trật tự ở Irak.

 

Cuối cùng, người ta lại phải trở lại sự cần thiết có một chế độ trung thành làm chủ đất nước. Đây là trường hợp các giới tinh hoa của Nhật và Đức. Thật ra thì phần lớn các đế quốc đều cai trị một cách gián tiếp, qua trung gian của giới trí thức địa phương. Giới trí thức địa phương, bị gạt ra khỏi quyền bính, thường cũng nổi loạn. Phản ứng của đế quốc là đàn áp, đồng thời chia để trị. Thường thì những sự bất mãn này chỉ có tính cách địa phương. Chủ nghĩa quốc gia ở đệ tam thế giới dựa trên những tư tưởng tự do, xã hội hay phát xít đến từ Tây phương, chỉ bắt đầu nuôi dưỡng những cuộc nổi loạn rộng lớn hơn trong thế kỷ XX. Nhưng nó đã làm tan vỡ các đế quốc, báo trước một hoàn cảnh không tốt đẹp gì cho đế quốc Mỹ. Hơn nữa, trong thời buổi Quốc gia-Dân tộc, chủ nghĩa đế quốc từ đây trở đi bị giới hạn bởi lý tưởng nổi trội là chủ nghĩa quốc gia. Người nào giúp đỡ Mỹ sau khi đất nước bị xâm chiếm đều bị kết tội là phản quốc. Vì vậy, khó tìm được những chế độ tay sai, nhất là ở những nước dân chủ. Trong số những nước tay sai gần đây của Mỹ, phần nhỏ không phải là những chế độ dân chủ, vì, như người dân bác bỏ chủ nghĩa đế quốc, chánh quyền muốn ủng hộ Mỹ phải dựa trên chánh sách đàn áp. Tại Irak, một nước tân tiến hơn Afghanistan, cuộc xâm lăng đem lại hai đe doạ trái ngược nhau: một mặt, tăng thêm xung đột tôn giáo và mặt khác làm chủ nghĩa quốc gia thêm cường độ trong nhiệm vụ bảo vệ Irak. Thay đổi chế độ bằng những cuộc ném bom khó khăn hơn như  đế quốc mới tin tưởng.

      - Những quốc gia đàn em (bội bạc):  Chúng ta hãy tập trung cái nhìn vào miền Trung Đông, bởi vì tại đây là nơi mà Mỹ rất cần có các nước đàn em trung thành. Nhưng tiếc thay, văn hoá khu vực này rất xa với Tây phương, không như các đồng minh châu Âu gần về văn hoá, hoặc cảm thấy bị đe doạ như trước đây Đức đối với Liên Xô và Nhật đối với Trung Quốc. Trừ vài nước cảm thấy bị đe doạ bởi những nước mà Mỹ coi như kẻ địch. Phần lớn, chiến cuộc ở trong vùng đều xẩy ra giữa các đồng minh của Mỹ, như Israël và những nước Ả Rập, hoặc giữa các nước cùng văn hoá nhưng thù nghịch nhau như Iran và Irak.

 

Sự sống còn của Israël nay không còn phụ vào sự ủng hộ của Mỹ, vì hiện nay, Israël là một lực lượng quân sự lớn mạnh nhất trong vùng. Tuy vậy, nước này vẫn cần  phải  trung thành với Mỹ, tuy rằng Israël là một nhà nước-dân tộc chủ quyền, mà tinh thần đồng nhất tập thể dựa trên cơ sở dân tộc, và càng ngày càng mang tính tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước Do Thái lập nghiệp vững chắc ở vùng đất tranh chấp thì mục tiêu chính của Mỹ đáng lẽ phải tìm cách lo cho được một giải pháp hoà bình, cho cuộc xung đột Do Thái - Palestine. Vì vậy, trong thập niên 90, các tổng thống Mỹ đã dành nhiều thời giờ cho vấn đề này. Không thể nói là Mỹ không phải không có thiên vị, nhưng cũng đã hành động như một trung gian đứng đắn trong những cuộc đàm phán thực sự. Nhưng hiện tại, chánh quyền Bush đã không theo xu hướng này nữa. Trong hai năm cuối đây, Sharon chứng tỏ không phải đơn thuần là một khách hàng của Mỹ. Yên trí được sự ủng hộ của Mỹ, ông ta cảm thấy có quyền theo duổi mục tiêu của Do Thái như ông ta nhận thức mà không kể đến quyền lợi chính trị của Mỹ. Các người lãnh đạo Do Thái khác, thừa dịp chiến tranh chống khủng bố của Mỹ, tuyên bố cuộc chiến này cũng là cuộc chiến của Do Thái. Họ đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sự Mỹ lẫn lộn giữa hành động khủng bố địa phương như (Hamas) và hành động khủng bố quốc tế (Al-Qaida).  Sharon đã nhanh chóng lấy được sự tin cẩn và tình thân hữu của Bush nhờ ở thái độ không nhân nhượng đối với khủng bố. Vì Bush không nắm được khái niệm về "hành động khủng bố ở cấp quốc gia " -đặc biệt trong trường hợp một nước tự cho là dân chủ như Israël- nên ông ta không thấy được là Sharon và Arafat cùng có trách nhiệm trong sự lên thang của bạo lực và khủng bố.  Sharon đã lợi dụng điểm đó, nên luôn luôn chỉ định Arafat là kẻ xúi giục chính của khủng bố. Tháng hai năm 2002, hắn công khai tuyên bố là tiếc đã để mất cơ hội giết Arafat ở Liban trong những năm 80 : "Tôi tiếc là đã không thủ tiêu hắn". Tháng sau, lại tuyên bố "Ngày nào mà tụi Palestinien chưa bị đánh thua, thì không có điều đình. Mục tiêu là làm tăng thêm tổn thất của phía bên kia. Chỉ khi nào tụi đó bị đánh nhừ tử thì lúc đó chúng ta mới có thể bắt đầu đàm phán". Dân quá khích Palestiniens lập tức bước vào cuộc thách thức. Hai bên thù địch bị lôi kéo vào mối hoạ chết chóc.  Ngày 16 tháng Tư, Colin Powell sang Israël  thử điều đình với hai bên thù nghịch, nhưng bất thần được chỉ thị không được tuyên bố gì về chính trị và phải trở về Mỹ lập tức. Ông ta giận điên người vì nhục nhã và uy tín bị phá hoại, nhưng cũng phải về. Chánh quyền Bush trở lại đường lối thân Do Thái. Tới tháng sáu, Bush còn đi tới đòi hỏi người Palestine phải 'thay đổi chế độ': "nền hoà bình cần có một lãnh đạo palestine mới và khác trước, để có thể tiến tới thành lập một quốc gia palestine. Hiện nay, lãnh đạo palestine khuyến khích khủng bố thay vì khắc phục. Điều này không thể chấp nhận được. Nước Mỹ không ủng hộ thành lập một quốc gia palestine ngày nào mà giới lãnh đạo không đầu tư vào cuộc đấu tranh chống khủng bố và triệt hạ hạ tầng cơ sở của khủng bố."

Tháng 12 năm 2002, khi nhận phần thưởng Nobel Hoà Bình, cựu tổng thống Jimmy Carter tuyên bố : "Cho tới khi tổng thống Bush lên cầm quyền, tất cả các tổng thống trước đó, dù là dân chủ hay cộng hoà, theo tôi nghĩ, đã đóng một vai trò của một người trung gian đáng tin cậy nhằm ổn định vùng Trung Đông. Hiện thời, hiển nhiên là chánh quyền hiện tại ở Washington hoàn toàn nhất trí với chánh quyền Israël và không kể gì đến Nhà cầm quyền palestine." Điều phi lý và lệch lạc đó vẫn tiếp diễn. Khu vực này có thể có tính cách chiến lược, nhưng không phải là Israël. Nước này không có dầu hỏa, chuốc lấy sự chống đối của các nước sản xuất dầu hỏa và làm tất cả khu vực trở nên bất ổn định. Sự quan tâm của Mỹ đối với Israël không phải là một tình cảm trắc ẩn của Mỹ đối với nỗi đau khổ mà dân Do Thái đã gánh chịu, cũng không phải là cảm tình đối với một nước dân chủ đương đầu với các nước quyền uy mạnh hơn, bởi vì Mỹ đã gần như không viện trợ gì cho Israël khi nước này bị đe doạ nhất. Chín mươi chín phần trăm viện trợ Mỹ chỉ được cấp sau khi Israël đã thắng trận năm 1967.  Viện trợ càng tăng sau mỗi cuộc chiến thắng của Do Thái và địch thủ bị yếu đi hay giảm bớt sự chống đối.

Hiển nhiên, trong thời gian chiến tranh lạnh, Israël là một đồng minh hiếm hoi của Mỹ ở Trung Đông. Và đảm đương những nhiệm vụ bí mật của Mỹ trong chiến tranh lạnh cho tới vụ bán vũ khí Iran-Contra. Tuy nhiên, đó là một sự đền bù không tương xứng với số viện trợ to lớn như vậy.  Mỹ bất lực trong khả năng kiểm soát Israël là điều hoàn toàn phi lý. Như thế, Mỹ thấy mục tiêu chính ở trong khu vực là giải quyết cuộc xung đột Israël-palestine càng ngày càng xa. Sự bất lực để chỉ đạo Do Thái của Mỹ chỉ làm dân chúng palestine và phía ngoài là tất cả dân Ả - Rập, càng trở nên quyết liệt hơn. Vì dân palestine hãy còn quá yếu để có thể tấn công quân đội Israël, nên một số tiếp tục dùng chính sách khủng bố. Và để trả dũa, Do Thái xử dụng chiến thuật khủng bố ở cấp quốc gia. Tổn thất của thường dân càng ngày càng tăng.

 

Bây giờ, hay xét đến một đàn em khác của Mỹ là Nhà cầm quyền palestine. Viện trợ của Mỹ cho tổ chức này rất ít so với viện trợ cho Do Thái.  Tuy thế áp lực của Mỹ lên nhà cầm quyền palestine rất lớn, nhiều lúc còn đe doạ ngừng viện trợ. Hoa Thịnh Đốn không ngừng thúc đẩy nhà cầm quyền palestine phải từ bỏ mọi sự giúp đỡ khủng bố. Đó là sự tự sát nếu họ nghe theo lệnh Hoa Thịnh Đốn. Vì vậy, cường quốc Mỹ đòi hỏi phải thay đổi chế độ, điều mà nhà cầm quyền palestine cũng không thể nghe theo.  Cũng như Do Thái, dân palestine cũng bị chi phối bởi chủ nghĩa quốc gia. Ngược lại với Do thái, palestine yếu kém, còn xa mới thành lập được một quốc gia có chủ quyền. Nhưng không vì thế mà Mỹ có thể chọn người lãnh đạo thay cho dân palestine. Ở thời buổi của chủ nghĩa quốc gia, sự chọn lựa của đế quốc cũng bị giới hạn.  Còn Arabie Saoudite, một nước khách hàng thứ ba của Mỹ, không hưởng một sự nâng đỡ của một nhóm áp lực nào thì sao?  Trong những năm 90, Mỹ đã bán cho Arabie Saoudite 40 tỷ USD vũ khí tối tân và đóng hơn 5.000 quân tại chỗ để bảo vệ những dàn hoả tiễn patriot, bảo vệ đất nước này. Đúng ra là Mỹ đã đi vào chiến cuộc để bảo vệ Arabie chống Sadam Hussein.  Đáng lý ra, Arabie phải là một đàn em trung thành. Thật sự thì chế độ saoudien là một trợ giúp lớn liên quan đến dầu hỏa, ổn định giá cả trong giới hạn chỉ định bởi các-ten OPEP.  Nhưng, bất chấp ý muốn của Mỹ, chánh quyền saoudien đã mua của Trung Quốc các hoả tiễn có tầm xa và tiến xa đến chỗ mua chất liệu nguyên tử để trang bị hoả tiễn. Chánh quyền này cũng còn tài trợ cho các tổ chức hồi giáo và djihadiste, mà Mỹ coi như là một mối đe dọa lớn cho khu vực. Saoudien trợ giúp tài chánh cho nhà thờ Hồi giáo và các trường đào tạo Hồi giáo quá khích.

 

Theo một vài nhà quan sát, Mỹ mang nỗ lực ra để xâm chiếm dầu hỏa Irak cũng chỉ nhằm mưu toan thoát khỏi tình trạng phụ thuộc vào dầu hỏa của Arabie Saoudite. Nếu như vậy thì rút cục chỉ đổi một khách hàng khó khăn để có một khách hàng khó khăn hơn. Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi lớn của thế giới. Các nước đàn em ít đáng tin cậy hơn bao giờ hết. Trong vài nước thì hỗn loạn, vài nước khác thì hoàn toàn bị phá sản. Thế nhưng, nước Mỹ không nên đánh giá quá cao khả năng áp dụng anh hưởng của mình. Vấn đề can thiệp vào các quốc gia-dân tộc,  Mỹ chỉ là một anh lùn trên phương diện chính trị. Sức mạnh chính trị của Mỹ cho thấy bản chất tinh thần phân lập (nature schizophrène): về chính trị quốc tế là một lực lượng quan trọng, nhưng lại lưỡng lự giữa chính sách đa phương và chính sách đơn phương; và khi cần phải can thiệp vào nội bộ của một quốc gia thì lại trở nên yếu kém. Trước một thế giới của quốc gia-dân tộc, Mỹ không có được quyền chính trị của đế quốc. Thời đại của đế quốc đã chấm dứt.

 

IV - ẢO VỌNG VỀ HỆ TƯ TƯỞNG

Cũng như tất cả các đế quốc khác, đế quốc Mỹ tin là đã nắm được sự thật. Các chính trị gia tuyên bố những lý tưởng về tự do, dân chủ và nhân quyền cho khắp thế giới, và họ cũng hứa hẹn đem lại một đời sống sung túc hơn. Họ làm rùm beng lên là đã thực hiện được "mộng ước của dân Mỹ" trên đất Mỹ, và nay sẽ mang ra khắp hoàn cầu. Collin Powell biểu lộ sự tự phụ trên diễn đàn LHQ và khuyến cáo tổ chức quốc tế này hãy nên nghe lời Mỹ, một nước dân chủ lâu đời nhất trên thế giới. Nhưng ông ta muốn nền dân chủ Mỹ bắt đầu từ thời điểm nào?  Phải chăng là những năm 1780, khi chỉ những người chủ điền gia trắng có quyền bỏ phiếu, những dân da đỏ bị diệt chủng và dân da đen như ông ta là nô lệ?  Hay trong những năm 50, khi dân da đen vẫn không được quyền đi bầu trong một vài nơi ở đất Mỹ?  Nền dân chủ Mỹ hiện nay hầu như không lấy gì là lành mạnh lắm. Phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền hình, nguồn gốc thông tin chính, thường tỏ ra tôn kính đối với nhà cầm quyền trong vấn đề ngoại giao.  Khi chiến tranh Irak xẩy ra, đài truyền hình và vô tuyến chỉ trình bày độc một quan điểm của Ngũ-giác-đài. Đây là một hình thức "quân sự cho khán giả" : khán giả xem để khuyến khích đồng đội của mình, không bao giờ phải đụng chạm với sự nguy hiểm và những cảnh ghê rợn của chiến tranh. Đài truyền hình chỉ đưa lên màn ảnh những trận đánh giả, bình luận bởi một số sỹ quan hồi hưu, bỏ qua những vấn đề rộng lớn mà cuộc chiến tạo nên. Phần lớn độc giả báo chí và thính giả Mỹ chỉ nhận được những thông tin có dụng ý của 150 tờ báo và nhiều đài truyền hình thuộc nhà tài phiệt Rupert Murdoch. Ở Mỹ, đài Fox News Chanel của ông ta tỏ ra đặc biệt thiên quân phiệt. Emmanuel Todd nhấn mạnh là đường lối của Mỹ đi ngược lại một cách trắng trợn tính chất phổ cập của các giá trị được coi là điều kiện chủ yếu của các đế quốc. Đối với ông ta, nguyên nhân sự yếu kém tư tưởng này nằm ở sự khinh bỉ ngày càng tăng gần như phân biệt chủng tộc đối với người Ả-Rập, và trong sự thiếu hiểu biết về "nhân loại học" của các xã hội và văn hoá Hồi giáo.  Sự dốt nát đưa tới sợ hãi. Bốn mươi nhăm phần trăm người Mỹ tin rằng có những người có trí thông minh ở các hành tinh khác đã đến trái đất này. Vẫn một thông điệp sau ảo ảnh đó là dân Mỹ vô hại, yêu hoà bình sẽ bị tiêu diệt bởi những thành phần ngoại lai xâm lược. Bây giờ không phải là cộng sản nữa mà là dân khủng bố. Hiện tại, người Mỹ bớt đi du lịch rất nhiều. Mexique là nước láng giềng nhưng có rất ít du lịch Mỹ, vì họ coi như nơi nguy hiểm, mặc dầu tỷ lệ giết người ở Mỹ cao hơn rất nhiều so với Mexique.

 

Ông Bush có tài đặc biệt trau dồi căn bệnh hoang tưởng bị truy hại: bắt giữ hàng loạt người thuộc quốc tịch Trung Đông, tố cáo liên tục các "phần tử tội ác" ngoại quốc, kêu gọi cảnh giác thường xuyên chống khủng bố vi-rút bệnh đậu mùa (nhiều nhân viên y tế đã chết trong đợt hốt hoảng này, không vì bệnh mà vì tự uống thuốc ngừa bệnh), luôn luôn nhắc nhở rằng Irak, với dân số hai mươi ba triệu dân -nghèo nàn và thống khổ- một quân đội đói rách, là đe doạ sắp đến cho nước Mỹ!  Sau  hai mươi tháng, sau vụ 11 tháng 9, không một ai chết vì khủng bố. Dĩ nhiên, gần ba ngàn người đã chết trong vụ khủng bố nói trên là một điều kinh khủng. Nhưng tại Mỹ, trong cùng năm ấy, ba mươi ngàn người chết vì súng đạn, ba mươi tám ngàn chết vì tai nạn xe hơi, một trăm năm mươi ngàn chết vì ung thư phổi và hai trăm năm mươi ngàn nạn nhân bị hiếp dâm. Nước Mỹ là một nước yên ổn nhất trên thế giới, ngoại trừ dân Mỹ không được yên ổn bởi những người Mỹ khác.

Tuy vậy, mặt trận tư tưởng thứ hai còn quan trọng hơn, vì được điều hành ở ngoài nước Mỹ, nơi đế quốc đang thiết lập. Chẳng may cho nước Mỹ là trận chiến này không thực hiện được. Thật ra thì khoảng cách giữa truyền thông đại chúng Mỹ và ngoại quốc đạt tới  mức cực độ trong thời gian xâm lăng Irak. Truyền thông Mỹ, tránh không để dân Mỹ thấy cảnh ghê rợn của chiến tranh, đã chĩa mũi dùi vào nước Pháp. Một nước Pháp đồng minh từ lâu của Mỹ, có một nền văn hoá được kính trọng, bất thần được đưa ra như một kẻ thù, không khác gì Saddam Hussein. Thế nhưng, cũng như Pháp, phần lớn thế giới đã biểu lộ sự không tán đồng.

 

Sự thật là truyền thông đại chúng Mỹ đang trên đà mất dần sự nổi tiếng trên dư luận trên thế giới. Chủ tịch Walt Disney Television tuyên bố là "Thị trường thế giới về truyền hình đang lúc phát triển mạnh, nhưng chỗ đứng của truyền hình Mỹ thì thụt lùi". Đồng thời thị trường trên mạng của Mỹ, trong những năm 1990, tụt từ một nửa xuống một phần ba. Ngược lại, không chối cãi được là Mỹ được ưu thế, không chắc đúng, có một tôn giáo, đạo Tin Lành évangélique, phát triển rất nhanh trên thế giới. Theo nhiều cuộc thăm dò, toàn thế giới khâm phục khoa học và kỹ thuật của Mỹ, gắn bó với những giá trị phổ quát như dân chủ, tự do và nhân quyền, cảm thấy cảm tình với phương cách áp dụng của Mỹ đối với những giá trị này, nhưng bớt dùng sức mạnh. Thế giới yêu người Mỹ "hơn là yêu nước Mỹ". Người ta đặc biệt không chịu được đường lối chính trị của Mỹ đối với Israël và Irak.

 

      - Thách đố thứ nhất: chủ nghĩa sắc tộc-quốc gia (ethno-nationalisme):  Quốc gia-Dân tộc dựa trên chủ nghĩa quốc gia, hệ tư-tưởng thống trị hiện nay trên thế giới. Chẳng may là hệ tư tưởng quốc gia kéo theo cả một chuỗi dài các cuộc xung đột. Hệ thống quốc tế đạt được tới giải quyết phần lớn các cuộc đấu tranh giữa các nước, nhưng bất lực trước các tranh chấp nội bộ của họ. Trước hết, dựa trên kết quả nghiên cứu của tôi về vấn đề tinh chế sắc tộc (purification ethnique), thì những người yêu sách  một "chánh quyền do dân" và "quyền tự quyết dân tộc" đã lẫn lộn hai nghĩa của danh từ "dân tộc": demos ở chữ dân chủ (démocratie) và ethnos ở tính dân tộc (ethnicité). Vì vậy, khi Tổng thống Woodrow Wilson tuyên bố "quyền tự quyết dân tộc" phải là nguyên tắc trong những hiệp định hoà bình chấm dứt Đệ nhất thế chiến, ông ta muốn nói là mỗi nhóm sắc tộc phải được tự do có nền dân chủ độc lập của chính họ. Đây là một nguyên tắc phần nào nguy hiểm, nó trao cho nguyên tắc dân chủ một khía cạnh đen tối ở chỗ những đòi hỏi của một nhóm tộc người tuỳ ý sử dụng đất nước của mình gây thiệt hại cho những tộc khác. Đất Ba Lan cho người Ba Lan, Croatie cho người Croates v..v.. Những sắc tộc bị thống trị, để phản ứng lại, đòi những quyền chính trị đặc biệt. Trong trường hợp bị từ chối, họ sẽ yêu sách được  độc lập. Vì vậy mới có những cuộc chiến tranh quốc gia-dân tộc.

 

Theo những điều nghiên cứu của tôi thì, tình trạng nguy hiểm nhất phát sinh từ hai nhóm sắc tộc hay tôn giáo khác nhau, cùng đòi hỏi một quốc gia riêng biệt, trên cùng một vùng đất và, yêu sách của họ cùng có tính chính thống lịch sử và cơ may thành công. Trong tình huống này, sắc tộc yếu kém thường được được sự trợ lực của những người bạn đồng tộc hoặc đồng tôn trong những khu vực tiếp cận hay nước láng giềng có ý đồ địa lý chính trị. Nếu không, bên nào yếu sẽ phải phụ thuộc và, thay vì chống đối, chấp nhận trở thành nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc, một kết thúc thông thường của những cuộc chiến sắc tộc. Tất cả những cuộc chiến, từ chiến cuộc Balkan trước Thế chiến Thứ nhất đến những chém giết vì sắc tộc hay tôn giáo ở Rwanda, Palestine, Cachemire cà Tchétchénie, đều có mô hình giống nhau. Do đó, sự hiện diện nhiều quốc gia-dân tộc trên thế giới có khuynh hướng chuyển bạo lực vào nội địa của một nước. Ưu thế của lý tưởng "chánh quyền do dân" đã làm cho càng ngày càng khó khăn, trong suốt thế kỷ XIX và XX, quan niệm một nền dân chủ nhiều sắc tộc. Nguyên tắc dân tộc tự quyết hàm ý trong các hiệp định hoà bình 1918-1920, đã tạo ra đầy Quốc gia-Dân tộc mới ở Đông Âu, trong đó, riêng một sắc dân chiếm 70% dân số, đã bóp nghẹt các sắc tộc thiểu số, đặc biệt là Do Thái.

Nhưng chủ nghĩa xã hội, trong thời điểm tuyệt đỉnh của nó vào giữa thế kỷ XX, đã hãm lại thuyết dân tộc- quốc gia, cũng như thuyết tự do thế tục, trong một chừng mực nào đó sau này. Các nước cộng sản tuyên bố là quốc gia không quan trọng bằng giai cấp. Chủ nghĩa xã hội của đệ tam thế giới (socialisme du tiers-monde) khẳng định là dân chúng thuộc các nước kém phát triển họp thành một "giai cấp" duy nhất, bóc lột bởi các nước tư bản giàu có. Trong trường hợp này, mỗi nước hay một tập thể các nước có quyền tự coi như là một giai cấp, nguyên nhân của phong trào liên-quốc gia, như phong trào liên phi hoặc liên Ả Rập. Nhưng, sau đó xã hội chủ nghĩa suy tàn. Sự sụp đổ của Liên Xô và Nam Tư đã gây nên những cuộc chiến quốc gia- dân tộc (ethno-nationalistes). Mặt khác, chủ nghĩa xã hội ở các nước đệ tam thế giới cũng tàn lụi dần. Các nước xã hội Phi châu và Ả-Rập tan rã thành nhiều nước độc tài và tham nhũng, bất lực trong việc đem lại tiến bộ xã hội và kinh tế. Những thất bại này không những làm yếu kém đi, chủ trương lồng tính chất xã hội vào trong chủ nghĩa quốc gia, ôn hoà hơn, tự do và thế tục, mà còn làm tăng thêm sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo. Con số những cuộc chiến quốc gia-dân tộc và nội chiến tăng lên dễ sợ trong thập niên 1990.

 

Bất cứ đế quốc nào, với quy mô toàn cầu, cũng phải đương đầu với những thành phần gọi là "chiến sĩ của tự do", và họ định nghĩa "dân tộc" theo nghĩa sắc tộc hay tôn giáo. Những người Palestiniens, Cachemiris, Tamouls, Tchetchènes và nhiều người "chiến sĩ của tự do quốc gia" trên thế giới, không phải là những thành phần phản động, chống lại tính hiện đại. Họ chỉ tìm cách thực hiện việc xây dựng một quốc gia-dân tộc cho chính họ, như những người khác đã làm trước họ. Để chống lại những cuộc đàn áp, họ dùng đến lý tưởng dân tộc tự quyết, có tiếng vang mạnh trong quần chúng. Họ tự coi là những người ái quốc, nhân danh dân tộc để hành động, và sẵn sàng chết cho lý tưởng. Câu trả lời của hai phụ nữ quyết tử, tại sao họ hy sinh như vậy, rất giản dị: do lòng"yêu nước" "cho đất nước và dân tộc tôi". Nói hai phụ nữ này thể hiện "điều ác" không giúp gì cho sự hiểu biết hiện tượng này, vì phê phán trên mặt đạo đức ngăn cản việc tìm hiểu động cơ và nguyên nhân của hành động quyết tử.  Phần lớn những người quyết tử là những người quốc gia, không là thành phần theo trào lưu chính thống.

Ý định của tôi không phải là miêu tả những "chiến sĩ của tự do" dưới khía cạnh hấp dẫn. Họ đi vào một cuộc chiến tranh tàn khốc, bởi vì là cuộc nội chiến. Họ thường phạm vào những việc tàn bạo đối với cộng đồng của chính họ. Họ ám sát những người ôn hoà muốn đạt được thoả thuận với kẻ áp bức. Những chiến sĩ cho tự do cũng như các nước tranh đấu cho khẩu hiệu này, thường không tôn trọng nguyên tắc tự do mà họ nêu lên. Dân tộc Tchetchènes tiếp tục chiến đấu, mặc dầu đã chịu nhiều đau khổ dưới thời Nga Hoàng và Liên Xô. Staline đầy và phân tán toàn diện dân tộc này. Hai mươi năm sau, dân tộc Tchetchènes trở lại đất nước của họ và sau một thời gian, một số người lại tiếp tục tranh đấu. Tổng thống Poutine lại sử dụng một chính sách khủng bố ghê gớm ở cấp bậc quốc gia. May mắn là Poutine không phải là Staline và Staline thì đã thất bại. Theo bác sĩ Yandarev, y sĩ trưởng về phẫu thuật ở bệnh viện chính ở Grosny, thì hòa giải là giải pháp duy nhất cho chiến tranh quốc gia-dân tộc. Nếu Mỹ muốn đảm bảo nền hoà bình và trật tự thế giới -pax americana- thì không có cách nào khác là phải  giữ vai trò người hòa giải của nền hòa bình thế giới. Mỹ phải bỏ đi chính sách thiên vị. Mỹ có khả năng để đóng vai trò hoà giải. Khó khăn nhất là giải quyết những trường hợp mẫu thuẫn lý tưởng quốc gia- dân tộc  mỗi ngày một trầm trọng, dẫn tới bạo lực. Trong cuộc nội chiến vẫn còn tiếp diễn ở Congo, con số người bị tàn sát tính ra vào khoảng ba đến bốn triệu. Năm 2002, tỉnh thành Goma ở miền đông bị chiếm đóng bởi dân Hutus, thủ phạm vụ diệt chủng, chạy trốn sự trả thù của dân Tutsis ở Rwanda. Sau đó là những nhóm thổ phỉ, xuất thân từ các quân đội thuộc các nước láng giềng, thu hút vào khu vực này do các kim loại quý như coltan, tantalite và vàng. Tổ chức "Tập Hợp Congo cho Dân Chủ" (RCD), được các đơn vị của quân đội Tutsis giúp chiếm lại Goma. Hết nạn này thì đến nạn dịch tàn phá số lớn dân chúng thiếu ăn, rồi đến núi lửa phun dung nham quyét sạch thành phố.

Tình trạng nội chiến trên tăng lên trong các nước Phi Châu. Giới "tinh hoa" của xã hội  đưa ra những đòi hỏi về sắc tộc và địa phương để ăn cắp tài nguyên hầu bán cho các xí  nghiệp ngoại quốc, tất cả dưới danh nghĩa dân tộc. Bọn này phân phát súng ống cho thanh niên để tra tấn, hiếp dâm, tàn sát. Đến lượt chánh quyền đến trả thù. Còn phải kể đến nạn đói và bệnh sida đe doạ sự sống sót của người dân. Dân chúng kinh sợ cả giới ly khai lẫn chánh quyền. Những mâu thuẫn quốc gia-dân tộc trong kinh tế và trong những chánh quyền bị phá sản chỉ đưa đến việc khủng bố cục bộ, ít khi nhằm vào chống đối ngoại quốc. Như vậy, không có lý do gì để, trong tình trạng chiến cuộc này, nước Mỹ đứng vào phe này hay phe kia.  Một đế quốc khoan dung đáng lý ra phải đứng ra dàn xếp, giúp đỡ kinh tế, tác động phần nào trên sự kiểm soát các nước đệ tam nhân, các xí nghiệp ngoại quốc và việc buôn bán khí giới.

 

      - Thách đố thứ hai: Sự leo thang của thuyết chính thống tôn giáo.  Cho tới nay, tôi đã gom làm một những cuộc chiến quốc gia-dân tộc và tôn giáo, và thật ra quyền lợi của hai nhóm thường dựa vào nhau. Như tại Israël và tại Palestine hay ở Cachemire và Ấn Độ, tôn giáo làm tăng thêm tinh thần cùng một phe của những chiến binh đối thủ với nhau. Ngoài ra, còn thêm một rắc rối nữa là tính chất quốc gia, đặc biệt đối với người Ả-Rập. Tinh thần quốc gia này có thể là tinh thần quốc gia-dân tộc, hoặc liên quan đến tính chất sắc tộc Ả-Rập như một khối. Người Irak có thể chống cự đế quốc nhân danh tổ quốc hoặc nhân danh dân tộc Ả-Rập. Tôi gọi những người thứ nhất là người quốc gia và loại người sau là các chiến sĩ liên-Ả-Rập, liên-Hồi- giáo.

Chủ nghĩa xã hội không biết đến Thượng đế và chủ nghĩa tự do thế tục (phi tôn giáo) suy tàn thì sẽ dẫn tới sự hưng thịnh của tôn giáo. Tôn giáo lúc đó có tham vọng đưa ra một đường lối thứ ba, giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa duy vật Tây phương bị phá sản. Đợt đổi mới của tôn giáo thật ra bắt đầu trong những ngày cuối của chế độ thực dân. Thành phần tôn giáo quá khích tố cáo các chế độ thế tục sau thời thực dân, đã từ bỏ tình cảm tôn giáo của mình để theo đuổi một lý tưởng nghịch đạo, đến từ ngoại quốc. Tại Ấn Độ, sự suy sụp của đảng Quốc đại (Parti du congrès) đã dẫn đến một tinh thần quốc gia Hindou "thuần khiết" hơn, mà số tín đồ bắt đầu tấn công những người Hồi giáo. Trong giới Hồi giáo, những cuộc can thiệp của Mỹ đưa những tín đồ đạo Hồi (islamistes) đến chỗ tố cáo các chế độ Hồi giáo thối nát là tay sai của đế quốc Mỹ.

 

Hồi giáo kháng cự từ lâu chống đế quốc đến từ ngoài. Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ bị xâm chiếm bởi Tây phương, cũng như Ba Tư, sau này là Iran. Trong nhiều thế kỷ, những dân tộc Hồi ở vùng Caucase chứng tỏ là những lực lương kháng chiến tích cực nhất chống đế quốc Nga và sau này đế quốc Xô-Viết. Tính chất này còn được tăng thêm nhờ khả năng dai dẳng của Hồi giáo tạo ra các "giáo phái quân sự". Thời xưa, từ sa mạc, các giáo phái này tràn vào đánh  các quốc gia Hồi giáo thối nát nhằm mục đích tái lập sự thuần khiết giáo lý của Mahomet. Hiện nay, một số người Hồi giáo chủ trương trở lại sự thuần khiết của đạo Hồi, như dưới thời Mohamet. Giải pháp là bắt buộc toàn thể cộng đồng Hồi theo đúng quy tắc tôn giáo (la chariat) Hồi giáo. Trong số này, có thành phần muốn tái lập lại truyền thống hiếu chiến chống đế quốc với nghĩa vụ "qital" nghĩa là "chiến đấu chống kẻ thù" và "djihad" có nghĩa rộng hơn là "chiến đấu duới danh nghĩa Allah" Một số người nhắc nhở là kinh Coran sai khiến là phải kháng cự lại mọi áp bức, vì áp bức còn nghiêm trọng hơn là giết người, và ra lệnh phải "chống lại cho tới khi không còn áp bức và tôn giáo hoàn toàn thuộc về một mình Allah".

 

Đối với họ, các chánh quyền bội giáo và đế quốc liên kết với nhau trong bạo ngược. Vì vậy phải chống cả hai. Mặc dầu phong trào của họ được chính thức coi như một phong trào xuyên-quốc gia (trans-national), nhưng chiến binh của họ được đào luyện bởi hai lý tưởng quốc gia, thứ nhất bao gồm toàn thể dân tộc Ả - Rập, thứ hai là chính đất nước họ. Lý tưởng sau chứng tỏ hết sức mạnh mẽ trong những năm gần đây. Chìm đắm vào cuộc đấu tranh chính trị địa phương, họ quên tinh thần liên Ả-Rập để trở nên những người quốc gia theo thánh chiến, tượng trưng bởi tổ chức Hamas và Djihad islamique cũng như tổ chức Herzbollah libanais. Bắt đầu từ thập niên 70, chủ nghĩa xã hội và tự do thế tục càng giảm sút thì giới islamisme và djihadiste càng tăng thêm sức mạnh. Phong trào này được động viên trên thuyết, mà Mawdoudi, dân Pakistan mệnh danh là "théodémocratie " (thần quyền dân chủ) xây dựng chủ quyền không phải trên quốc gia mà trên cái gọi là "oumma ", một cộng đồng thế giới những tín đồ, phù hợp với kinh Coran. Cuộc võ trang kháng chiến chống đế quốc xô-viết ở Afghanistan đã sản sinh ra "trung đoàn chiến binh quốc tế" giúp cho nẩy nở tinh thần đoàn kết trong thế giới Hồi giáo, đưa tới hiện tượng Oussama Ben Laden và thành công trong việc đánh đuổi được cộng sản vô thần. Đế quốc Mỹ mới nên suy nghĩ hai lần trước khi để những người djihadiste coi là những kẻ dị giáo cần phải triệt tiêu. 

Những chế độ Hồi giáo có xu hướng thiết lập chế độ độc tài tôn giáo tàn bạo như ở Iran, Soudan và Afghanistan, với hậu quả làm mất lòng dân. Những cuộc điều tra của Riaz Hassan tại nhiều quốc gia như Egypte, Indonésie, Iran, Kazakhstan và Pakistan, cho thấy là một chế độ càng muốn thành chánh quyền Hồi giáo thì sự tín nhiệm của dân chúng đối vối tôn giáo và chánh quyền càng giảm đi. Ngược lại, sự tín nhiệm  của dân chúng tăng lên trong một chánh quyền thế tục. Đa số quần chúng lánh xa thành phần djihadiste do đường lối hết sức tàn bạo trong những đầu năm 90 ở Algérie và Egypte. Thành phần này bắt đầu suy thoái đồng thời với Hồi giáo (islamisme), từ giữa những năm 90, đúng lúc những hành động của Mỹ lại cho họ cơ hội để bột phát.

 

      - Thử thách thứ ba: thời tàn của tư tưởng đế chế. Giới đế quốc mới cho rằng sức mạnh của Mỹ hơn hẳn Anh và Pháp ở thế kỷ 19. Điều đó đúng, nếu so sánh riêng biệt từng nước một. Đúng là nước Mỹ mạnh hơn Anh và trội hơn hẳn Pháp. Nhưng hai đế quốc này không hành động riêng lẻ. Mặc dầu những cuộc chiến  giữa hai nước, nhưng họ đồng cảm là cùng hội cùng thuyền trong "nhiệm vụ khai hoá văn minh" rộng lớn, phát động bởi châu Âu, sau đó là Tây phương, trên vùng đất Cuba, Philippines và Trung Quốc...  Về phương diện quân sự, chính trị, kinh tế và nhất là hệ tư tưởng thì đế quốc tây phương tây đáng sợ hơn nhiều đế quốc Mỹ hiện nay. Trước mắt thế giới, Anh, Pháp, Bỉ, Nga, Mỹ v..v. ; có chung một văn hoá. Nếu nhìn chung các nước đó thì không có cách nào thoát khỏi sức mạnh của họ.

Về văn hoá, Tây phương thể hiện tính hiện đại, tiến bộ, quyền lực. Văn hoá tây phương ảnh hưởng lớn lên giới tinh hoa của các nước bị trị trên thế giới, tới mức giới này ý thức là cần phải sử dụng tới, mặc dầu họ vẫn chiến đấu để tự giải phóng. Tây phương còn nắm trong tay phương tiện viễn thông. Tại Phi châu, Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Ý có thể liên lạc một cách dễ dàng; ngược lại những dân Phi ở những vùng khác nhau trong lục địa thì không có khả năng nào liên lạc được với nhau. Độc quyền truyền thông của giới tây phương ngăn chặn mọi tổ chức kháng chiến tập thể ngoài những vụ có tính cách cục bộ. Phần lớn những sư tàn bạo của đế quốc chỉ bị phanh phui ra, hoặc bởi sự cạnh tranh giữa giới quân sự và dân sư, hoặc bởi giới tôn giáo.

Thời nay, những gía trị dân chủ chiếm ưu thế trong cuộc sống hiện đại trên hoàn cầu. Mỗi khi mà Mỹ tính chuyện trệch hướng thì tức khắc hành động này bị tố giác và được đưa ra công luận. Đại diện của LHQ không khoan nhượng, thẳng thừng phê bình. Các tổ chức phi chánh phủ cũng như tổ chức dân sự quốc tế cũng không bỏ lỡ cơ hội kéo chuông báo động. Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW) được tin cẩn nhờ ở những báo cáo thẳng thắn về những vi phạm nhân quyền. Tổ chức này đã tố cáo Milosevic, Talibans và Sadam Hussein. HRW cũng đặt Nhà Trắng vào tình trạng lúng túng khi những báo cáo phê phán của họ được đưa lên các báo trên thế giới, về những vụ ném bom của Mỹ vào thường dân, hoặc việc đồng minh afghan phạm những vụ tàn sát mà Mỹ làm lơ, hoặc cách đối xử với tù binh ở căn cứ Guantanamo.  Để đối phó lại, đế quốc mới chọn một hình thức thông tin dành riêng cho từng cấp thứ bậc, bí mật và bị kiểm duyệt. Trong những cuộc chiến gần đây, để kiểm soát tin tức khu vực quân sự, tất cả các phóng viên báo chí được tập trung vào "pool báo chí" để làm giảm bớt sự tự do đi lại của nhà báo. Trong chiến tranh Irak, bộ quốc phòng Mỹ có một đường lối mới về thông tin là nhập các phóng viên báo chí vào các đơn vị Mỹ. Nếu một phóng viên nào dời chỗ chỉ định thì lập tức bị loại. Tin tức chiến sự vì vậy chỉ phản ánh những điều quân đội Mỹ muốn cho biết, nhất là về con số tổn thất của thường dân. Những hình ảnh và phóng sự đặc biệt ghê rợn về cảnh chết chóc, gia đình tan nát của thường dân thì do đài truyền hình Al-Jazira đưa lên cho thế giới biết. Đây là lần đầu tiên các đài truyền hình Ả-Rập cho thế giới nghe được tiếng nói của những nạn nhân, một điều chưa bao giờ có trong lịch sử các đế quốc.

Lầu Năm Góc càng ngày càng ý thức được là tổn thất của thường dân làm hại cho lý do của chiến tranh. Thật vậy, quân nhân Mỹ cố gắng để giảm bớt tổn thất cho thường dân, trong điều kiện vẫn bảo toàn được an ninh cho đơn vị mình. Như vậy, ưu tiên của quân đội Mỹ là an ninh cho quân nhân hay cho thường dân?  Sự lưỡng lự này làm nẩy sinh một chiến thuật thiếu nhất quán và những mẹo vặt về lý tưởng.  Không một ai lạ về những mâu thuẫn của đế quốc và nhận thấy rằng giấc mơ của Mỹ thật ra chỉ là một ảo tưởng, nếu ai muốn đến gần thì nó ngưng nhẩy múa, lùi ra xa và biến mất. Những giá trị dân chủ của Mỹ bị đảo ngược  một cách hiển nhiên bởi tính chất đế chế, tuy mạnh về mặt quân sự, nhưng không thuyết phục được ai về khả năng đem lại trật tự, hoà bình và dân chủ cho thế giới. Cũng như các chương trình kinh tế của Mỹ đóng góp vào việc ngăn cấm con đường các nước ở Nam cầu đi vào phồn vinh kinh tế.

 

Ở thời buổi của chế độ quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới có trách nhiệm về số mệnh của chính họ. Mọi cuộc can thiệp của ngoại bang phải được chính đáng do hoàn cảnh đặc biệt, như đươc xác định bởi hiến chương LHQ. Những năm đầu các cuộc xâm chiếm của đế quốc thường đẫm máu nạn nhân. Ngược lại, trong thời đại hiện tại, lý tưởng nổi trội trên thế giới, qua phương tiện truyền thông, là chống mọi đế quốc. Chúng ta đang chứng kiến một vấn đề lý tưởng căn bản mà giới đế quốc mới đang phải đương đầu.

 

V - CHỦ NGHĨA QUÂN PHIỆT MỚI

Chúng ta thấy rằng, các sự kiện đã chứng minh là đế quốc mới của Mỹ biến thể thành một thứ quân phiệt. Lý tưởng Mỹ ở ngoại quốc, do hoạt động của nó không còn tính hợp pháp nữa. Đường lối đối ngoại của Mỹ chỉ còn là hàng ngày đe doạ, thả bom theo mùa, và hai năm một lần đi xâm lược. Giới diều hâu hèn nhát thủ cựu mới (faucons mouillés néoconservateurs) trước tiên nắm Toà Bạch Ốc và sau đó Bộ Quốc Phòng. Lợi dụng sự xúc động sau vụ 11-09, giới này đã động viên tất cả truyền thông cho mục tiêu của họ. Giới chính trị dân sự càng ngày càng không kiểm soát được quân đội, trong khi đấy là một điều kiện không thể thiếu được của một chế độ dân chủ. Giới quân phiệt mới có lực lượng nhưng đồng thời có những yếu điểm thông thường của quân phiệt: có lực lượng nhưng không có uy tín, ngạo mạn một cách tàn nhẫn, đưa tới tự phụ quá chừng mực, để rồi rơi vào tai hoạ.  Cho tới gần đây, sức mạnh của Mỹ không thể chối cãi, được chấp nhận và được coi như chính đáng ở ngoại quốc. Nhưng hiện thời, sức mạnh này được thực hiện với súng ống, làm cho xói lở bá quyền của một đế quốc khoan dung như nước Mỹ trước đây.

Sự thiếu nhất quán ngự trị trong khả năng quân sự, kinh tế, chính trị và tư tưởng buộc Mỹ phải dùng đến sức mạnh lớn nhất mà họ có: tấn công quân sự. Nhưng Mỹ không đụng đến các cường quốc như Trung Quốc, Nga hay Âu Châu, mà chỉ nhằm các nước nhỏ. Theo nhãn quan về thế giới của giới tân quân phiệt  (nouveaux militaristes) Mỹ, thì mối đe doạ chủ yếu đến từ hai miền: khu vực Đông Bắc Á châu tức Bắc Cao Ly và Trung Đông, vùng trung tâm của Hồi giáo, trải dài từ Lybie đến Afghanistan. Mục tiêu của giới này là cưỡng chế khu vực này phải trở nên thân thiện, có kỷ luật và dân chủ, bằng biện pháp diệt hết những dân Hồi giáo "lưu manh".  Thấy tại đây chỉ có những nước Hồi giáo tương đối yếu, giới Mỹ nói trên tin rằng với sức mạnh quân sự, họ có thể đem lại được những tác dụng tốt. Họ không nghĩ là cảnh người Do Thái  hàng ngày tàn sát dân Ả Rập và Hồi giáo, không thể là một chính sách tốt để thuyết phục được những người Hồi giáo khác cộng tác.

Giới quân phiệt bỏ ngoài tai những lời khuyến cáo của các nhà lãnh tụ các nước Hồi giáo thân thiện như quốc vương Abdallah nước Jordanie,  tổng thống Moubarak là "mọi cuộc tấn công liên quan đến một nước ở Trung Đông sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho toàn thể khu vực này".  Và tiếp tục phát biểu "cuộc xung đột Do Thái-Palestin hiện nay là 80% nguyên nhân của hành động khủng bố trên thế giới". Còn Bachar el-Assad tổng thống Syrie thì cho là "chiến tranh ở Afghanistan không tránh được tình trạng Ben Laden sẽ thu hút được nhiều tân binh". Sau đó một năm, ông ta còn tuyên bố "chiến tranh ở Irak sẽ  tạo nên một vườn ươm cho hoạt động khủng bố ở trong vùng". Mỹ vẫn tính áp dụng biện pháp vũ lực với Syrie và Iran. Trong thời gian xâm lược Irak, Rumsfeld, Powel và Bush không ngừng đe doạ các nước "côn đồ" và "trục tồi bại" nhưng sau đó thì hướng vào Syrie. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì nước này là nước yếu nhất trong hai nước. Vài nhân viên trong quốc hội đã đề nghị một nghi định về trách nhiệm của Syrie và thi hành cấm vận cho tới khi nước này ngừng tài trợ cho tổ chức khủng bố, bãi bỏ vũ khí hoá học. Điều đó cũng không có gì mới lạ. Syrie cũng như Iran không có tài trợ cho chiến dịch "khủng bố quốc tế" chống Mỹ. Mọi người đều biết là họ chỉ ủng hộ thành phần "khủng bố quốc nội" palestinien và libanais trong cuộc chiến chống Israel, mà tất cả các nước Ả-Rập coi là kẻ áp bức. Syrie và Iran bị nghi ngờ là triển khai vũ khí hoá học. Nhưng ít nhất 15 nước khác kể cả Israël cũng đang làm. Vì Mỹ đe doạ một cách quá khích nên họ cảm thấy có quyền có những vũ khí huỷ diệt hàng loại như Israël. Đối với họ, mối đe doạ đến từ Mỹ.  Nếu Mỹ dùng những biện pháp chống một trong hai nước này thì Mỹ sẽ chỉ còn Israël là đồng minh độc nhất trong khu vực này. Ở Syrie và nhất là ở Iran, những phong trào mà họ ủng hộ có nguồn gốc sâu xa từ lâu, trước cả khi Sadam nắm chính quyền ở Irak. Phần lớn lãnh đạo Ả-Rập hiện nay nghĩ rằng Sharon chỉ đạo đường lối ngoại giao của Mỹ ở Trung Đông.

Tướng Sa'ad al-Din al-Shadhili, nguyên tổng tham mưu trưởng quân đội Ai Cập, phân tích mục tiêu của Mỹ như sau: "Thứ nhất là chiếm được dầu mỏ và của cải của Ả-Rập. Thứ hai là ngăn chặn các tổ chức Hồi giáo đạt được chính quyền. Thứ ba là giữ cho các nước Ả-Rập chia rẽ và sau cùng, giúp Israël trở thành một siêu cường ở trong vùng".  Ông ta tin rằng Mỹ có mưu đồ sử dụng biện pháp đe doạ và, nếu cần, vũ lực để hàng phục Syrie và Iran, rồi đến Arabi Sa-ou-đít và cuối cùng tất cả các phong trào giải phóng Ả-Rập. Ông ta cũng không sai khi lưu ý rằng đây cũng nằm trong chương trình của Sharon. Nhưng theo ông thì kế hoạch này khó đạt được tới đích. Nó sẽ lôi kéo một cuộc kháng chiến toàn diện của người Ả-Rập hoặc, trong trường hợp họ chia rẽ nhau, thì sẽ tạo ra một tình trạng hỗn loạn trong khu vực, đưa tới những vụ khủng bố, cá nhân hay quốc gia, cắt đứt việc cung cấp dầu hỏa và ngăn cản mọi ngả thoát cho khủng hoảng palestine.

 

Về dân chủ, ông Bush phấn khởi tuyên bố là "một chế độ mới ở Irak sẽ là một tấm gương gây ấn tượng mạnh về tự do cho các nước chung quanh".  Tin tưởng vào "lý thuyết đô-mi-nô" về dân chủ rất nổi tiếng trong giới tân quân phiệt. Theo họ, các chế độ quyền uy sẽ lần lượt sụp đổ, trước tấm gương Irak hậu chiến và sức ép của Mỹ. Nhưng, một tài liệu của Bộ ngoại giao quả quyết là quan điểm đó không "tin được" và khuyến cáo phải lưu tâm đến hậu quả ngược lại đầy nguy hiểm. Tuyển cử trong ngắn hạn có thể có những chính quyền mà đa số là Hồi giáo, thù nghịch với Mỹ.  Những cuộc tuyển cử ở các nước Hồi giáo trong thời gian Mỹ chuẩn bị xâm lăng Irak đã xác minh điều đó. Pakistan, Bahrein, Maroc và Turquie đều tổ chức tuyển cử trong tháng 10 và tháng 11 năm 2002.  Tại bốn nước này, các đảng Hồi giáo đã chiếm ưu thế tại quốc hội với số ghế từ 3 tới 78 tại Pakistan, từ 14 tới 42 ghế tại Maroc.  Lần đầu tiên từ hơn 30 năm có tuyển cử ở Bahrein, Hồi giáo chiếm 60% số ghế tại quốc hội. Những nhà quan sát viên tại địa phương quy cho kết quả đó một phần do sự phản xạ của chiến tranh chống khủng bố. Tại Iran, có cuộc tuyển cử tự do chưa bao giờ từng có vào tháng 2 năm 2003, tổ chức Hồi giáo đã đánh bạt đảng Canh tân. Giới quan sát viên giải thích là áp lực của Mỹ đã làm xói mòn đường lối thân thiện của giới canh tân. Trong thời gian này, nếu có tuyển cử thì chỉ mang lại chế độ dân chủ Hồi giáo, có thể là liên Ả Rập, chứ không phải là chế độ dân chủ tự do thân Mỹ.  Đồng minh của Mỹ, thì áp dụng đàn áp hơn là tuyển cử. Đó là những thay đổi cụ thể mà giới tân quân phiệt đã gây nên tại khu vực.

 

Giới này còn làm  cho hoạt động khủng bố nghiêm trọng thêm. Các báo cáo của tình báo Mỹ cho biết là một số lớn các tiểu tổ khủng bố mới được thành lập ở Trung Đông và Bắc Phi. Ngoài ra, chính sách quân sự Mỹ còn củng cố thêm giây liên lạc giữa các tổ chức Hồi giáo, tổ chức liên Ả Rập với giới quốc gia và đặc biệt giữa tổ chức khủng bố quốc tế Al-Qaida với tổ chức khủng bố quốc nội như Hamas hay Hezbollah, tạo thành một địch thủ mới cho Mỹ. Tại Irak, những người khủng bố thật ra chỉ là những du kích quân, phá hoại các mục tiêu quân sự, có hậu quả đưa chế độ tại chỗ cũng áp dụng khủng bố ở cấp quốc gia.

 

Về lâu dài, những cuộc chém giết sẽ làm kiệt quệ khả năng của đế quốc Mỹ, đặc biệt là sự ủng hộ của cử tri Mỹ.  Mỹ đi ngược dòng lịch sử.  Ở thời buổi đầu của thế kỷ 21, các quốc gia-dân tộc có chủ quyền không đời nào để bị chỉ huy hay đè nén bởi một chính sách quân sự đến từ nước ngoài. Chính sách này càng ngày càng làm nẩy nở ra tình trạng kháng cự, hung bạo, tàn phá.  Tuy nhiên, không phải chỉ có Âu Châu chống đối chiến tranh Irak. Những cuộc thăm dò dư luận đầu năm 2003 tại các nước như Turquie, Pakistan, Thái Lan, Hồng Kông, Nhật, Úc, Á Căn Đình, Ba Tây, Chi li, Uruguay và Gia Nã Đại đều chứng minh là đa số dân chúng bác bỏ chiến tranh. Đến tháng 5 năm 2003, một cuộc điều tra rộng lớn trong 21 nước cho thấy mức suy xụp tệ hại hơn đối với Mỹ.  Phần lớn các nước chống đối hành động đơn phương của Mỹ và chiến tranh Irak. Nhưng giới cầm quyền Mỹ hầu như không có một chút quan tâm gì. Họ có "quyền lực" để hành động như vậy và không ai có thể ngăn cản được.

Thế giới có một phương tiện chống lại Mỹ trong trung hạn là đồng đô la, tiền dự trữ quốc tế. Dĩ nhiên, vốn đầu tư ra nước ngoài do thị trường quyết định chứ không do các chính phủ. Ngày nào các nhà đầu tư mất tin tưởng vào sự ổn định và lành mạnh của nền kinh tế của một nước thường xuyên có chiến tranh, thì họ tìm cách bảo vệ vốn đầu tư của họ, và sẽ chuyển vốn sang khu vực euro hay yen nếu thấy có lợi. Trong trường hợp này, Mỹ chỉ còn trông vào nguồn vốn duy nhất của mình. Đô la và Liên Hợp Quốc  đã giữ vai trò trung tâm cho sự thống trị thế giới của Mỹ.  Thế bá quyền kinh tế dù sao cũng bao hàm sự tán thành của các nước cho một luật chơi. Cho tới nay, sự thoả thuận đa phương đó đã đem lại những lợi ích lớn cho Mỹ. Nhưng ngày nào luật chơi đó bị phá vỡ thì không bao lâu mặt trời sẽ lặn trên đế quốc Mỹ, còn nhanh chóng hơn là đế quốc Anh hay đế quốc La Mã. 

 

Trong thập niên vừa qua, trong thời gian xây dựng một lực lượng bá quyền, Mỹ đã phải đối phó với nhiều cuộc xung đột, nhiều cuộc chiến và khủng bố chưa bao giờ gặp trước đó. Do đó, nếu Mỹ quyết định theo đuổi mộng bá vương, thì phải đi theo những quy tắc  của nó. Nhưng nếu thất bại trong mưu đồ bá vương thì Mỹ sẽ mất luôn ưu thế chính trị. Cuốn sách này nêu lên đại thể ngắn gọn một thế giới hoàn thiện hơn nếu được điều khiển theo quy tắc. Nhờ ở sự phối hợp giữa sự lãnh đạo của Mỹ với các tổ chức quốc tế mà đường lối chống khuếch tán, khai thác vũ khí hạt nhân cũng như các biện pháp chống khủng bố đã mang lại kết quả khả quan. Hiển nhiên là chính sách chống khuếch tán nguyên tử -nhắm vào các nước Irak, Bắc Cao Ly, Iran và Syrie- đã đem lại kết quả khả quan hơn khi Mỹ bỏ đi ngôn ngữ "các nước côn đồ" để sử dụng chính sách cây gậy và củ cà rốt, nói cách khác là dùng lợi lộc một mặt và mặt khác sự đe doạ có khả năng thực hiện. Một đường lối đối đãi các nước khác như côn đồ chỉ có hậu quả là làm họ tiến xâu vào trạng thái côn đồ. Và hoàn cảnh này lại làm cho giới quân phiệt mới chỉ nhìn thấy giải pháp xâm lăng để thay đổi chính thể tại các nước đó, khiến cho sự hỗn loạn càng trầm trọng thêm.   Giới quân phiệt mới này cho rằng sức mạnh của Mỹ có khả năng đè bẹp tất cả các kẻ thù. Họ đã nhầm. Quyền lực mà Mỹ có không đồng đều và không phù hợp cho một đế quốc. Đế quốc Mỹ chưa rộng lắm, nhưng sự mở rộng thiếu nhất quán. Lực lượng của quân đội khổng lồ này chưa thể so sánh được với tài nguyên kinh tế và địa dư chính trị bắt nguồn từ những hiệp định đa phương. Ngoài ra, Mỹ không chịu đầu tư đủ để củng cố cho một đế quốc, như chúng ta đã thấy ở Afghanistan và ở Irak. Sau cùng, chính sách quân phiệt của họ vượt quá khả năng chính trị để quản lý các nước bị xâm chiếm, ngược lại với lý tưởng tự do và dân chủ quý báu của người Mỹ. 

 

Michael MANN

Vương Văn Đông lược dịch

.

 


SỐ 8 THÁNG 5.2007

Quan điểm

1. Viễn Tượng Việt Nam : Dân chủ và nhân quyền

Văn, Thơ & Sử

2. Đỗ Mạnh Tri : Đôi điều về anh Nguyễn Ngọc Lan

3. Từ Thức : Người đưa tin

4. Tiểu Tử : Người Viết Mướn    

5. Vĩnh Như & Thường Nhược Thủy : Ngày giỗ tổ Hùng Vương 

6. Phan Thanh Tâm : Sau 30 năm lìa xa     

Chính trị quốc tế & Việt Nam

7. Phùng Nguyên : Lược duyệt các Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc

8. Vũ Huy Quang dịch : Thư Luân Lưu (của Trần Độc Tú)

 9. Vương Văn Đông lược dịch : Một đế quốc thiếu nhất quán (của Michael Mann)      

10. Nguyễn Văn Trần : Nhìn lại cuộc bầu cử Tổng Thống Pháp vừa qua...

11. Bùi Tín : Những vấn đề cần làm rõ về cách mạng dân tộc dân chủ...

12. Trần Thanh Hiệp : Chính thống dân chủ           

13. Nguyễn Xuân Phước : Những Vướng Mắc Hiến Pháp của Điều 88 Bộ Luật Hình Sự

14. Đoàn Viết Hoạt : Hãy hòa giải với hiện tại để xây dựng tương lai

15. Vũ Quốc Thúc : Đã tới lúc phát động cuộc  "cách mạng nhung" ?

Biên khảo xã hội, kinh tế, chính trị

16. Trần Lê Quang : Dẫn-Thủy Nhập-Điền tại Đồng Bằng Phan-Rang...

17. Nguyễn Ngọc Hiệp : Tự do thông tin vì dân chủ, văn minh và tiến bộ

18. Trần Thanh Hiệp : Ghi chú về « Đức lý 德理 » của người luật sư

19. Tôn Thất Long : Hợp chủng quốc Hoa kỳ: nguồn gốc và nền tảng xây dựng

20. Hoàng Xuân Đài phỏng dịch : Đàn ông khống chế đàn bà... (của Françoise Héritier)

21. Đàm Trung Pháp : Noam Chomsky : Linh Hồn Của Lý Thuyết Ngữ Pháp...

Trình bày bìa
Nguyễn Thành Nhân


Số cũ :

7 | 6 | 5 | 4 | 3 | 2 | 1
 


 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.