I. - MỘT
"ANH KHỔNG LỒ" VỀ QUÂN SỰ
Sức mạnh quân
sự của Mỹ hiện nay thì vô song. Tất cả ngân sách quân sự trên thế
giới đều giảm sút, trừ ngân sách quốc phòng Mỹ. Trong năm 2003,
ngân sách quốc phòng Mỹ vượt trội 40% ngân sách quân sự của toàn
thế giới và lớn hơn gấp 25 lần chi phí của toàn thể 7 "nước côn
đồ" mà Mỹ xếp hạng là thù địch. Mỹ là siêu cường quân sự độc nhất
trên thế giới. Lực lượng quân sự Mỹ quá lớn. Nhưng có vì thế mà
tạo được một đế quốc không? Những đế quốc đòi hỏi 4 loại phương
tiện quân sự: một loại vũ khí phòng vệ hay răn đe có khả năng vận
hành tốt, một lực lương tiến công, một khả năng chiếm giữ đất đai
và dân chúng và sau cùng khả năng bình định. Như vậy, quân lực Mỹ
có đủ khả năng tới mức nào để hoàn thành những điều kiện trên.
A - Kho vũ
khí của Mỹ
- Vũ khí
nguyên tử: Từ năm 1945, vũ khí nguyên tử được xử dụng để ngăn
ngừa mọi cuộc tấn công của một đối thủ. Theo hiệp ước START III
năm 2002, Mỹ và Nga đồng ý giảm số đầu đạn nguyên tử ở tình trạng
tác chiến xuống 2000 hay 2500 từ nay đến năm 2007. Tuy nhiên, với
số đầu đạn dự trữ, Mỹ vẫn còn số vũ khí nguyên tử mà không một
nước nào vượt qua được. Tuy nhiên, Nga cũng sẽ giữ một kho vũ khi
ở mức đủ để tiêu diệt đất Mỹ nếu cần thiết. Trước một sức mạnh như
vậy nên đế quốc Mỹ không có một quyền lực quân sự gì đối với Nga,
cũng như đối với ba lực lượng khác là: 300 đầu đạn nguyên tử của
Pháp, 250 của Trung Quốc và 185 của Anh. Sau đó, đến 4 nước có hoả
tiễn tầm ngắn có đầu đạn nguyên tử như Do Thái (100-200) Ấn Độ và
Pa - ki- xtăng mỗi nước có độ 30 đến 50 đầu đạn nguyên tử và sau
cùng Bắc Hàn với 1 hay 2 đầu đạn. Với số vũ khí này, không một
chánh quyền nước nào có lý tính mà lại tính tấn công Mỹ. Khả năng
phòng thủ của Mỹ mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới. Như vậy
thì các nước khác trên thế giới mới phải bận lòng về phòng thủ chứ
không phải là Mỹ. Nhưng vũ khí nguyên tử sẽ chả được tích sự gì
để bình định một khu vực có tài nguyên khai thác, trừ phi muốn có
một đế quốc bị ô nhiễm vì phóng xạ.
- Vũ khí
thông thường: Một đế quốc cần dựa trên một lực lương thông
thường chứ không phải trên vũ khí nguyên tử. Quân số quân đội Mỹ
quan trọng, nhưng chưa đủ để thể có sức mạnh lấn áp tuyệt đối.
Quân số Mỹ từ 2,2 triệu trong những năm 80 bây giờ xuống còn 1,45
triệu, trong khi Trung Quốc có 2,5 triệu và Ấn Độ, Bắc Cao Ly, Nga
mỗi nước có độ hơn 1 triệu quân. So với tổng số quân trên thế
giới thì Mỹ chỉ có được độ 5% quân số. Với số quân như vậy, dĩ
nhiên Mỹ không thể nào tuần tiễu được hết địa cầu. Nếu tính gồm
những lực lượng cần thiết cho những vụ can thiệp quân sự, một mạng
lưới căn cứ quân sự trên khắp hoàn cầu, những đơn vị phòng thủ
lãnh thổ và các toà đại sứ Mỹ hay các ống dẫn dầu, nơi có quyền
lợi của Mỹ ở ngoại quốc thì quân đội Mỹ hiện nay đã được xử dụng
gần hết. Trong điều kiện đó, Mỹ có thể đồng thời tham chiến được
bao nhiêu mặt trận? Chiến lược hiên tại của Mỹ là có thể cùng một
lúc thực sự tham chiến trong một cuộc chiến tranh rưỡi (1+0,5):
thứ nhất tích cực gây hấn, mở mặt trận vào cuộc chiến, thứ hai là
thực hiện hoạt động duy trì an ninh. Vấn đề quân số đặt ra là, sau
chiến thắng, phải thực hiện việc bình định khu vực chiếm đóng. Như
trong lịch sử các đế quốc, Mỹ cũng sẽ rơi vào tình trạng hoả lực
mạnh hơn đối phương nhưng khó khăn về bình định.
- Việc dàn
quân khắp hoàn cầu: Lầu Năm Góc khẳng định là căn cứ quân sự
Mỹ hiện diện trên 132 nước. Không một nơi nào trên thế giới mà
không ở trong tầm tay quân sự của Mỹ. Mỹ là nước độc nhất có khả
năng dàn quân khắp hoàn cầu. Nhưng không một căn cứ nào ở sát cận
dân chúng, vừa để tránh đụng chạm, với dân chúng địa phương vùng
Vịnh, đặc biệt chống đối, vừa để bảo đảm an ninh sau những hàng
rào thép gai, không khác mấy các đồn lũy thời xưa. Ngược đời, là
sự hiện diện của quân đội Mỹ làm bấp bênh thêm hơn là củng cố cho
chánh quyền địa phương. Các căn cứ quân sự Mỹ do đó có những thiếu
sót quá quan trọng cho một đế quốc. Ngược lại, những đồn trú của
những đế quốc thời xưa thì lại nằm ngay tại cửa ngõ các thành thị
hay chợ búa.
Từ lâu, Mỹ tiến
hành các cuộc chiến với ưu tư tránh triệt để tổn thất nhân lực và
chú trọng đến tiện nghi tối đa của binh sĩ. Vì vậy, Mỹ trong chiến
tranh đã sử dụng tối đa hoả lực thay thế cho các cuộc tấn công
trực diện để tránh tổn thất nhân mạng. Nhưng chiến tranh Việt Nam
đã mang hiểm họa cho chiến lược đó. Để tránh lập lại kinh nghiệm
Việt Nam và theo chủ thuyết Powell, mọi cuộc tham chiến quân sự
phải được thực hiện với lực lượng trội hơn gấp bội phía địch và
với tổn thất tối thiểu. Nhưng có thể nào xâm chiếm và nhất là bình
định được một đế quốc chỉ bằng những cuộc tấn công từ xa để tránh
tổn thất nhân mạng cho Mỹ? Kinh nghiệm cho thấy là một cuộc tấn
công từ xa, không trực tiếp với đối thủ không thể làm đối thủ đầu
hàng được. Chiến tranh ở Bosnie năm 1992 và ở Kosovo năm 1999, Mỹ
phối hợp các vụ thả bom với các cuộc tấn công trên mặt trận của
lực lượng croates và albanaises. Ở Afganistan năm 2001-2002, quân
đội Mỹ gần như tuỳ thuộc vào bộ binh của Liên Hiệp phía Bắc
(Alliance du Nord). Sự thật là 3 đồng minh trên đã chiếm cứ các
lãnh thổ, đưa tới việc đầu hàng của địch chứ không phải là quân
đội Mỹ. Thực tế là Mỹ không kiểm soát nổi lực lương của các đồng
minh địa phương.
B - Vũ khí
của kẻ yếu
- Các quốc
gia côn đồ và vũ khí huỷ diệt hàng loạt: Ngôn từ "vũ khí huỷ
diệt hàng loạt" chỉ định các loại vũ khí nguyên tử, sinh và hóa.
Nhưng thật ra, đó là một ngôn từ rất có dụng ý. Ít khi người ta
viện dẫn nó ra đối với nhóm cường quốc có vũ khí nguyên tử, mặc
dầu hiển nhiên là họ có nhiều loại vũ khí này hơn là mấy nước nhỏ
như Bắc Hàn. Không có gì lạ khi họ cũng cố gắng tìm cách để có
được những vũ khí đó. Ngôn từ này cũng không bao gồm những vũ khí
"loại thường" mặc dầu nó còn có sức phá huỷ lớn hơn vũ khí hoá và
sinh học, nhất là khi do Mỹ xử dụng. Mỹ là nước đứng hàng thứ
nhất về sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt, đồng thời cũng là nước
có trách nhiệm nhất trong vấn đề "lạm phát" các vũ khí có sức tàn
phá cao do việc bán vũ khí cho ngoại quốc. Ngôn từ này cũng không
kể đến các vũ khí dùng đạn "uranium apprauvri" có tính chất phóng
xạ mà Mỹ đã sử dụng. Về lâu dài loại này có hậu quả cho cả binh sĩ
sử dụng lẫn dân thường trong vùng, hoặc các loại vũ khí hoá như
napalm hay Roundup Ultra để khai hoang các khu rừng hay khu vực
trồng trọt. Thật ra ngôn từ "vũ khí huỷ diệt hàng loạt" cũng chủ
quan, thiên vị, chỉ dùng để tố cáo kẻ thù khi họ tìm cách để có
được những vũ khí trên.
Khởi
thủy, chỉ những cường quốc, có nền kỹ nghệ tiên tiến như Mỹ, Nga,
Anh và Pháp, là có vũ khí nguyên tử. Sau đến Trung Quốc với nguồn
nguyên liệu thiên nhiên dồi dào và Israël tuy nhỏ nhưng có kỹ
thuật rất cao, trở thành nhóm nước có vũ khí nguyên tử. Vũ khí
nguyên tử lan đến Ấn Độ, Pakistan, tuy những nước này vẫn còn
nghèo. Bắc Cao Ly thì chỉ quân đội là nhiều. Iran, Irak, Syrie và
Libye nghèo nhưng cũng tìm cách có được vũ khí nguyên tử. Sự
khuếch tán vũ khí hạt nhân không lan tới những nước giàu có như
Đức, Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Gia Nã Đại, Nhật và Úc Đại lợi, tuy
họ có khả năng chế tạo, nhưng không thấy sự cần thiết vì không cảm
thấy bị đe doạ, vì là những nước thân hữu. Hiển nhiên là thái độ
hữu nghị giữa các nước là đường lối hữu hiệu nhất để ngăn cản sự
khuếch tán quan trọng các vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
Nhưng trong môi
trường mà họa chiến tranh có khả năng xẩy ra ở Nam bán cầu, vũ khí
nguyên tử nẩy nở rộ lên vì các nước coi vũ khí này như một lực
lượng răn đe hữu hiệu với một giá không quá đắt. Vài nước nghĩ
rằng như vậy có thể bảo vệ chống đế quốc Mỹ. Họ lý luận một cách
đơn giản là Mỹ sẽ suy nghĩ hai lần trước khi tấn công một nước có
vũ khí nguyên tử. Tuy nhiên, loại vũ khí này thật ra không nhằm
mục đích tấn công. Bởi lẽ, bất cứ nước nào tính chuyện tấn công
Mỹ bằng vũ khí nguyên tử thì chắc chắn tự gây ra họa bị tiêu diệt.
Như vậy, những vũ khí này không thể nào là mối đe doạ cho Mỹ cũng
như các nước láng giềng.
Một khi có vũ
khí hạch nhân, một nước yếu thế về vũ khí loại thường sẽ công bố
có khả năng sử dụng vũ khí hạch nhân để đánh phủ đầu trong trường
hợp bị đe doạ tấn công. Đồng minh Tây phương đã dùng chiến lược
này đối với Liên Xô, cũng như Israël tại Trung Đông và Pakistan
đối với Ấn Độ.
Vũ khí hoá học
và sinh học cũng theo con đường này. Các vũ khí này tuy vậy không
có sức tàn phá như bom nguyên tử. Nhưng các nước nhỏ hay nghèo có
thể chế tạo một cách dễ dàng hơn là vũ khí hạt nhân. Bởi chưng nó
chỉ là những dẫn xuất của kỹ nghệ dược phẩm và hoá học ra. Vũ khí
này hiện tại chỉ được coi như một chọn lựa phản công, tựa như vũ
khí hạt nhân, nhưng ít tàn phá hơn. Đối với những nước nhỏ thì vũ
khí này là một răn đe đối với mọi cuộc tấn công, ngay cả với những
nước mạnh hơn rất nhiều. Trong những năm 80, Irak đã sử dụng vũ
khí hoá học chống lực lượng thông thường hùng mạnh hơn nhiều.
Những vũ khí này là vũ khí của các nước yếu. Nó mang tính chất
ngăn ngừa hơn là công kích.
- Những đe
doạ khủng khiếp hơn trong tương lai: các gián điệp thuộc tổ
chức đặc biệt hay những người khủng bố dễ dàng mang theo một quả
bom nguyên tử, hoá học hay sinh học với kích thước không quá một
chiếc vali, thay vì phải dùng tới tên lửa. Trường hợp này có khả
năng xẩy ra trong khoảng một thập niên tới. Các nước trên thế
giới tuy vậy có bốn phương tiện đề phòng hiểm hoạ này:
1 - Quan
hệ quốc tế tốt: Khuyến khích tinh thần hữu nghị giữa các nước là
đường lối hiệu nghiệm nhất để giảm thiểu những đe doạ khủng bố hay
khuếch tán vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Nhiều nước đã quyết định
không chế tạo vũ khí hạch nhân vì không cảm thấy bị đe doạ, như
trường hợp Ba Tây, Á Căn Đình, Nam Phi Châu, Ukraine, Bilorussie
và Kazakhstan.
Đặt gỉa thuyết
là động cơ chính thúc đẩy một nước tìm cách để có được vũ khí huỷ
diệt hàng loạt là sự lo sợ bị tấn công, thì đường lối hữu hiệu
nhất, chống sự khuếch tán loại vũ khí này, là làm giảm đi chứ
không phải là tăng thêm cảm giác bị đe doạ. Mỹ phải làm yên tâm
các nước nhỏ chứ không phải là đe doạ, làm mất đi tình hữu nghị.
Hiển nhiên là đường lối của Mỹ, đối với các nước được gán cho là
"côn đồ", được quan niệm hoàn toàn ngược lại.
2 - Một
chiến lược răn đe: Cứ coi là "chiến lược răn đe có hiệu quả" như
trước đây với vũ khí hạt nhân. Trong quá khứ, Mỹ và Liên Xô không
tấn công lẫn nhau bằng vũ khí hạt nhân, vì cùng sợ bị trả đũa.
Thái độ này cũng rất là hợp lý. Kenneth Waltz là một nhân vật nồng
nhiệt chủ trương quan điểm thực dụng trong quan hệ quốc tế. Nhân
vật này khẳng định là càng nhiều nước có vũ khí hạt nhân càng tốt
và vũ khí hạt nhân đóng góp cho việc bảo vệ hoà bình.
Ngay trường hợp
chiến tranh nổ ra giữa các nước có vũ khí hạt nhân, thì cuộc chiến
đó sẽ được giải quyết chóng vánh, vì canh bạc quá lớn và một trong
hai đối thủ sắp chiến thắng thì chắc chắn sẽ bị trả đũa bằng vũ
khí huỷ diệt hàng loạt và như vậy sẽ mất hết. Ngay như những vũ
khí nguyên tử cũ kĩ cũng không thiếu sức tàn phá kinh khủng. Không
ai có thể dự đoán một cách chính xác hậu quả ra sao. Kenneth Waltz
cho đấy chính là ích lợi của chủ trương trên. Waltz còn nhấn mạnh
là "không một nước nào lại đi quấy rối thêm một nước có vũ khí hạt
nhân đang ở trong tình trạng khó khăn" và dẫn chứng lời của
Bernard Brodie: "Chiến tranh phải có một mục tiêu chính trị tương
xứng với cái giá phải trả" và kết luận rằng không một mục tiêu nào
cân xứng với sự tàn phá của nguyên tử.
Scott Sagan thì
bác lại quan điểm của Waltz. Theo ông, chiến lược răn đe hữu hiệu
là dựa vào khả năng có thể trả đũa sau khi bị địch thủ tấn công
nguyên tử. Chung ra thì các nước nhỏ thiếu khả năng trả đũa, như
vậy chiến lược răn đe không thực hiện được đối với các nước lớn.
Kết quả là chiến lược tấn công phủ đầu bằng vũ khí hạt nhân có thể
xẩy ra. Điều này làm ta đáng sợ các nước lớn có vũ khí hạt nhân,
đặc biệt là Mỹ, hơn là các nước ở miền Nam. Sagan thì bảo vệ
thuyết bất trắc này dễ xảy ra ở các nước nghèo vì họ không có hệ
thống báo động đáng tin, có thể nhầm lẫn cuộc tấn công bằng vũ khí
thông thường với cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Sagan khuyến
cáo nên cảnh giác đối với một nước Pakistan dưới sự kiểm soát của
Hồi giáo quá khích. Về phần tôi, tôi thấy cũng cần cảnh giác đối
với bộ ba Bush-Cheney-Rumsfeld, khi họ tán thành chiến lược ưu
tiên đánh phủ đầu.
Tuy nhiên, nguy
cơ có thể do kẻ khủng bố lấy cắp hay mua được, của một nước cẩu
thả trong việc tồn kho hoặc tham nhũng, loại vũ khí huỷ diệt lớn,
kích thước nhỏ, có thể mang trong hành lý xách tay. Việc khẩn cấp
ưu tiên là tăng cường biện pháp an ninh các cơ sở tồn trữ vũ khí
huỷ diệt hàng loạt.
3 - Chính
sách đơn phương: Một chọn lựa mang tính chất đế quốc là Mỹ hành
động đơn phương bằng vũ lực để huỷ bỏ vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
Mỹ tới nay không biểu lộ mong muốn phi hạt nhân hoá các nước đang
có vũ khí hạt nhân. Nhưng Mỹ có thể dùng chính sách đổi lợi lộc
với các nước để họ từ bỏ không tìm cách chế tạo vũ khí huỷ diệt
hàng loạt (củ cà rốt và cây gậy). Cuối cùng, vẫn còn đường lối
phòng ngừa bằng vũ lực, đường lối chủ trương bởi giới thuộc đế
quốc mới.
Đem lợi đổi lấy
việc ngừng chế tạo vũ khí huỷ diệt hàng loạt, được chứng minh đầy
đủ, qua chính sách tài trợ ngân khoản để huỷ diệt số vũ khí dư của
Liên Xô cũ. Chương trình của Mỹ về giảm đe dọa qua hợp tác
(Cooperative Threat Reduction) được biết dưới danh hiệu
Nunn-Lugar, tên hai thượng nghị sĩ Mỹ. Chương trình này nhằm huỷ
diệt vũ khí thặng dư của cựu Liên Xô. Từ tháng 7 năm 2002, chương
trình này đã tài trợ để huỷ bỏ 5 970 đầu đạn hạt nhân, 1 279 tên
lửa và hoả tiễn tầm xa, 829 làn phóng tên lửa, 97 oanh tạc cơ có
tầm bay xa và 24 tiềm thuỷ đĩnh được trang bị tên lửa, tổng cộng
khoảng 1/4 số thừa của kho vũ khí Liên Xô. Nhiều chương trình khác
giúp Ukraine, Bielorussie và Kazakhstan trở thành những nước phi
vũ khí hạt nhân.
Lúc đầu, "Bush
con" chống đối chương trình Nunn-Lugar, dưới áp lực của giới Cộng
hoà bảo thủ. Nhưng tới tháng giêng năm 2003, kết cục chính phủ cho
phép chương trình hoạt động trong ba năm, trên một quy mô nhỏ, với
1/3 ngân khoản 3 tỷ USD đề nghị. Ngân khoản này theo thượng nghị
sĩ Lugar, chủ yếu dùng vào việc huỷ diệt 2 triệu vũ khí hóa học,
đầu đạn tên lửa Scud, tồn kho ở Tchétchénie. Ông ta nhận xét là
những "vũ khí đó vẫn ở tình trạng sử dụng được và trong số đó, có
nhiều loại kích thước nhỏ, dễ chuyên chở, rất nguy hiểm nếu lọt
vào tay các tổ chức khủng bố, các giáo phái quá khích hay các nhóm
bán quân sự". Ông ta nhấn mạnh là số vũ khí dó có khả năng tiêu
diệt dân chúng toàn cầu. Nếu so sánh thì số vũ khí này nhiều hơn
tất cả vũ khí của những "nước côn đồ" có thể tập trung được. Như
vậy, việc huỷ diệt những kho vũ khí này còn quan trọng cho việc
"chống-khuếch- tán hạt nhân" hơn bất cứ chính sách nào chống "trục
ác hại". Thế mà, chính quyền Bush đã tiêu 100 tỷ USD để xâm lăng
Irak và chỉ bỏ ra 1 tỷ USD để loại bỏ những vũ khí của Liên Xô
cũ.
Trong lúc Mỹ đe
doạ các nước đang tìm phương tiện chế tạo các vũ khí huỷ diệt hàng
loạt, chánh quyền Mỹ trong bốn mươi năm, đã làm ngơ trước số vũ
khí nguyên tử và hoá học của Israel. Cũng như hiện tại, đã bỏ qua
những báo cáo của cơ quan tình báo về sự trao đổi kỹ thuật hạt
nhân và tên lửa giữa Pakistan và Bắc Cao Ly, tiếp tục cho tới
tháng 7-2002. Dĩ nhiên là Mỹ không bao giờ nuôi dưỡng ý định giải
giới mình cả, và cũng không chịu một sự kiểm tra nào. Hoặc tán
thành một cuộc kiểm soát toàn diện vũ khí thông thường, vì việc
bán vũ khí của họ là yếu tố tăng sinh vũ khí có sức tàn phá, đồng
thời cũng từ chối ký kết hiệp ước ngăn cấm hoàn toàn việc thử vũ
khí hạt nhân (Traìté d’interdiction complète des essais
nucléaires TICE). Thông thường thì Mỹ hay không phê chuẩn các hiệp
ước hoặc đổi ý kiến về những điều đã cam kết, có khi lại còn vi
phạm các điều khoản của hiệp ước.
Tháng giêng năm
2003, Bộ chỉ huy chiến lược (Stratcom) được phép trù liệu xử dụng
tất cả các loại vũ khí, kể cả vũ khí nguyên tử, trong trường hợp
gặp lực lượng địch ở Irak. Như vậy sự chọn lựa phương tiện quân sự
được trao cho giới quân sự. (Ở bất cứ một nước dân chủ nào, việc
xử dụng vũ khí nguyên tử thuộc quyền duy nhất của chính quyền dân
sự. Vũ khí nguyên tử không còn là phương tiện quân sự mà là một
phương tiện chính trị. Lời dịch giả). Chính sách ngăn chặn việc
khuếch tán vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Mỹ trước tiên nhằm vào
các nước nghèo và thù nghịch, rồi đến các nước nghèo nhưng thân
thiện và sau cùng các nước giàu có, nhưng nó không áp dụng cho
chính nước Mỹ. Điều này không làm an tâm các nước khác. Không vì
lý do nào mà các nước tự "phi-hạt-nhân" hóa để làm tăng thêm ưu
thế quân sự của Mỹ. Chính sách này là một lầm lỗi lớn nhất của
Mỹ.
4 - Chính
sách đa phương: Đây là chính sách cà rốt và cây gậy, cùng với
chính sách liên minh giữa các cường quốc hay với Liên Hiệp Quốc.
Chính sách hạch nhân hiện thời bảo vệ thành viên câu lạc bộ nguyên
tử. Hiệp ước không khuếch tán vũ khí hạt nhân (TNP) cho phép Mỹ,
Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc được bảo toàn kho vũ khí, nhưng một
mặt, cấm các nước khác chế tạo vũ khí hạt nhân, mặt khác lại làm
ngơ cho Israël, Ấn Độ và Pakistan. Nếu qua con đường Liên Hiệp
Quốc thì mọi trừng phạt có được tính cách chính đáng, đồng thời có
thể chia nỗ lực tài chánh trong việc giúp đỡ kinh tế cho nước đối
tượng.
Các công ước về
vũ khí hoá và sinh học, hiệp ước chống khuếch tán vũ khí hạt nhân
(TNP) và hiệp ước cấm toàn diện thử nguyên tử (TICE) đã được ký
kết bởi phần lớn các nước. Các thoả thuận này quy định tiêu chuẩn
chung, kiện toàn bởi các cuộc thanh tra và các biện pháp trừng
phạt trường hợp vi phạm. Irak, Israël và Bắc Cao Ly tìm cách tránh
khỏi việc kiểm soát, còn chính Mỹ thì coi thường tất cả những
chương trình đa phương. Mỗi một thành viên mới của câu lạc bộ các
nước có vũ khí huỷ diệt hàng loạt lại trở nên một nguồn khuếch tán
tiềm tàng vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
- Du kích
quân :
Quân du kích là một đe doạ thứ hai cho nhóm quân phiệt Mỹ. Thật
vậy, chiến tranh du kích không có nhiều đòi hỏi về kỹ thuật và tổ
chức. Nói tới du kích là nghĩ ngay đến khẩu súng liên thanh xung
phong Kalachnikov, với gía rẻ mạt là 15 dollars. Người ta tính ra
là hiện nay có khoảng 100 triệu lưu hành trên thế giới. Nó trở
thành biểu tượng của các phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới. Trên lá cờ của Mozambique có hình khẩu Kalachnikov và được
tượng trưng trên quốc huy của sáu nước. Ngoài ra, không thiếu
những vũ khí khác như tên lửa có thể xách tay, chống trực thăng,
may bay và chiến xa như loại tên lửa Strela-2M của Nga, giá chừng
vài trăm USD, đã từng bắn hạ trực thăng Black Hawk của Mỹ ở
Somalie, trực thăng Nga Mi-26 ở Tchet-chen. Ở Irak, trực thăng Mỹ
cũng bị hạ bởi những vũ khí tốt hơn như loại tên lửa Mỹ Stinger.
Sự sụp đổ của
Liên Bang Xô Viết đã đổ ra một kho vũ khí cá nhân đồ sộ, có khả
năng thách thức với những vũ khí tối tân hơn và làm khiếp đảm
những người dân thường chỉ có tay không. Nhờ kỹ nghệ súng đạn,
trong năm 2001, có tới hơn sáu trăm hãng sản xuất loại vũ khí nhẹ
rải rác trên chín mươi lăm nước, và giới buôn lậu, nên tình trạng
này đã đổi ngược hiệu quả của sự kiện "cách mạng trong sự vụ quân
sự "(RMA, Revolution dans les affaires militaires) của Mỹ, làm cho
cân bằng khả năng chiến đấu của các đối thủ có những phương tiện
kỹ thuật rất chênh lệch nhau.
Những nước nhỏ
yếu ở miền Nam như Somalie, Congo, Liberia, Côte d’Ivoire bị tàn
phá bởi nội chiến với những phương tiện kỹ thuật thô sơ. Ngay cả
những nước lớn mạnh như Nga, Ấn Độ, Nam Dương và Phi-lip-pin cũng
bất lực trong chiến lược dẹp yên nhiều vùng ở xa trung tâm như
Tchetchen, Cachemire, Nam Phi-lip-pin hay khu vực Atjeh. Israël
cũng nhận thấy rằng phi cơ F-16 và súng M-16 cũng bất lực, không
tiêu diệt đươc những nhóm pa-les-tin chỉ được trang bị bằng AK-47
và bom tự làm lấy.
Do đó, đứng về
mặt quân sự, ta thấy con số chiến tranh không có cường độ lớn gia
tăng nhiều. Tuy thế, những tổ chức bán quân sự này không đe doạ gì
Mỹ, khi mà Mỹ không có cai quản các nước này. Nhưng hoàn cảnh thay
đổi hẳn khi Mỹ mưu toan thiết lập một đế quốc, xâm chiếm lãnh thổ
nước ngoài. Dĩ nhiên, không một nước nào có thể chống lại được hoả
lực tấn công của Mỹ, vì vậy, mọi cuộc kháng chiến đều áp dụng du
kích chiến.
- Quân khủng
bố: Quân khủng bố thường hòa vào với các tổ chức bán quân sự.
Cả hai đều xử dụng những vũ khí đã nói ở trên. Nhưng kể từ ngày 23
tháng 10 năm 1983, họ coi như đã hoàn thiện được một vũ khí mới.
Ngày hôm đó, hai chiến sĩ của tổ chức Hezbollah, lái một chiếc xe
tải chứa đầy chất nổ tới tổng hành dinh của lực lượng quốc tế duy
trì hoà bình ở Beyrouth và cho nổ. Tổn thất về nhân mạng là 241
quân nhân Mỹ bị chết. Trong một cuộc khủng bố khác, 58 lính dù
Pháp mất mạng. Những người mang bom tự ý chấp nhận cái chết, trở
thành những người đầu tiên tự tử để mưu sát trong thời đại mới. Sự
đột nhập của quân đội Tây Âu vào Liban để tìm kiếm du kích quân
tại các trại định cư, là đầu mối cho các cuộc mưu sát. Tổ chức
Hezbollah là một phong trào quốc gia libanais hơn là phong trào
Hồi giáo. Thật ra, trong số lãnh đạo tôn giáo, nhiều người phản
đối chiến thuật này, khẳng định là Hồi giáo không có thể bào chữa
cho sự tự sát. Nhưng phương pháp này tỏ ra quá hữu hiệu nên đã lan
truyền ra trong một vùng lớn thuộc khu vực Hồi giáo. Mặc dầu những
thành kiến, các cuộc tự tử để mưu sát không phải là độc quyền của
hồi giáo, và cũng không phải của giới hồi giáo thủ cựu. Thành viên
các phong trào phi giáo hội "giải phóng dân tộc" ỏ Sri Lanka,
Tigres Tamouls, năm 1987, cũng bắt chước Hezbollah, mang bom để
mưu sát. Tới nay, thành viên Tigres Tamouls đã tấn công gần hai
trăm vụ bằng hành động khủng bố tự tử. Phương sách này là vũ khí
cuối cùng của kẻ yếu, và đã phát triển tới chiến tranh Irak.
Quân khủng bố
cũng được sự ủng hộ của các nước có thiện cảm với sự nghiệp của
họ, như cơ quan tình báo ISI của Pakistan đã giúp quân khủng bố
Ca-sơ-mia hay afghan từ hơn mười năm nay. Người hướng dẫn tinh
thần của tổ chức Hamas, Cheikh Ahmad Yassine tuyên bố là: Dân tộc
pa-les-tin không có phi cơ Apache, F-16, thiết giáp và tên lửa.
Tài sản độc nhất của họ là bản thân họ, mà họ sẵn sàng tử vì đạo.
Bác sĩ Ramadan Shalah, tổng thư ký của tổ chức Djihad Hồi giáo
pa-les-tin, khi nói về Israël, khẳng định là :"Kẻ thù của chúng
ta có những vũ khí tối tân nhất thế giới và quân đội của họ có
trình độ huấn luyện rất cao...chúng ta thì không có gì cả...trừ
cách tử vì đạo. Hành động này rất dễ và chỉ mất sinh mạng của ta
thôi. Người ta không thể thắng được, ngay cả bằng bom nguyên tử,
những người biến thành bom.
Tổ chức "Lực
lượng quân sự cách mạng Colombie" (FARC) và "Quân đội giải phóng
quốc gia" (ELN) phản đối một cách chính đáng việc Mỹ chiếm giữ đất
đai của họ để giải quyết vấn đề ma tuy, thì bị trực thăng và phi
cơ Mỹ bắn phá và rải chất hoá học để triệt tiêu việc trồng trọt.
Tỷ số rất cao - 81% - những vụ tấn công vào thường dân hay cơ sở
quyền lợi của Mỹ đều xẩy ra ở Colombie.
Hiển nhiên Mỹ
là một khổng lồ quân sự, đáng coi là nguy hiểm. Sức mạnh tàn phá
của họ có thể làm cho người Mỹ nhầm lẫn và làm họ tin tưởng rằng
sức mạnh đó có thể giúp họ xây dựng một thế giới hoàn thiện hơn.
Nhưng vũ khí nào có thể xây dựng được một thế giới hoàn thiện
không? Công cuộc bình định chống du kích và khủng bố, có thể nào
thực hiện được bằng súng đạn, bằng hệ thống các căn cứ quân sự,
bằng lực lượng khổng lồ với chủ trương tránh thiệt hại sinh mạng
cho quân nhân
Mỹ?
II - MỘT
"ANH LĂNG SĂNG" VỀ KINH TẾ
Nền kinh tế Mỹ
là một bộ máy rất lớn (tuyệt vời). Sau Dệ nhị Thế chiến, khả năng
kinh tế Mỹ sản xuất bằng nửa khả năng của cả thế giới, cũng như
tiền dự trữ mới. Mỹ được trao cho quyền bổ nhiệm các tổng giám
đốc Ngân hàng quốc tế, có số phiếu quan trọng để có thể phủ quyết
mọi sáng kiến. Các hãng Mỹ tập hợp nhiều- nước lan tràn khắp hoàn
cầu. Nhưng nền kinh tế Âu châu và Nhật đã nhanh chóng phục hồi,
còn các nền kinh tế khác phát triển ở Đông châu Á. Kinh tế Mỹ vẫn
giữ vai trò động lực chính của sự tăng trưởng trên thế giới, nhưng
vai trò này hiện nay tuỳ thuộc vào sức tiêu thụ quá đỗi của dân
chúng Mỹ hơn là do ưu thế của kỹ nghệ sản xuất. Về khối lượng sản
xuất tổng quát và trao đổi thương vụ, Mỹ chỉ là một trong ba cực
kinh tế quan trọng, ngang với Cộng đồng châu Âu và trước cực
Nhật-Đông Á châu một ít. Ngoài ra, Mỹ không có quyền quyết định
đơn phương trong các tổ chức như Tổ chức thương mại quốc tế, trong
G8 hay các tổ chức quốc tế phối hợp kinh tế.
Thời suy tàn
của cộng sản đã củng cố sự cạnh tranh kinh tế của các khối địa
phương hơn là ưu đãi kinh tế Mỹ. Mối giây liên lạc kinh tế giữa
Nga và Âu châu mạnh hơn là với Mỹ. Trong năm 2002, trao đổi thương
mại giữa Nga với Cộng đồng châu Âu là 37%, với Mỹ chỉ có 5%. Nước
này còn đứng dưới cả hai nước Đức và Hoà Lan. Đầu tư của Mỹ bằng
16% số vốn đầu tư nước ngoài vào Nga, hơi kém Đức nhưng thua xa
Cộng đồng châu Âu. Ngoài ra, các bạn hàng chính của Trung Quốc là
các xí nghiệp Trung quốc đầu tư ở nước ngoài trong khu vực châu Á.
Rồi đến Nhật và sau đó là Mỹ và Âu châu chia nhau hàng thứ ba. Các
nước cộng sản cũ duy trì mối giây liên lạc mật thiết với các nước
láng giềng hơn là với Mỹ. Đúng ra thì phải nói là miền Bắc bán cầu
giữ tình trạng bá chủ về sản xuất và thương mại, cung ứng 80% sức
sản xuất, thương mại và tài chánh, và 95% hoạt động nghiên cứu và
phát triển.
Chính là nền
tài chánh đã giúp cho Mỹ còn đứng ở hàng đầu. Đồng đô-la, sau khi
bỏ bản vị vàng (étalon d’or) năm 1973, trở thành tiền dự trữ quốc
tế, trong lúc giá trị trao đổi thương mại tại Wall Street có khối
lượng gần hai phần ba thị trường chứng khoán trên thế giới. Thị
trường chứng khoán đều xử dụng đô-la, và phần lớn các nước đều lấy
đô-la làm tiền dự trữ và tiền tiết kiệm. Thế giới đầu tư vào kinh
tế Mỹ qua Wall Street, giúp cho dân chúng Mỹ có thể chồng chất nợ
để tiêu thụ, và chánh quyền Mỹ tài trợ cho những thiếu hụt thương
mại và ngân sách rất lớn. Như vậycó nghĩa là các nước nghèo đã trợ
cấp cho kinh tế Mỹ hơn là nước này giúp đỡ họ phát triển. Chính vì
vậy mà các nhà đầu tư ngoại quốc đã trợ cấp một phần lớn cho quân
lực Mỹ.
Tình trạng này
sẽ không kéo dài nếu Mỹ làm mất lòng đa số các nước trên thế giới
tới mức các nhà đầu tư rút về khối tiền dự trữ của họ. Số dự trữ
này, phần lớn được đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu và cổ phần,
có thể nhanh chóng thanh toán. Tuy vậy, các nhà đầu tư này chỉ bỏ
khu vực đô-la và Mỹ, nếu họ mất tin tưởng vào nền kinh tế hoặc khả
năng của Mỹ có thể bảo đảm sự ổn định kinh tế và địa dư chính trị
thế giới. Từ vài thập niên nay, vì khả năng kỹ nghệ và sản xuất
của thế giới dư ra, nên làm cho mức lợi nhuận thực bị giảm đi. Sau
những vụ tai tiếng về giả mạo kế toán của các xí nghiệp lớn như
Enron hay WorldCom, các xí nghiệp Mỹ không còn là chỗ đầu tư đáng
tin cậy nữa. Hiện nay, giá cổ phần Mỹ đang tụt xuống, tạo ra một
phản ứng dây chuyền trên thị trường chứng khoán Mỹ. Vấn đề không
phải do một số tội phạm. Vấn đề có nguyên nhân ở cơ cấu của Mỹ,
do đặt ưu thế nền tư bản tài chánh trên nền tư bản sản xuất. Thực
tế là những dấu hiệu đầu tiên của sự mất tin tưởng đã xuất hiện
khi dòng vốn về Mỹ bắt đầu giảm xuống từ năm 2000. Tiền đô-la mất
giá khoảng 20% so với đồng euros, thu nhập thuế má xuống cấp trong
khi thiếu hụt ngân sách tăng lên.
Tuy nhiên, rồi
Mỹ và Anh sẽ phải trả giá cuộc xâm lăng Irak năm 2003. Ước tính
chính thức đầu tiên về cuộc chiến này vào khoảng năm mươi tỷ
đô-la, để rồi tiến gần tới một trăm tỷ. Lawrence Lindsey, cố vấn
kinh tế của Tổng thống, tuyên bố là giá phải trả có thể lên tới
hai trăm tỷ đô-la. Ông ta đã bị mất chức. Irak có thể trở thành
một Việt Nam thứ hai. Guồng máy kinh tế không được dự kiến cho
trường hợp này. Thị trường dựa trên sự tin cẩn, và Mỹ không thể
kiểm soát được, bởi vì đó là một hệ thống tư bản. Vì vậy, cái ý
đầu tiên về từ ngữ tôi sử dụng ở chương này là Mỹ "chỉ là một anh
lăng săng về mặt kinh tế", không kiểm soát gì được cả.
Hiện tại, guồng
máy hãy còn chạy khá đủ để tiến hành ba chính sách kinh tế đế
quốc. Trước tiên, Mỹ có quyền lực ngăn cản bất cứ kẻ thù nào, thật
hay tưởng tượng, được tiếp xúc tới nguồn tài nguyên kinh tế, bằng
cách trừng phạt kinh tế. Thứ hai, Mỹ có khả năng chấp thuận các
lợi ích kinh tế: giúp đỡ, cho vay với lãi xuất rẻ, giảm bớt quan
thuế, cung ứng vũ khí. Nhưng đây không phải thuần túy là món quà.
Bởi Mỹ bắt buộc các nước nhận viện trợ phải dùng ngân khoản này để
mua sản phẩm và dịch vụ của Mỹ. Sau cùng, Mỹ theo đuổi chính sách
mà mục tiêu là khích động thế giới mở thương khẩu hơn nữa, căn cứ
vào lý tưởng mà ta gọi là "chủ nghĩa tự do mới "
- Việc
trừng phạt kinh tế của Mỹ: Hành động đơn phương trừng phạt
kinh tế chỉ hiệu quả khi được thực thi ở các nước gần Mỹ về phương
diện địa lý, như Cuba lụn bại vì bi Mỹ cấm vận mà không có khả
năng thay thế tác nhân thương mại ở quá xa, như Âu châu hay Nhật.
Chính sách tàn nhẫn của đế quốc kinh tế, mặc dầu sự bài xích của
nhiều nước, làm cho các nước trong khu vực Trung Mỹ không dám theo
chân Cuba, chống đối Mỹ.
Nhưng tại các
địa phương khác, chính sách cấm vận chỉ hiệu quả khi có sự đồng ý
của cộng đồng thế giới. Ngược lại, việc trừng phạt đơn phương của
Mỹ không đem lại kết quả gì, vì các nước cạnh tranh nhau sẽ vội vã
thay chân chiếm thị trường. Mỹ có cố sức điều khiển các nước,
nhưng cũng vẫn cần sự ủng hộ của họ để có thể áp dụng được cấm
vận.
-
Chương trình giúp đỡ và phát triển: Giới Mỹ trung bình, theo
những cuộc thăm dò dư luận, tin rằng đất nước họ để ra 15% tổng
ngân sách để giúp các nước ngoài.
Thật là một lầm lẫn. Những chương
trình giúp đỡ không nghĩa lý gì và càng bớt đi từ năm 2003. Bất
ngờ ông Bush đã tuyên bố tăng viện trợ dần dần trong tương lai.
Trong năm 2005, số tiền viện trợ cho ngoại quốc đạt tới mười tám
tỷ đô-la, gấp đôi số tiền năm 2001. Nhưng tiền viện trợ này tính
theo giá trị hằng số (valeur contante) thì chỉ bằng một nửa số
viện trợ năm 60 và số tiền cho năm 2005 chỉ bằng 0,2% tổng sản
lượng quốc nội (PIB).
Cách đây ba mươi năm, LHQ yêu
cầu các nước giầu có nhất hãy cấp cho việc trợ giúp quốc tế 0,7%
tổng sản lượng quốc nội, một số tiền không có gì là to lớn. Chỉ có
bốn nước ở Âu châu là đạt được mục tiêu này. Mỹ là nước đứng đội
sổ trong số hai mươi hai nước giàu có cho tiền và tiếp tục ở vị
trí đó trong năm 2005. Hoà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển và Đan Mạch bỏ ra
hơn mười lần/đầu người. Viện trợ Mỹ ít hơn một nửa tiền bán vũ khí
cho ngoại quốc, trong khi ngân sách quân sự cộng với kinh phí của
Bộ ngoại giao dành cho an ninh năm 2003 lên tới con số làm chóng
mặt là ba trăm chín mươi tỷ đô-la, bằng ba mươi lần số tiền dành
cho viện trợ trong cùng một năm. Ưu tiên của đế quốc hiển nhiên là
nhiều vũ khí hơn là bơ. Một phần tư ngân quỹ dành cho viện trợ
trên thực tế là dùng cho các chương trình huấn luyện quân sự, phần
khác cho "việc giúp đỡ an ninh", nói cách khác là cung ứng vũ khí.
Mặt khác, điều đáng ngạc
nhiên nếu biết nước nào đã hưởng những viện trợ ấy? Nó không tới
được các nước nghèo nhất. Một phần ba số viện trợ được dành cho
một nước trong số hai mươi nước giàu nhất trên thế giới-Israël.
Một phần năm cho Egypte, sau tới Jordanie. Như vậy, phần lớn viện
trợ được dùng để hỗ trợ cho một nước nhỏ, Iraël với dân số bằng
một phần nghìn dân số hoàn cầu. Tính ra mỗi người dân Do Thái nhận
được năm trăm đô-la mỗi năm của người dân Mỹ. Còn lại mười phần
trăm viện trợ kinh tế mới đến tới những nước cực nghèo trên thế
giới. Tiền viện trợ cho Phi Châu tính ra mỗi người được tăng từ ba
xu đến mười xu. Người ta tự hỏi với số tiền đó thì họ mua được
những gì?
Israël hưởng ưu đãi đặc biệt
là được viện trợ bằng tiền mặt, tự do xử dụng tiền, không cần phải
thanh minh, không bắt buộc phải mua sản phẩm của Mỹ và có thể
dùng tiền viện trợ để làm mọi thứ, từ tên lửa hạt nhân hay xây nhà
thờ. Các nước khác bắt buộc phải mua hàng của Mỹ và nêu lý do chi
tiết việc quản trị ngân khoản. Từ nhiều năm, Israël là nước được
viện trợ quân sự quan trọng nhất, trị giá hai tỷ hai đô-la, sau
tới Egypte đứng hàng thứ nhì với số viện trợ 1,3 tỷ và Jordanie
với hai trăm triệu, Colombie một trăm triệu. Israël còn có đặc
quyền trực tiếp mua vũ khí của giới cung cấp vũ khí Mỹ, mà không
phải thông qua sự kiểm tra nào của bộ quốc phòng Mỹ.
Nói về yếu tố trợ giúp để
phát triển thế giới của Mỹ thì thật ra ít ỏi. Về phương diện này,
nói đây là một đế quốc "nhân từ" thì thật là gỉa đạo đức. Nhân từ
ở đây được đặt vào mức chiến lược. Mỹ ủng hộ Israël, bỏ tiền mua
các nước chung quanh để họ có thái độ dung hoà với Israël, giúp đỡ
các nước thuộc Liên bang Xô viết cũ để biến các nước này thành khu
đệm giữa Mỹ và Nga. Hai nước Colombie và Pérou nhận được phần lớn
viện trợ dùng cho Châu Mỹ la-tin, vì vấn đề chống ma tuý xuất phát
từ đây. Cũng như trường hợp các nước Pakistan, Yemen, Djibouti,
Indonésie, Qatar, Oman, Géorgie, Philippines, ủng hộ Mỹ trong các
cuộc chiến hiện tại, được hưởng viện trợ kinh tế và quân sự dưới
hình thức mới. Điều này cũng không có gì là ác ý. Chỉ có là đế
quốc ban thưởng cho các đồng minh chiến lược của họ, chứ không
phải cho toàn thể thế giới. Hành động này thua xa hành động vô vị
lợi của các nước Hoà Lan và Thuỵ Điển.
Viện trợ này tuy ít ỏi, nhưng
vẫn bị giới thủ cựu chỉ trích. Để đáp lại thái độ chỉ trích của
giới thủ cựu, chánh phủ Mỹ cho ra chương trình "Millennium
Challeng Account" tháng ba năm 2002. Chương trình này tăng cường
viện trợ Mỹ bằng những hợp đồng song phương. Các nước muốn hưởng
các khế ước này, phải có tinh thần trách nhiệm và chấp nhận ba
nguyên tắc :
- Một chánh phủ cầm
quyền tốt (bonne gouvernance)
- Thanh toán tham
nhũng, tôn trọng nhân quyền và luật pháp,
- Lấy những biện pháp
chiếu cố đến tình trạng y tế và giáo dục (đường lối kinh tế đúng
đắn, thúc đẩy đầu óc kinh doanh. Thị trường tự do, ngân sách đứng
vững được, tự do kinh doanh và sáng tạo)
Đây chính là nguyên tắc cột
trụ của đường lối tự do mới, một lần nữa che giấu quyền lợi kinh
tế của Mỹ, bởi vì các nước bắt buộc phải tán thành luật lệ của Mỹ
về "quyền sở hữu trí tuệ ", nói cách khác là các bằng sáng chế của
Mỹ.
Theo chương trình này, các
nước nghèo phải cạnh tranh để có được sự viện trợ. Nhưng chỉ có
dưới mười hai nước được coi là đủ tiêu chuẩn, nên số tiền trợ giúp
tổng quát trung bình một trăm triệu đô-la, quá ít so với Israël.
Vì cùng lúc, nước này xin Mỹ trợ cấp 10 tỷ đô-la. Mỹ đồng ý bảo
đảm cho vay 9 tỷ và 1 tỷ cho viện trợ quân sự.
Đáng tiếc là một phần ba các
nước ở miền Nam không thực hiện được nguyên tắc "cầm quyền tốt ".
Số nước này đúng là những nước nằm ở dưới đáy, bị thải khỏi nền
kinh tế quốc tế. Đầu tư từ nước ngoài và nền thương mại quốc tế
của họ bị thụt lùi. Trong một vài nước đó, các lãnh đạo độc tài,
các đại tá hay lãnh chúa, đã phát minh ra một thứ tư bản
kalachnikov. Trong khi ấy thì dân càng nghèo nàn, quyền con người
bị trà đạp, không chống nổi bệnh tật và đói khổ.
Viện trợ Mỹ có góp phần vào
sự phát triển của một số nhỏ các nước, nâng đỡ một vài nước thân
hữu, mặc dầu tính chất trấn áp và nghèo khổ của chế độ. Viện trợ
này được hoàn toàn dành riêng cho lãnh vực quân sự. Cho tới nay,
Mỹ không vận dụng chính sách đầu tư cần thiết cho việc xây dựng
một đế quốc.
- Tự do mậu dịch:
Những chương trình viện trợ không thể mang lại được sự phát triển
bền vững, trừ phi ở quy mô chương trình Marshall hay sự giúp đỡ
Israël. Nhưng viện trợ ít quan trọng hơn là thương mại. Phi châu
chỉ góp 2% vào nền thương mại quốc tế và con số này cũng xuống
cấp. Tuy vậy, mặc dầu tỷ lệ yếu kém này, nhưng còn 10 phần trọng
yếu cho nền kinh tế của đại lục hơn là mọi viện trợ có thể nhận
đươc. Chánh quyền Mỹ gần đây tuyên bố rằng thị trường tự do là cơ
sở của đường lối Mỹ về phát triển. Đối với Mỹ, chức năng chính của
một chánh phủ là vận dụng một chính sách thuận lợi cho thị trường
và giảm bớt vai trò của chánh phủ. Người ta gọi đây là "chủ nghĩa
tự do mới" (néolibéralisme) hay là "sự nhất trí" của Hoa Thịnh
Đốn, một trong nhưng tư tưởng chủ yếu (idées-forces) của đế quốc
Mỹ.
Sự phi-kế-hoạch-hóa nền
thương mại quốc tế có lợi cho những xuất khẩu chính của những nước
nghèo, gồm sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm kỹ nghệ thô sơ, tương
đối thuận lợi hơn các nước giàu, nhờ ở nhân công rẻ. Các nước này
đón nhận tự do mậu dịch một cách hồ hởi trong lãnh vực nông nghiệp
với Mỹ cũng như các nước giàu có ỏ miền Bắc. Để bảo vệ, những
nước này trợ cấp cho nông nghiệp của họ một số tiền lớn hơn 6 lần
tổng số tiền các chương trình viện trợ quốc tế. Mặt khác, về kỹ
nghệ tiên tiến, các nước phía Nam, trong hoàn cảnh tự do mậu dịch,
thường không đủ sức cạnh tranh được với miền Bắc.
Tự do mậu dịch thường được ca
tụng vì có tiếng vang lý tưởng gợi lên ở nước Mỹ. Các chính khách
Mỹ thường coi như một phương trình việc mở rộng thị trường, tự do
mậu dịch với tự do dân chủ. Trong bài diễn văn về tình trạng Liên
Bang năm 2002, tổng thống Bush tuyên bố:"Trong mỗi khu vực, việc
mở rộng thị trường, tự do mậu dịch và một xã hội tự do chứng tỏ
khả năng nâng cao đời sống... Chúng ta chứng minh là các lực lượng
khủng bố không có thể làm ngừng lại động lực của tự do". Ông ta
muốn nói bóng gió là mọi đối lập với tự do thị trường và tự do mậu
dịch coi như tương đương với sự giúp đỡ "lực lượng khủng bố".
- Chủ nghĩa tự do
mới và quyền lợi của Mỹ: Mỹ đứng đầu phong trào dẫn tới việc
mở rộng thị trường thế giới. Tỷ xuất thuế quan chỉ có 4%. Phần lớn
kỹ nghệ Mỹ vì giá có thế cạnh tranh nên thuận lợi trong nền thương
mại mở rộng. Các ngân hàng Mỹ đầy vốn, nhất thiết muốn cho vay
tiền ở ngoại quốc qua trung gian thị trường vốn (capitaux libres)
tự do.
Trong lúc những lĩnh vực của
kinh tế Mỹ được bảo vệ nhiều nhất thì lại là những lĩnh vực chuyên
môn của các nước nghèo. Nông nghiệp là lĩnh vực được che chở nhất.
Do đó, nông gia Mỹ nhận được trợ cấp trực tiếp nên tốn phí xuất
cảng ở mức tối thiểu. Ngược lại với những nước giàu có khác, Mỹ
không có viện trợ tiền mặt cho các nước thiếu lương thực thực
phẩm. Vì, họ có thể tự mua thực phẩm và như vậy giúp cho nông
nghiệp của họ phát triển. Ngược lại, Mỹ xuất khẩu thặng dư thực
phẩm đến các nước trên nhằm mục đích "khai triển thị trường tiêu
thụ" cho chính thực phẩm của mình-gây thiệt hại cho nông dân sở
tại mà sản phẩm không cạnh tranh được với sản phẩm xuất khẩu được
trợ cấp của Mỹ. Đây không còn là "viện trợ" nữa, mà là một hình
thức lừa đảo tàn nhẫn. Dĩ nhiên là các nước giàu bảo vệ quyền lợi
của mình về các lãnh vực nông nghiệp, kỹ nghệ vải vóc, quần áo và
giầy dép, chống các nước nghèo nhiều hơn là chống lại nhau, đem
lại hậu quả là tổn hại cho các nước kém năng khiếu. Chỉ cần so
sánh hàng nhập cảng của Pháp, nước giàu, với hàng của Bangladesh,
nước nghèo nhất thế giới thì đủ thấy rõ. Số lượng nhập khẩu Pháp
tính theo giá đô-la cao hơn 13 lần số lượng của Bangladesh. Nhưng
tiền thuế quan nhập khẩu, Bangldesh phải trả cho Mỹ cao hơn thuế
quan nhập khẩu của Pháp vào Mỹ. Số tiền thuế quan 331 triệu USD,
mà Bangladesh phải trả cho Mỹ làm lu mờ số tiền 84 triệu, viện trợ
của Mỹ cho Bangladesh. Của cải phong phú lại được phân phối lại
cho các nước giàu.
Ông Bush đồng thời làm ngược
lại thuyết tự do mậu dịch. Vào tháng ba năm 2002, khi muốn thoả
mãn những đòi hỏi của các khối áp lực, ông đã bất thần tăng thuế
nhập khẩu sắt lên 30% và tăng trợ cấp cho nông sản lên 80%. Ông ta
miễn thuế nhập cảng sắt cho 80 nước nghèo "những nước không có kỹ
nghệ luyện kim". Bộ trưởng bộ sản xuất Á-Căn-Đình, José
Ignacio de Mendiguren than phiền là "Sự thực là Mỹ không muốn mua
hàng của chúng tôi. Á Căn Đình là một nước sản xuất lớn với giá
rất hời về lãnh vực nông sản, nhưng chúng tôi phải cạnh tranh với
nông sản Mỹ và Âu châu, không những họ đóng cửa biên giới đối với
sản phẩm của chúng tôi, mà còn trợ cấp cho nông sản của họ, cùng
loại mà chúng tôi sản xuất. Từ trước đến nay vẫn như thế. Bất cứ
sản phẩm nào mà Á Căn Đình có thể xuất khẩu thì chúng tôi đều biết
rằng Mỹ sẽ điều chỉnh sự trao đổi thương mại để bảo vệ các nhà sản
xuất Mỹ trên lưng chúng tôi."
Chế độ thuế quan bảo vệ vô
liêm sỉ nhất là sự thoả thuận chi phối quyền sở hữu trí tuệ
(propriété intellectuelle) và các chứng chỉ phát minh mà các nước
giàu áp đặt lên tổ chức thương mại quốc tế. Hiệp định này đặc biệt
bảo vệ các kỹ nghệ dược được bán với giá cao, các dược phẩm cần
thiết cho sự sống còn của dân chúng các nước nghèo. Thuốc chữa
sida cho một người trong một năm lên tới 10 000 USD, nhưng nếu sản
xuất tại Ấn Độ hay Brésil thì chỉ tốn 300 USD. Nhưng dưới áp lực
của Mỹ, Tổ chức thương mại quốc tế tuyên bố là những thuốc này là
làm giả. Thực là một sự xâm phạm trắng trợn nhân quyền nên,
TCTMQT, trong những buổi họp trong năm 2001 đã cho phép các nước
đang phát triển được sản xuất thuốc này dưới dạng thuốc cùng chủng
loại (médicaments génériques). Nhưng đến tháng 12 năm 2002, Mỹ đã
làm thất bại hiệp định trên.
- Giải phóng dòng
tài chính (flux financiers) và Chương trình sửa đổi cơ cấu:
Sự đột khởi chính của thuyết tự do mới của Mỹ nằm trong lãnh vực
tài chánh, qua Quỹ tiền tệ quốc tế (FMI), Ngân hàng quốc tế và các
ngân hàng khác về phát triển, tất cả đều dưới sự kiểm soát của Mỹ.
Nguyên Tổng Thư Ký LHQ, Boutros Boutros-Ghali, nhận định rằng, sau
chiến tranh lạnh, thế lực của Mỹ càng tăng lên thì vai trò của
LHQ, trong công việc phát triển thế giới càng yếu đi: "Sự hợp tác
và phát triển kinh tế, thuộc thẩm quyền của LHQ, được chuyển vào
tay của Ngân hàng quốc tế, Quỹ tiền tệ quốc tế và Tổ chức thương
mại quốc tế. Hội đồng kinh tế và xã hội (Conseil économique et
social) của LHQ chỉ còn là một cơ quan qua đó các nước nhận viện
trợ bầy tỏ hy vọng và ước mơ của họ." Trong thập niên 70, các
ngân hàng thuộc miền Bắc cho vay với xuất lãi rất thấp, nên các
nước miền Nam đã vay những số tiền lớn để đầu tư vào phát triển.
Nhưng đến năm 1979, Paul Volker bất thần tăng lãi xuất Mỹ lên cao.
Tình trạng này làm cho các nước miền Nam không còn khả năng trả
lãi và vốn, đưa tới cuộc khủng hoảng trầm trọng, làm rung chuyển
các nước miền Nam.
Do Ngân khố Mỹ kiểm soát FMI
và BM, nên cơ quan này trong thực tế trở nên như một chủ nợ của
thế giới và áp đặt điều kiện trả nợ theo thuyết tự do mới, mà
người ta gọi là "chương trình sửa đổi cơ cấu". Mục đích chính của
những cơ quan tài chánh này không phải là vấn đề phát triển kinh
tế, mà là vấn đề trả nợ. Trong mục đích đó, Mỹ tính áp đặt chương
trình tự do mới, gồm: chính sách thuế khoá- austérité fiscale-
(giảm chi tiêu ngân sách và tăng thuế), lãi xuất cao, ổn định tiền
tệ, mở rộng tự do thương mại, thị trường vốn và lao động, bỏ những
kiểm soát của chánh phủ. Thị trường là vua.
- Thuyết tự do mới
và quyền lợi giai cấp: Phần lớn các kinh tế gia đều nhìn nhận
là các chương trình kinh tế được chấp nhận trong thập niên 80–90,
đã làm tăng thêm sự bất bình đẳng tại châu Mỹ - La tinh. Samuel
Morley chứng minh là những cuộc cải cách thuế khoá thực sự có hại
nhất, khi giảm tỷ xuất cơ sở đánh thuế để thúc đẩy đầu tư và tăng
thuế hàng tiêu thụ nhằm tránh ngân sách thiếu hụt. Thành ra, người
giàu được hưởng tỷ xuất thuế thấp, ngược lại người nghèo bị mất
phần lớn thu nhập để trả thuế hàng tiêu thụ hàng ngày.
Hiện nay, ở tại các nước
nghèo, các kỹ nghệ khai thác rừng và mỏ, cũng như kỹ nghệ thực
phẩm nông sản, tìm cách lợi dụng đất đai của những nông dân bị phá
sản. Các công ty kỹ nghệ này, được sự ủng hộ của chánh quyền, sẵn
sàng làm mọi thứ để thu hút đầu tư ngoại quốc và duy trì nạn tham
nhũng. Tình trạng này là nguyên nhân của những cuộc nội chiến lan
tràn trong những vùng xa xôi ở Colombie, Guatemala, Ấn Độ hay Nam
Dương. Thật ra, một cuộc cải cách ruộng đất có thể giải quyết được
vấn đề và nước Mỹ có thể đóng góp. Nhưng, ngay cả sau khi chiến
tranh lạnh chấm dứt, thành kiến giai cấp của Mỹ vẫn còn nguyên
vẹn. Mỹ chứng tỏ sự thiên vị rõ rệt trong cách xử sự đối với nhiều
chiến cuộc, chẳng hạn ở Colombie, giữa du kích nông dân và thân
binh võ trang của các đại điền chủ hoặc ở Nepal giữa du kich
Mao-ít và hoàng gia ủng hộ địa chủ. Trong hai trường này, Mỹ giúp
đỡ quân sự để đàn áp các phong trào nổi dậy.
Chánh quyền Mỹ không chút do
dự làm áp lực lên các chánh quyền ngoại quốc nhân danh quyền lợi
của các nhóm tư lợi. Hợp đồng ký kết giữa nhà máy điện Mỹ ở Dabhol
và tiểu bang Maharashtra ưu đãi cho xí nghiệp nhờ ở tiền đút lót
cho nhân viên chánh quyền. HRW phát giác ra những chứng cớ là xí
nghiệp đã đút lót cảnh sát địa phương đàn áp nông dân biểu tình
phản đối khi bị cưỡng đoạt đất và nước.
Chánh phủ Ấn thử tìm cách
điều đình lại hợp đồng nhưng đã gặp phải áp lực rất mạnh của xí
nghiệp và chánh phủ Mỹ. Trước buổi hội kiến giữa ông Bush và
Vajpayee, thủ tướng Ấn, xí nghiệp nói trên thú nhận đã bất hợp
pháp khai man tiền lời quá lên 600 triệu USD. Tai tiếng này đưa xí
nghiệp đến tình trạng vỡ nợ. Xí nghiệp này có tên là Enron.
Vụ này cho thấy sự bất bình
đẳng đối xử. Một mặt, các nhân viên cao cấp nhất của chánh phủ làm
mọi cách để nâng đỡ quyền lợi của các xí nghiệp khổng lồ (nguồn
tài trợ tài chánh cho cuộc tranh cử của Bush, và các hoạt động
"tội ác"). Mặt khác, không cho phép một sự giúp đỡ nào cho thợ
thuyền. Bên khinh bên trọng là một trong những mâu thuẫn của chánh
sách Mỹ. Trong suốt thời gian chiến tranh lạnh, chánh sách này
được coi như chính sách phòng thủ của tự do kinh doanh chống cộng
sản. Từ khi cộng sản sụp đổ, công nhân đã thay thế vào địa vị kẻ
thù. Thuyết tự do mới không phải chỉ là một lý thuyết kinh tế, mà
là chiến tranh giai cấp và sự vận dụng nó chỉ làm tăng thêm các
cuộc xung đột.
- Sự tăng trưởng của
thuyết tự do mới: Giới theo thuyết tự do mới công nhận là
những chương trình sửa đổi cơ cấu có thể, trong ngắn hạn, đưa tới
sự bất bình đẳng và giảm quyền lợi của giới lao động. Nhưng trong
dài hạn, những thành kiến về giai cấp không quan trọng, kinh tế sẽ
phát triển và ai cũng sẽ được hưởng lộc. Người ta gọi đó là
"trickle-down economics" hoặc "économies des retombées" mà chúng
ta có thể dịch là hưởng của rơi vãi. Diễn viên hài kịch Bill Maher
thích dùng danh từ sống sượng hơn là "pissing-down economics ".
Dân giàu đứng trên vai trên cổ người nghèo để đái xuống.
Thuyết tự do mới chi phối hai
thập niên 80-90, sau 2 thập niên theo thuyết của J.M. Keynes. Sự
tăng trưởng kinh tế tại những khu vực nghèo nhất thế giới bị xuống
cấp bất thần trong hai thập niên đó. Giới tự do mới hài lòng và
chứng minh là nền thương mại quốc tế mang lợi ích cho sự tăng
trưởng. Nhưng họ không chứng minh được sự quan hệ qua lại giữa tỷ
xuất thuế quan và tỷ xuất tăng trưởng. Một quốc gia dĩ nhiên tha
thiết hội nhập vào thị trường thế giới, nhưng quốc gia đó sẽ gặp
nhiều nguy hiểm nếu chỉ vào để mở thị trường quốc gia cho sự cạnh
tranh của ngoại quốc
Joseph Stiglitz, giải thưởng
Nobel về kinh tế, trong cuốn sách La Grande Désillusion của ông,
đã tấn công tổng quát thuyết tự do mới, viện lý là phần lớn các
chương trình của Ngân hàng thế giới, trong cuộc khủng hoảng tài
chánh tại châu Á năm 1998, đã chỉ làm tăng thêm khủng hoảng. Việc
buộc các chánh phủ phải áp dụng chính sách thuế má khắc khổ
(austérité fiscale) trong tình trạng kinh tế suy thoái đã chỉ làm
cho tình trạng xấu hơn vì cung cầu bị chậm lại, đưa tới bất ổn xã
hội. Trong năm 1998, chính phủ Nam Dương, hủy bỏ trợ cấp thực
phẩm, theo lệnh của FMI, tức khắc gặp phải những cuộc nổi dậy của
dân đói. Tỷ xuất lãi cao, do FMI quyết định, cũng làm cho nhiều xí
nghiệp bị phá sản, tuy có sinh lợi. Theo lý thuyết thì không có gì
đáng lên án việc tư hữu hoá các xí nghiệp, nhưng nhà nước phải có
khả năng quy định và giới hạn tình trạng độc quyền hậu quả của
chương trình trên. Phần lớn các nước đang phát triển không có được
một loại chánh phủ như vậy, vì vậy tư hữu hoá làm nẩy nở một loại
tư bản "ăn cắp" như tư bản Nga.
Lịch sử đã cho một luận chứng
quyết định. Ở thời buổi mới, ngoại trừ nước Anh ở thế kỷ 18, không
một nước nào thúc đẩy nổi sự tăng trưởng kinh tế thực sự qua những
biện pháp như biện pháp tự do mới hiện nay. Tất cả đều trợ cấp cho
nền kỹ nghệ phôi thai và xuất khẩu, quy định thuế nhập khẩu và đặt
cơ chế hành chánh để điều hoà vấn đề đàm phán và bảo vệ xã hội.
Chỉ sau đó mới bắt đầu đi vào quá trình tự do hoá. Sơ đồ này được
chứng minh qua sự phát triển của Mỹ và Đức vào cuối thế kỷ 19,
cũng như sự trỗi dậy của Nhật và các con rồng Đông Á trong những
năm 50-60. Alice Amsden nhận thấy là kỹ thuật "chủ nghĩa nhà nước"
về phát triển, được áp dụng ở Nhật và Đông Á, lan rộng đến các
nước được coi là mẫu mực của thành công như Trung Quốc, Ấn Độ, Nam
Dương, Mã Lai, Đài Loan, Thái Lan, Brésil, Chili, Mexique và Thổ
Nhĩ Kỳ. Các nước này đã trợ cấp cho công nghệ tiền tiến và xuất
khẩu sản phẩm chế tạo với các hợp thành sản xuất tại địa phương,
đầu tư vào công trình nghiên cứu và phát triển.
Những chỉ trích gần đây chống
thuyết tự do mới của FMI và Ngân hàng thế giới đã đem lại kết quả.
Thời gian trước, sự phân xử của Ngân hàng thế giới không đếm xỉa
gì đến chánh quyền các nước ngoài việc lên án, nay thì họ chịu
công nhận là một chánh quyền hữu hiệu mang lại tăng trưởng.
- Thuyết tự do mới
và chủ quyền quốc gia: Những cải tổ tự do mới là nguồn gốc
của sự khuấy động chính trị và bài Mỹ. Dĩ nhiên không thuộc giới
giàu có, nhưng người dân thường cảm thấy những đường lối đó là bộ
phận khăng khít của một đế quốc kinh tế toàn cầu, trong đó kẻ giàu
bóc lột quần chúng và Mỹ bóc lột phần còn lại của thế giới. Các
chánh quyền của các nước ở phía Nam bán cầu có nhiệm vụ đáp ứng sự
biểu lộ cảm tính trên. Là một quốc gia có chủ quyền như những nước
khác, chính họ phải thực thi đường lối kinh tế của họ chứ không
phải là đường lối do nước Mỹ hoạch định. Họ có những ưu tiên chính
trị của chính họ.
Ngay một nước mắc nợ cũng
không thể thực hiện những cải tổ do Mỹ áp đặt. Về mặt kinh tế toàn
cầu, chánh quyền Mỹ chỉ đóng vai trò của một anh lăng săng, quấy
rối người xà ích - nhà nước chủ quyền - nhiều lúc lại roi vọt để
nhắc nhở họ trở lại trật tự. Nhưng không phải Mỹ là người cầm
cương. Làm người xà ích tức giận, Mỹ chỉ làm tăng thêm khả năng
tai nạn.
Á Căn Đình, trong thời gian
kinh tế tăng trưởng, đã để đồng peso theo hối suất của đồng đô la,
làm mất đi chủ quyền tài chánh. Như vậy đã chấp nhận đồng peso mà
tỷ suất hối đoái do Mỹ quyết định, không liên quan tý gì đến những
điều kiện kinh tế của Á Căn Đình. Cuộc khủng hoảng về tiền tệ ở
châu Á năm 1998 đã tạo ra những vấn đề nghiêm trọng. Sản phẩm xuất
khẩu Á Căn Đình trở nên quá đắt. Xuất khẩu xuống thấp làm giảm thu
nhập ngoại tệ để trả nợ (bằng đô la). Chánh phủ không đủ tiền cần
thiết để giữ thăng bằng ngân sách.
Cuối năm 2001, chánh phủ
Eduard Duhalde đứng trước tình trạng, một mặt bị FMI đòi hỏi phải
triệt để giảm chi phí công cộng để đổi lấy viện trợ 15 tỷ đô la,
mặt khác, là những cuộc biểu tình vĩ đại chống mọi biện pháp giảm
ngân sách. Á Căn Đình chống lại, không giảm ngân sách và tiếp tục
vay cộng đồng quốc tế với lãi xuất rất cao, lấy lại quyền tự chủ
tài chánh, phá giá đồng peso, ra khỏi liên hệ với đô la, hạ giá
hàng xuất cảng, tái lập được thu nhập ngoại tệ.
Bỏ ngoài tai khuyến cáo của
FMI là phải giảm chi tiêu công cộng 60%, trước tháng hai năm 2003.
Duhalde cho biết làm như vậy sẽ phải sa thải bốn trăm nghìn nhân
công và nạn thất nghiệp hiện thời 20% sẽ tăng vượt mức tới 25%.
Các cuộc biểu tình phản đối chánh phủ, FMI và các ngân hàng ngoại
quốc rơi vào bạo lực với hơn trăm người thiệt mạng. Chánh phủ của
Duhalde nhất định không lay chuyển trước những yêu sách của FMI,
và đến cuối năm 2003 thì nền kinh tế bắt đầu phục hồi trở lại.
Sau đó, phong trào tả khuynh ôn hoà lan truyền khắp các nước Mỹ la
tinh. Nestor Kirchner, thuộc đảng peroniste trúng cử tổng thống.
Ở Brésil, Venezula, Equateur, Bolivie phong trào tả khuynh nắm
được chánh quyền. Những tuyên bố và diễn văn của họ đều nêu lên rõ
ràng là thuyết tự do mới do Mỹ đề ra là không sử dụng được.
- Hiểm hoạ quan trọng
tới đâu? : Được nuôi dưỡng bởi hệ thống tài chánh quốc tế, bộ máy
sản xuất của Mỹ hãy còn phi thường. Nhưng Mỹ không khác gì con
ruồi lăng săng quanh chiếc xe, vì bất lực trong việc kiểm soát
trực tiếp các nền kinh tế hay đầu tư của ngoại quốc. Mỹ rất ít
quyền hạn trên những nền kinh tế của các nước ở Bắc cầu và các
nước lớn như Nga, Trung Quốc hay Ấn Độ. Đối với các nước ở Nam
cầu, những chương trình sửa đổi cấu trúc và các hiệp định thương
mại có ít nhiều áp lực, ảnh hưởng đến những nền kinh tế, nhưng
thực sự không hướng dẫn được. Cũng có lúc, thỉnh thoảng con ruồi
cầm được cương xe. African Growth and opportunity Act, hay là luật
về tăng trưởng và khả năng kinh tế ở Phi châu năm 2000, có một
điều khoản cấm các nước Phi châu đã ký hiệp định, không được chống
đối đường lối ngoại giao của Mỹ. Mỹ đã dựa vào điều khoản trên để
có được sự ủng hộ cuộc xâm lăng Irak của mình. Đại sứ đảo Maurice
bị cách chức vì không chịu ký. Phần lớn các nước thường theo chỉ
thị của Mỹ. Nhưng lần này, họ giữ vững lập trường, chống lại việc
xâm lăng Irak. Tháng hai và tháng ba năm 2003, Mỹ đem tất cả những
lý lẽ về kinh tế, lần lượt sử dụng kế hoạch củ cà-rốt và cây gậy,
để kéo một số đông các nước trong Hội đồng bảo an về phe mình.
Nhưng thất
bại. Chili, Mexique, Pakistan, Guìnée, Angola và Cameroun đã không
ký ủng hộ việc tấn công Irak.
Những chương
trình giúp đỡ phát triển không đáng kể và phụ thuộc vào mục tiêu
quân sự chiến lược. Thuyết tự do mới không đem lại tăng trưởng cho
những khu vực bị thua thiệt trên trái đất. Nó chứng tỏ tính thiên
vị của Mỹ với các nước thuộc Bắc cầu và những giai cấp giàu có
trên thế giới. Còn đi theo con đường này, nước Mỹ sẽ làm nảy nở
một sự đe dọa quan trọng. Nếu Mỹ tiếp tục bảo vệ các nước giàu và
dựa vào các bạo chúa đồng minh thì Mỹ sẽ gặp sự chống đối trên
khắp hoàn cầu. Không phải sự nghèo khó đưa đến khủng bố mà là sự
áp bức. Nghèo khó là đất ươm của ức hiếp, của lý tưởng chống áp
bức và sự ủng hộ của quần chúng cho khủng bố.
III - TÂM
THẦN PHÂN LẬP VỀ CHÍNH TRỊ
Trên các đổ nát
của đế quốc đã sản sinh thời đại của Quốc gia-dân tộc, với lý
tưởng riêng của nó là chủ nghĩa quốc gia. Hiện thời có chín mươi
nước tuyên bố là "Quốc gia-dân tộc ", nói cách khác là các nhà
nước, nhân danh quốc gia hay dân tộc, đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ.
Nhưng không phải tất cả đều có chủ quyền thực sự - bằng chứng là
những nước như Afghanistan, Colombie hay Somalie. Tuy nhiên, trong
một thế giới Quốc gia-Dân tộc, những nước này có thể áp dụng quyền
lực tối cao một cách hợp pháp trong lãnh thổ của họ. Hiến chương
LHQ bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ một nước thành
viên. Như chúng ta đã thấy, không một nước nào có khả năng thách
thức đế quốc Mỹ. Nhưng ngược lại, đế quốc cũng phải khắc phục được
cả một thế giới Quốc gia-Dân tộc có chủ quyền. Sự tranh chấp này
của các quốc gia có thể diễn tiến tập thể dưới hình thức một cuộc
đề kháng địa dư chính trị nhiều thành phần. Cũng có thể xẩy ra
trong nội bộ mỗi một quốc gia mà Mỹ muốn can dự vào. Chính tình
trạng lưỡng hợp (nhi nguyên) là nguồn gốc của sự tâm thần phân lập
chính trị của Mỹ. Sự gò bó chính trị kèm theo hai gò bó tư tưởng,
chủ nghĩa quốc gia và chống đế quốc.
- Đường
lối địa dư chính trị đa phương: Thuyết đa phương dựa trên nguyên
tắc bình đẳng chủ quyền giữa các nước. Hàng ngàn hiệp ước song
phương đòi hỏi tính hỗ tương và bình đẳng giữa các bên ký kết. Hội
đồng LHQ vì vậy tượng trưng cho nguyên tắc "một nước, một lá
phiêu" Nhưng trong thế giới đa phương này, không phải nước nào
cũng bình đẳng như nhau. Các cường quốc hạn chế chủ quyền của các
nước nhỏ. Hội đồng bảo an LHQ duy trì một cách lạ lùng sự bất bình
đẳng về quyền hạn được thiết lập từ cuối những năm 40: Hội đồng
gồm năm thành viên thường trực (Mỹ, Liên Xô, Nga, Trung Quốc, Anh
và Pháp) có quyền phủ quyết, và mười thành viên không thường trực,
luân phiên được chọn nhưng không có quyền phủ quyết. Thật ra, bộ
máy HDBA do hai đại cường quốc, và sau này chỉ còn một, nắm quyền
điều khiển. Trong thực tế, LHQ biểu quyết những nghị quyết, việc
trừng phạt và can thiệp quân sự mà Mỹ có toàn quyền điều khiển.
Chính Mỹ chọn Tổng thư ký LHQ, như việc buộc Boutros Boutros-Ghali
từ chức và chọn Kofi Annan, ít tầm cỡ hơn, thay thế.
Mỹ đã dùng
quyền phủ quyết nhiều hơn tất cả mọi nước thành viên trong HDBA.
Dù là chống hay ủng hộ việc sử dụng vũ lực, Mỹ luôn luôn thắng
lợi, ít ra là cho tới năm 2003. Để đạt được mục tiêu, Mỹ nhiều lần
phải dùng đến hăm doạ và mua chuộc, nhưng gần như lần nào cũng đi
tới kết quả. Từ sau ngày Liên Xô sụp đổ cho tới 2002, không một
nước nào dám đồng minh với một nước khác để thành một liên minh
chống lại ý muốn của Mỹ. Martin Shaw nhấn mạnh là Mỹ trở thành
trái tim của cái gọi là "Một quốc gia tây phương". Nhờ ở các đồng
minh, Mỹ thống trị toàn thể LHQ, đến mức khối Mỹ - tây phương chớm
nở thành một "quốc gia toàn cầu". Như vậy, Mỹ đã biểu lộ, không
dè dặt, tính cách đế quốc không chính thức, ở một hệ thống được
coi là đa phương giữa các nước có chủ quyền. Hệ thống quốc
gia-dân tộc không có gì đáng để ngăn cản sức mạnh của Mỹ. Điểm này
có lý do là Mỹ, chứ không phải LHQ, đảm bảo cho an ninh một phần
lớn trên thế giới. Chính sách đa phương quốc tế, dưới đường lối
địa dư chính trị "cứng "(hard), thường chỉ che dấu tính cách bá
quyền của Mỹ.
Nếu như vậy là
chính sách đa phương thì cần gì Mỹ sử dụng đến đường lối đơn
phương? Một cuộc can thiệp không có sự bảo lãnh của LHQ có thể
phải trả một giá rất đắt, về phương diện quân sự, kinh tế và hệ tư
tưởng. Một sự ủy nhiệm của LHQ cho phép sử dụng không điều kiện
những căn cứ ngoại quốc và quân đội đồng minh, cung ứng tiền bạc
cần thiết cho các cuộc hành quân và, trên hết, có được tính chất
chính thống. Mỹ không phải không biết điều đó. Thế mà, năm
2002-2003, trong thời gian có cuộc khủng hoảng về Irak, Mỹ lũng
đoạn HDBA như chưa từng thấy trước đó. Đe dọa và bỏ tiền mua các
nước nhỏ, xúc phạm đồng minh nào hơi tỏ ra không đồng ý. Doạ nạt
không hơn không kém từ bỏ thuyết đa phương và gây chiến chống Irak
gần như một mình. Mỹ hình như tin tưởng là thái độ hăm doạ sẽ mang
lại kết quả, nhưng đường lối ngoại giao của Mỹ, dao động giữa
chánh sách đa phương và đơn phương, cho thấy bắt đầu có những dấu
hiệu của tình trạng tâm thần phân lập.
Cuộc xâm lăng
Ăng-lô Xắc-xông vào Irak được tiến hành với độc nhất lực lương
Mỹ, Anh và Úc cộng thêm năm mươi sáu lính Ba Lan. Thực tế đúng là
một cuộc "xung đột giữa nền văn minh" Ăng- lô Xắc- xông với phần
còn lại của thế giới. Sự thất bại này bắt nguồn từ sự căm thù càng
ngày càng lớn khi Mỹ rút khỏi các hiệp ước quốc tế, và tìm cách
hăm doạ hoặc mua chuộc các nước khác. Còn nguyên nhân khác nữa,
sâu đậm hơn: Âu châu cảm thấy từ nay ít còn bị đe dọa, chiến tranh
cũng không đe doạ châu Mỹ la - tinh. Thế giới thấy không cần đến
đế quốc Mỹ, và càng không thấy cần thiết được phòng thủ chống một
anh độc tài phường tuồng cầm quyền ở Irak.
Hoa Thịnh Đốn
coi như một đe doạ chính, hai khu vực: Đông bắc Á châu và Trung
Đông. Nhưng tại Trung Đông, đường lối chánh trị Mỹ càng ngày càng
khác với đường lối của phần lớn các nước Âu châu và Nga, và rất ít
được sự hưởng ứng trên thế giới. Trong khi đó, tại Đông bắc Á
châu, Nhật, Nam Hàn và Nga càng ngày càng phản đối Mỹ. Nhà nước
"tây phương" và nhà nước "toàn cầu" do Shaw miêu tả có bị tan rã
do sức ép của chánh sách đơn phương Mỹ không? Như Talcott Parsons
nhấn mạnh là sức mạnh nguyên thô, ngược lại với quyền lực được ưng
thuận, ngày càng mất giá.
- Việc
thay đổi chế độ: Bây giờ chúng ta hay xét đến những cuộc
tranh cãi xẩy ra ngay trong nội bộ các nước có chủ quyền. Một
trường hợp điển hình : Mỹ muốn "thay đổi chế độ", nói cách khác là
muốn lật đổ một chánh quyền thù nghịch bằng một chánh quyền thân
thiện. Trong thời chiến tranh lạnh, họ thường thành công trong
loại mưu đồ này, nhất là tại châu Mỹ la-tinh, và rất ít khi phải
dùng đến sự can thiệp quân sự trực tiếp. Trong lúc Liên Xô sụp đổ,
Mỹ đã có những thành công ngoạn mục: chỉ qua áp lực, Mỹ đã tranh
thủ được mười lăm chế độ hậu cộng sản, tất cả đều càng ngày càng
tỏ ra rất ân cần đối với Mỹ. Nhưng tới thập niên sau thì chì thấy
toàn thất bại. Mỹ xác định bẩy "Quốc gia côn đồ", tất cả đều nhỏ
và yếu (có lẽ đặc biệt trừ Bắc Hàn). Mỹ đe dọa, thi hành cấm vận
và có khi ném bom một vài nước này. Nhưng số nước côn đồ này vẫn
đứng vững.
Sau vụ 11 tháng
9, Mỹ bất thần leo thang chiến tranh, xâm lăng Afghanistan và
thiết lập tại chỗ một chế độ thân hữu và sau đó là việc tấn công
chiếm đóng Irak. Trong trường hợp thành công, thì Mỹ sẽ tiếp tục
các cuộc can thiệp khác. Iran và Syrie bị đe doạ ngay trước khi
chiến thắng được đảm bảo ở Irak. Mong muốn thiết lập được một quốc
gia dân tộc có chủ quyền thân hữu, thì hỏi Mỹ có đủ phương tiện
không ? Gỉa thuyết tối thiểu theo thể thức của Michael Ignatieff,
là "kiến thiết lại quốc gia". Cụ thể là một cuộc chiếm đóng ngắn
hạn của Mỹ, tổ chức và huấn luyện một lực lượng cảnh sát và một
quân đội địa phương, tái thiết một số hạ tầng cơ sở, trao trả
quyền hành cho một lãnh đạo tay sai, rồi rút đi vĩnh viễn. Những
biện pháp này bao hàm một số điều kiện là quốc gia này đã có một
mức độ nào đó về xã hội - chính trị, là chế độ cũ đã mất nhân tâm,
chế độ mới được quần chúng chấp nhận... Nhưng rất hiếm là tất cả
những điều kiện đó được hội tụ. Trong trường hợp này, như ở
Afghanistan, Mỹ và chánh quyền mới bó buộc phải cai trị, không
phải theo quá trình "kiến thiết lại quốc gia", mà theo châm ngôn
"chia để trị", ít ra trên phương diện sắc tộc. Chủ trương "kiến
thiết lại quốc gia" thật ra che dấu một chánh sách tàn nhẫn: vấn
đề là trừ tiệt địch thủ trước khi rút khỏi địa phương, chứ không
phải là làm nẩy nở một quốc gia có chủ quyền như đã hứa. Hành
động can thiệp điển hình này của Mỹ không đóng góp gì cho việc
thiết lập trật tự thế giới. Trái lại, nó chỉ làm tăng thêm tình
trạng vô trật tự.
Ở thái cực
khác, thì có giả thuyết thiết lập một đế quốc chiếm đóng thường
trực. Những mưu toan tương tự trước đây là một Đế quốc ngàn năm
của Đức, một Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật và khối
Liên Xô, không làm cho mọi người yên tâm lắm. Những nhân vật đế
quốc mới đảm bảo Mỹ là một đế quốc khoan dung, nhưng quốc xã Đức,
quân phiệt Nhật và cộng sản Liên Xô cũng nói vậy. Phần đông người
Mỹ khẳng định không muốn có đế quốc chiếm đóng. Nhưng trước đó,
Anh, Pháp, Bỉ cũng khẳng định như vậy: khởi đầu, họ chỉ muốn buôn
bán thôi. Nhưng ở nhiều nơi, viễn tượng có thể đặt được thuộc địa
hay khai thác tài nguyên đã đẩy họ tiến xa hơn nữa. Mỹ có sao lại
chánh sách của tư tưởng đế quốc không? Chẳng hạn dạy dỗ quần chúng
học tiếng Anh, theo Thiên chúa giáo; giáo dục con em thuộc thành
phần tinh hoa của xã hội địa phương; hoặc phối hơp cai trị giữa
người Mỹ với người bản xứ. Những điều này đã được thực hiện ở Phi
Luật Tân, nhưng cuộc thí nghiệm đã kết thúc năm 1941. Mỹ cũng đã
bắt đầu thi hành ở Việt Nam trước đây, nhưng đã thất bại. Tôi tin
là sẽ không bao giờ có một "đế quốc chiếm đóng" Mỹ.
Một bài bản
thực tế hơn cho đế quốc Mỹ là : chiếm đóng một địa phương với lực
lượng quan trọng nhưng tạm thời, để đảm bảo sự trung thành và chủ
quyền của một nước khách hàng. Sau Đệ nhị thế chiến, chiến lược
chính trị của Mỹ đối với Đức, Nhật là đổ hết trách nhiệm trong quá
khứ cho giới quân phiệt và phát xít, chiếm đóng tạm thời, đổ tiền
vào cho chế độ mới để tái thiết nền kinh tế, cải tổ lãnh vực lao
động để giải quyết các cuộc tranh chấp xã hội mà trong quá khứ đã
là nguyên nhân đưa phát xít và quân phiệt lên cầm quyền. Sự thành
công rực rỡ này dựa vào mong muốn hoà bình của dân chúng hai nước
này sau những thiệt hại về chiến tranh. Hơn nữa, Đức và Nhật có
được sự thuần nhất về sắc tộc nên có thể đề nghị những giải pháp
cho các cuộc tranh chấp xã hội. Mọi thay đổi chế độ đòi hỏi những
biện pháp tương tự để giải quyết các tranh chấp nội bộ của Nhà
nước-dân tộc hiện nay. Nhưng những tranh chấp ở thời buổi này chủ
yếu là sắc tộc và tôn giáo.
Trong trường
hợp các nước yếu kém hơn thì, ngược lại, một chiến thắng nhanh
chóng lại gây ra nhiều vấn đề. Cái chắc chắn là Mỹ đè bẹp nhanh
chóng lực lượng quân sự của bất cứ nước côn đồ nào. Nhưng lúc đó
thì lực lượng địch bị tản mát đến mức khu vực chiếm đóng chỗ nào
cũng đầy người vũ trang và trở nên khó bình định. Chiến thắng chỉ
có được khi dân chúng địa phương sẵn sàng chấp nhận mọi thứ để có
hoà bình, và những điều kiện đã đưa các lãnh tụ côn đồ lên nắm
quyền đã thay đổi. Sự tàn bạo đẫm máu của chánh quyền Sadam
Hussein không phải chỉ có nguyên nhân là ý thích thất thường của
ông ta. Vấn đề nằm ở chỗ Irak là một nước mà sự thống nhất không
phải dễ gì giữ được. Người ta không thể chỉ đơn giản lật đổ Sadam
Hussein là có thể tái lập được trật tự ở Irak.
Cuối cùng,
người ta lại phải trở lại sự cần thiết có một chế độ trung thành
làm chủ đất nước. Đây là trường hợp các giới tinh hoa của Nhật và
Đức. Thật ra thì phần lớn các đế quốc đều cai trị một cách gián
tiếp, qua trung gian của giới trí thức địa phương. Giới trí thức
địa phương, bị gạt ra khỏi quyền bính, thường cũng nổi loạn. Phản
ứng của đế quốc là đàn áp, đồng thời chia để trị. Thường thì những
sự bất mãn này chỉ có tính cách địa phương. Chủ nghĩa quốc gia ở
đệ tam thế giới dựa trên những tư tưởng tự do, xã hội hay phát xít
đến từ Tây phương, chỉ bắt đầu nuôi dưỡng những cuộc nổi loạn rộng
lớn hơn trong thế kỷ XX. Nhưng nó đã làm tan vỡ các đế quốc, báo
trước một hoàn cảnh không tốt đẹp gì cho đế quốc Mỹ. Hơn nữa,
trong thời buổi Quốc gia-Dân tộc, chủ nghĩa đế quốc từ đây trở đi
bị giới hạn bởi lý tưởng nổi trội là chủ nghĩa quốc gia. Người nào
giúp đỡ Mỹ sau khi đất nước bị xâm chiếm đều bị kết tội là phản
quốc. Vì vậy, khó tìm được những chế độ tay sai, nhất là ở những
nước dân chủ. Trong số những nước tay sai gần đây của Mỹ, phần nhỏ
không phải là những chế độ dân chủ, vì, như người dân bác bỏ chủ
nghĩa đế quốc, chánh quyền muốn ủng hộ Mỹ phải dựa trên chánh sách
đàn áp. Tại Irak, một nước tân tiến hơn Afghanistan, cuộc xâm lăng
đem lại hai đe doạ trái ngược nhau: một mặt, tăng thêm xung đột
tôn giáo và mặt khác làm chủ nghĩa quốc gia thêm cường độ trong
nhiệm vụ bảo vệ Irak. Thay đổi chế độ bằng những cuộc ném bom khó
khăn hơn như đế quốc mới tin tưởng.
-
Những quốc gia đàn em (bội bạc): Chúng ta hãy tập trung cái
nhìn vào miền Trung Đông, bởi vì tại đây là nơi mà Mỹ rất cần có
các nước đàn em trung thành. Nhưng tiếc thay, văn hoá khu vực này
rất xa với Tây phương, không như các đồng minh châu Âu gần về văn
hoá, hoặc cảm thấy bị đe doạ như trước đây Đức đối với Liên Xô và
Nhật đối với Trung Quốc. Trừ vài nước cảm thấy bị đe doạ bởi những
nước mà Mỹ coi như kẻ địch. Phần lớn, chiến cuộc ở trong vùng đều
xẩy ra giữa các đồng minh của Mỹ, như Israël và những nước Ả Rập,
hoặc giữa các nước cùng văn hoá nhưng thù nghịch nhau như Iran và
Irak.
Sự sống còn của
Israël nay không còn phụ vào sự ủng hộ của Mỹ, vì hiện nay, Israël
là một lực lượng quân sự lớn mạnh nhất trong vùng. Tuy vậy, nước
này vẫn cần phải trung thành với Mỹ, tuy rằng Israël là một nhà
nước-dân tộc chủ quyền, mà tinh thần đồng nhất tập thể dựa trên cơ
sở dân tộc, và càng ngày càng mang tính tôn giáo. Hiện nay, Nhà
nước Do Thái lập nghiệp vững chắc ở vùng đất tranh chấp thì mục
tiêu chính của Mỹ đáng lẽ phải tìm cách lo cho được một giải pháp
hoà bình, cho cuộc xung đột Do Thái - Palestine. Vì vậy, trong
thập niên 90, các tổng thống Mỹ đã dành nhiều thời giờ cho vấn đề
này. Không thể nói là Mỹ không phải không có thiên vị, nhưng cũng
đã hành động như một trung gian đứng đắn trong những cuộc đàm phán
thực sự. Nhưng hiện tại, chánh quyền Bush đã không theo xu hướng
này nữa. Trong hai năm cuối đây, Sharon chứng tỏ không phải đơn
thuần là một khách hàng của Mỹ. Yên trí được sự ủng hộ của Mỹ, ông
ta cảm thấy có quyền theo duổi mục tiêu của Do Thái như ông ta
nhận thức mà không kể đến quyền lợi chính trị của Mỹ. Các người
lãnh đạo Do Thái khác, thừa dịp chiến tranh chống khủng bố của Mỹ,
tuyên bố cuộc chiến này cũng là cuộc chiến của Do Thái. Họ đã đóng
một vai trò rất quan trọng trong sự Mỹ lẫn lộn giữa hành động
khủng bố địa phương như (Hamas) và hành động khủng bố quốc tế
(Al-Qaida). Sharon đã nhanh chóng lấy được sự tin cẩn và tình
thân hữu của Bush nhờ ở thái độ không nhân nhượng đối với khủng
bố. Vì Bush không nắm được khái niệm về "hành động khủng bố ở cấp
quốc gia " -đặc biệt trong trường hợp một nước tự cho là dân chủ
như Israël- nên ông ta không thấy được là Sharon và Arafat cùng có
trách nhiệm trong sự lên thang của bạo lực và khủng bố. Sharon đã
lợi dụng điểm đó, nên luôn luôn chỉ định Arafat là kẻ xúi giục
chính của khủng bố. Tháng hai năm 2002, hắn công khai tuyên bố là
tiếc đã để mất cơ hội giết Arafat ở Liban trong những năm 80 :
"Tôi tiếc là đã không thủ tiêu hắn". Tháng sau, lại tuyên bố "Ngày
nào mà tụi Palestinien chưa bị đánh thua, thì không có điều đình.
Mục tiêu là làm tăng thêm tổn thất của phía bên kia. Chỉ khi nào
tụi đó bị đánh nhừ tử thì lúc đó chúng ta mới có thể bắt đầu đàm
phán". Dân quá khích Palestiniens lập tức bước vào cuộc thách
thức. Hai bên thù địch bị lôi kéo vào mối hoạ chết chóc. Ngày 16
tháng Tư, Colin Powell sang Israël thử điều đình với hai bên thù
nghịch, nhưng bất thần được chỉ thị không được tuyên bố gì về
chính trị và phải trở về Mỹ lập tức. Ông ta giận điên người vì
nhục nhã và uy tín bị phá hoại, nhưng cũng phải về. Chánh quyền
Bush trở lại đường lối thân Do Thái. Tới tháng sáu, Bush còn đi
tới đòi hỏi người Palestine phải 'thay đổi chế độ': "nền hoà bình
cần có một lãnh đạo palestine mới và khác trước, để có thể tiến
tới thành lập một quốc gia palestine. Hiện nay, lãnh đạo palestine
khuyến khích khủng bố thay vì khắc phục. Điều này không thể chấp
nhận được. Nước Mỹ không ủng hộ thành lập một quốc gia palestine
ngày nào mà giới lãnh đạo không đầu tư vào cuộc đấu tranh chống
khủng bố và triệt hạ hạ tầng cơ sở của khủng bố."
Tháng 12 năm
2002, khi nhận phần thưởng Nobel Hoà Bình, cựu tổng thống Jimmy
Carter tuyên bố : "Cho tới khi tổng thống Bush lên cầm quyền, tất
cả các tổng thống trước đó, dù là dân chủ hay cộng hoà, theo tôi
nghĩ, đã đóng một vai trò của một người trung gian đáng tin cậy
nhằm ổn định vùng Trung Đông. Hiện thời, hiển nhiên là chánh quyền
hiện tại ở Washington hoàn toàn nhất trí với chánh quyền Israël và
không kể gì đến Nhà cầm quyền palestine." Điều phi lý và lệch lạc
đó vẫn tiếp diễn. Khu vực này có thể có tính cách chiến lược,
nhưng không phải là Israël. Nước này không có dầu hỏa, chuốc lấy
sự chống đối của các nước sản xuất dầu hỏa và làm tất cả khu vực
trở nên bất ổn định. Sự quan tâm của Mỹ đối với Israël không phải
là một tình cảm trắc ẩn của Mỹ đối với nỗi đau khổ mà dân Do Thái
đã gánh chịu, cũng không phải là cảm tình đối với một nước dân chủ
đương đầu với các nước quyền uy mạnh hơn, bởi vì Mỹ đã gần như
không viện trợ gì cho Israël khi nước này bị đe doạ nhất. Chín
mươi chín phần trăm viện trợ Mỹ chỉ được cấp sau khi Israël đã
thắng trận năm 1967. Viện trợ càng tăng sau mỗi cuộc chiến thắng
của Do Thái và địch thủ bị yếu đi hay giảm bớt sự chống đối.
Hiển nhiên,
trong thời gian chiến tranh lạnh, Israël là một đồng minh hiếm hoi
của Mỹ ở Trung Đông. Và đảm đương những nhiệm vụ bí mật của Mỹ
trong chiến tranh lạnh cho tới vụ bán vũ khí Iran-Contra. Tuy
nhiên, đó là một sự đền bù không tương xứng với số viện trợ to lớn
như vậy. Mỹ bất lực trong khả năng kiểm soát Israël là điều hoàn
toàn phi lý. Như thế, Mỹ thấy mục tiêu chính ở trong khu vực là
giải quyết cuộc xung đột Israël-palestine càng ngày càng xa. Sự
bất lực để chỉ đạo Do Thái của Mỹ chỉ làm dân chúng palestine và
phía ngoài là tất cả dân Ả - Rập, càng trở nên quyết liệt hơn. Vì
dân palestine hãy còn quá yếu để có thể tấn công quân đội Israël,
nên một số tiếp tục dùng chính sách khủng bố. Và để trả dũa, Do
Thái xử dụng chiến thuật khủng bố ở cấp quốc gia. Tổn thất của
thường dân càng ngày càng tăng.
Bây giờ, hay
xét đến một đàn em khác của Mỹ là Nhà cầm quyền palestine. Viện
trợ của Mỹ cho tổ chức này rất ít so với viện trợ cho Do Thái.
Tuy thế áp lực của Mỹ lên nhà cầm quyền palestine rất lớn, nhiều
lúc còn đe doạ ngừng viện trợ. Hoa Thịnh Đốn không ngừng thúc đẩy
nhà cầm quyền palestine phải từ bỏ mọi sự giúp đỡ khủng bố. Đó là
sự tự sát nếu họ nghe theo lệnh Hoa Thịnh Đốn. Vì vậy, cường quốc
Mỹ đòi hỏi phải thay đổi chế độ, điều mà nhà cầm quyền palestine
cũng không thể nghe theo. Cũng như Do Thái, dân palestine cũng bị
chi phối bởi chủ nghĩa quốc gia. Ngược lại với Do thái, palestine
yếu kém, còn xa mới thành lập được một quốc gia có chủ quyền.
Nhưng không vì thế mà Mỹ có thể chọn người lãnh đạo thay cho dân
palestine. Ở thời buổi của chủ nghĩa quốc gia, sự chọn lựa của đế
quốc cũng bị giới hạn. Còn Arabie Saoudite, một nước khách hàng
thứ ba của Mỹ, không hưởng một sự nâng đỡ của một nhóm áp lực nào
thì sao? Trong những năm 90, Mỹ đã bán cho Arabie Saoudite 40 tỷ
USD vũ khí tối tân và đóng hơn 5.000 quân tại chỗ để bảo vệ những
dàn hoả tiễn patriot, bảo vệ đất nước này. Đúng ra là Mỹ đã đi vào
chiến cuộc để bảo vệ Arabie chống Sadam Hussein. Đáng lý ra,
Arabie phải là một đàn em trung thành. Thật sự thì chế độ saoudien
là một trợ giúp lớn liên quan đến dầu hỏa, ổn định giá cả trong
giới hạn chỉ định bởi các-ten OPEP. Nhưng, bất chấp ý muốn của
Mỹ, chánh quyền saoudien đã mua của Trung Quốc các hoả tiễn có tầm
xa và tiến xa đến chỗ mua chất liệu nguyên tử để trang bị hoả
tiễn. Chánh quyền này cũng còn tài trợ cho các tổ chức hồi giáo và
djihadiste, mà Mỹ coi như là một mối đe dọa lớn cho khu vực.
Saoudien trợ giúp tài chánh cho nhà thờ Hồi giáo và các trường đào
tạo Hồi giáo quá khích.
Theo một vài
nhà quan sát, Mỹ mang nỗ lực ra để xâm chiếm dầu hỏa Irak cũng chỉ
nhằm mưu toan thoát khỏi tình trạng phụ thuộc vào dầu hỏa của
Arabie Saoudite. Nếu như vậy thì rút cục chỉ đổi một khách hàng
khó khăn để có một khách hàng khó khăn hơn. Chúng ta đang chứng
kiến một sự thay đổi lớn của thế giới. Các nước đàn em ít đáng tin
cậy hơn bao giờ hết. Trong vài nước thì hỗn loạn, vài nước khác
thì hoàn toàn bị phá sản. Thế nhưng, nước Mỹ không nên đánh giá
quá cao khả năng áp dụng anh hưởng của mình. Vấn đề can thiệp vào
các quốc gia-dân tộc, Mỹ chỉ là một anh lùn trên phương diện
chính trị. Sức mạnh chính trị của Mỹ cho thấy bản chất tinh thần
phân lập (nature schizophrène): về chính trị quốc tế là một lực
lượng quan trọng, nhưng lại lưỡng lự giữa chính sách đa phương và
chính sách đơn phương; và khi cần phải can thiệp vào nội bộ của
một quốc gia thì lại trở nên yếu kém. Trước một thế giới của quốc
gia-dân tộc, Mỹ không có được quyền chính trị của đế quốc. Thời
đại của đế quốc đã chấm dứt.
IV - ẢO VỌNG
VỀ HỆ TƯ TƯỞNG
Cũng như tất cả
các đế quốc khác, đế quốc Mỹ tin là đã nắm được sự thật. Các chính
trị gia tuyên bố những lý tưởng về tự do, dân chủ và nhân quyền
cho khắp thế giới, và họ cũng hứa hẹn đem lại một đời sống sung
túc hơn. Họ làm rùm beng lên là đã thực hiện được "mộng ước của
dân Mỹ" trên đất Mỹ, và nay sẽ mang ra khắp hoàn cầu. Collin
Powell biểu lộ sự tự phụ trên diễn đàn LHQ và khuyến cáo tổ chức
quốc tế này hãy nên nghe lời Mỹ, một nước dân chủ lâu đời nhất
trên thế giới. Nhưng ông ta muốn nền dân chủ Mỹ bắt đầu từ thời
điểm nào? Phải chăng là những năm 1780, khi chỉ những người chủ
điền gia trắng có quyền bỏ phiếu, những dân da đỏ bị diệt chủng và
dân da đen như ông ta là nô lệ? Hay trong những năm 50, khi dân
da đen vẫn không được quyền đi bầu trong một vài nơi ở đất Mỹ?
Nền dân chủ Mỹ hiện nay hầu như không lấy gì là lành mạnh lắm.
Phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền hình, nguồn gốc
thông tin chính, thường tỏ ra tôn kính đối với nhà cầm quyền trong
vấn đề ngoại giao. Khi chiến tranh Irak xẩy ra, đài truyền hình
và vô tuyến chỉ trình bày độc một quan điểm của Ngũ-giác-đài. Đây
là một hình thức "quân sự cho khán giả" : khán giả xem để khuyến
khích đồng đội của mình, không bao giờ phải đụng chạm với sự nguy
hiểm và những cảnh ghê rợn của chiến tranh. Đài truyền hình chỉ
đưa lên màn ảnh những trận đánh giả, bình luận bởi một số sỹ quan
hồi hưu, bỏ qua những vấn đề rộng lớn mà cuộc chiến tạo nên. Phần
lớn độc giả báo chí và thính giả Mỹ chỉ nhận được những thông tin
có dụng ý của 150 tờ báo và nhiều đài truyền hình thuộc nhà tài
phiệt Rupert Murdoch. Ở Mỹ, đài Fox News Chanel của ông ta tỏ ra
đặc biệt thiên quân phiệt. Emmanuel Todd nhấn mạnh là đường lối
của Mỹ đi ngược lại một cách trắng trợn tính chất phổ cập của các
giá trị được coi là điều kiện chủ yếu của các đế quốc. Đối với ông
ta, nguyên nhân sự yếu kém tư tưởng này nằm ở sự khinh bỉ ngày
càng tăng gần như phân biệt chủng tộc đối với người Ả-Rập, và
trong sự thiếu hiểu biết về "nhân loại học" của các xã hội và văn
hoá Hồi giáo. Sự dốt nát đưa tới sợ hãi. Bốn mươi nhăm phần trăm
người Mỹ tin rằng có những người có trí thông minh ở các hành tinh
khác đã đến trái đất này. Vẫn một thông điệp sau ảo ảnh đó là dân
Mỹ vô hại, yêu hoà bình sẽ bị tiêu diệt bởi những thành phần ngoại
lai xâm lược. Bây giờ không phải là cộng sản nữa mà là dân khủng
bố. Hiện tại, người Mỹ bớt đi du lịch rất nhiều. Mexique là nước
láng giềng nhưng có rất ít du lịch Mỹ, vì họ coi như nơi nguy
hiểm, mặc dầu tỷ lệ giết người ở Mỹ cao hơn rất nhiều so với
Mexique.
Ông Bush có tài
đặc biệt trau dồi căn bệnh hoang tưởng bị truy hại: bắt giữ hàng
loạt người thuộc quốc tịch Trung Đông, tố cáo liên tục các "phần
tử tội ác" ngoại quốc, kêu gọi cảnh giác thường xuyên chống khủng
bố vi-rút bệnh đậu mùa (nhiều nhân viên y tế đã chết trong đợt hốt
hoảng này, không vì bệnh mà vì tự uống thuốc ngừa bệnh), luôn luôn
nhắc nhở rằng Irak, với dân số hai mươi ba triệu dân -nghèo nàn và
thống khổ- một quân đội đói rách, là đe doạ sắp đến cho nước Mỹ!
Sau hai mươi tháng, sau vụ 11 tháng 9, không một ai chết vì khủng
bố. Dĩ nhiên, gần ba ngàn người đã chết trong vụ khủng bố nói trên
là một điều kinh khủng. Nhưng tại Mỹ, trong cùng năm ấy, ba mươi
ngàn người chết vì súng đạn, ba mươi tám ngàn chết vì tai nạn xe
hơi, một trăm năm mươi ngàn chết vì ung thư phổi và hai trăm năm
mươi ngàn nạn nhân bị hiếp dâm. Nước Mỹ là một nước yên ổn nhất
trên thế giới, ngoại trừ dân Mỹ không được yên ổn bởi những người
Mỹ khác.
Tuy vậy, mặt
trận tư tưởng thứ hai còn quan trọng hơn, vì được điều hành ở
ngoài nước Mỹ, nơi đế quốc đang thiết lập. Chẳng may cho nước Mỹ
là trận chiến này không thực hiện được. Thật ra thì khoảng cách
giữa truyền thông đại chúng Mỹ và ngoại quốc đạt tới mức cực độ
trong thời gian xâm lăng Irak. Truyền thông Mỹ, tránh không để dân
Mỹ thấy cảnh ghê rợn của chiến tranh, đã chĩa mũi dùi vào nước
Pháp. Một nước Pháp đồng minh từ lâu của Mỹ, có một nền văn hoá
được kính trọng, bất thần được đưa ra như một kẻ thù, không khác
gì Saddam Hussein. Thế nhưng, cũng như Pháp, phần lớn thế giới đã
biểu lộ sự không tán đồng.
Sự thật là
truyền thông đại chúng Mỹ đang trên đà mất dần sự nổi tiếng trên
dư luận trên thế giới. Chủ tịch Walt Disney Television tuyên bố là
"Thị trường thế giới về truyền hình đang lúc phát triển mạnh,
nhưng chỗ đứng của truyền hình Mỹ thì thụt lùi". Đồng thời thị
trường trên mạng của Mỹ, trong những năm 1990, tụt từ một nửa
xuống một phần ba. Ngược lại, không chối cãi được là Mỹ được ưu
thế, không chắc đúng, có một tôn giáo, đạo Tin Lành évangélique,
phát triển rất nhanh trên thế giới. Theo nhiều cuộc thăm dò, toàn
thế giới khâm phục khoa học và kỹ thuật của Mỹ, gắn bó với những
giá trị phổ quát như dân chủ, tự do và nhân quyền, cảm thấy cảm
tình với phương cách áp dụng của Mỹ đối với những giá trị này,
nhưng bớt dùng sức mạnh. Thế giới yêu người Mỹ "hơn là yêu nước
Mỹ". Người ta đặc biệt không chịu được đường lối chính trị của Mỹ
đối với Israël và Irak.
-
Thách đố thứ nhất: chủ nghĩa sắc tộc-quốc gia
(ethno-nationalisme): Quốc gia-Dân tộc dựa trên chủ nghĩa quốc
gia, hệ tư-tưởng thống trị hiện nay trên thế giới. Chẳng may là hệ
tư tưởng quốc gia kéo theo cả một chuỗi dài các cuộc xung đột. Hệ
thống quốc tế đạt được tới giải quyết phần lớn các cuộc đấu tranh
giữa các nước, nhưng bất lực trước các tranh chấp nội bộ của họ.
Trước hết, dựa trên kết quả nghiên cứu của tôi về vấn đề tinh chế
sắc tộc (purification ethnique), thì những người yêu sách một
"chánh quyền do dân" và "quyền tự quyết dân tộc" đã lẫn lộn hai
nghĩa của danh từ "dân tộc": demos ở chữ dân chủ (démocratie) và
ethnos ở tính dân tộc (ethnicité). Vì vậy, khi Tổng thống Woodrow
Wilson tuyên bố "quyền tự quyết dân tộc" phải là nguyên tắc trong
những hiệp định hoà bình chấm dứt Đệ nhất thế chiến, ông ta muốn
nói là mỗi nhóm sắc tộc phải được tự do có nền dân chủ độc lập của
chính họ. Đây là một nguyên tắc phần nào nguy hiểm, nó trao cho
nguyên tắc dân chủ một khía cạnh đen tối ở chỗ những đòi hỏi của
một nhóm tộc người tuỳ ý sử dụng đất nước của mình gây thiệt hại
cho những tộc khác. Đất Ba Lan cho người Ba Lan, Croatie cho người
Croates v..v.. Những sắc tộc bị thống trị, để phản ứng lại, đòi
những quyền chính trị đặc biệt. Trong trường hợp bị từ chối, họ sẽ
yêu sách được độc lập. Vì vậy mới có những cuộc chiến tranh quốc
gia-dân tộc.
Theo những điều
nghiên cứu của tôi thì, tình trạng nguy hiểm nhất phát sinh từ hai
nhóm sắc tộc hay tôn giáo khác nhau, cùng đòi hỏi một quốc gia
riêng biệt, trên cùng một vùng đất và, yêu sách của họ cùng có
tính chính thống lịch sử và cơ may thành công. Trong tình huống
này, sắc tộc yếu kém thường được được sự trợ lực của những người
bạn đồng tộc hoặc đồng tôn trong những khu vực tiếp cận hay nước
láng giềng có ý đồ địa lý chính trị. Nếu không, bên nào yếu sẽ
phải phụ thuộc và, thay vì chống đối, chấp nhận trở thành nạn nhân
của sự phân biệt chủng tộc, một kết thúc thông thường của những
cuộc chiến sắc tộc. Tất cả những cuộc chiến, từ chiến cuộc Balkan
trước Thế chiến Thứ nhất đến những chém giết vì sắc tộc hay tôn
giáo ở Rwanda, Palestine, Cachemire cà Tchétchénie, đều có mô hình
giống nhau. Do đó, sự hiện diện nhiều quốc gia-dân tộc trên thế
giới có khuynh hướng chuyển bạo lực vào nội địa của một nước. Ưu
thế của lý tưởng "chánh quyền do dân" đã làm cho càng ngày càng
khó khăn, trong suốt thế kỷ XIX và XX, quan niệm một nền dân chủ
nhiều sắc tộc. Nguyên tắc dân tộc tự quyết hàm ý trong các hiệp
định hoà bình 1918-1920, đã tạo ra đầy Quốc gia-Dân tộc mới ở Đông
Âu, trong đó, riêng một sắc dân chiếm 70% dân số, đã bóp nghẹt các
sắc tộc thiểu số, đặc biệt là Do Thái.
Nhưng chủ nghĩa
xã hội, trong thời điểm tuyệt đỉnh của nó vào giữa thế kỷ XX, đã
hãm lại thuyết dân tộc- quốc gia, cũng như thuyết tự do thế tục,
trong một chừng mực nào đó sau này. Các nước cộng sản tuyên bố là
quốc gia không quan trọng bằng giai cấp. Chủ nghĩa xã hội của đệ
tam thế giới (socialisme du tiers-monde) khẳng định là dân chúng
thuộc các nước kém phát triển họp thành một "giai cấp" duy nhất,
bóc lột bởi các nước tư bản giàu có. Trong trường hợp này, mỗi
nước hay một tập thể các nước có quyền tự coi như là một giai cấp,
nguyên nhân của phong trào liên-quốc gia, như phong trào liên phi
hoặc liên Ả Rập. Nhưng, sau đó xã hội chủ nghĩa suy tàn. Sự sụp đổ
của Liên Xô và Nam Tư đã gây nên những cuộc chiến quốc gia- dân
tộc (ethno-nationalistes). Mặt khác, chủ nghĩa xã hội ở các nước
đệ tam thế giới cũng tàn lụi dần. Các nước xã hội Phi châu và
Ả-Rập tan rã thành nhiều nước độc tài và tham nhũng, bất lực trong
việc đem lại tiến bộ xã hội và kinh tế. Những thất bại này không
những làm yếu kém đi, chủ trương lồng tính chất xã hội vào trong
chủ nghĩa quốc gia, ôn hoà hơn, tự do và thế tục, mà còn làm tăng
thêm sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo. Con số những cuộc chiến
quốc gia-dân tộc và nội chiến tăng lên dễ sợ trong thập niên 1990.
Bất cứ đế quốc
nào, với quy mô toàn cầu, cũng phải đương đầu với những thành phần
gọi là "chiến sĩ của tự do", và họ định nghĩa "dân tộc" theo nghĩa
sắc tộc hay tôn giáo. Những người Palestiniens, Cachemiris,
Tamouls, Tchetchènes và nhiều người "chiến sĩ của tự do quốc gia"
trên thế giới, không phải là những thành phần phản động, chống lại
tính hiện đại. Họ chỉ tìm cách thực hiện việc xây dựng một quốc
gia-dân tộc cho chính họ, như những người khác đã làm trước họ. Để
chống lại những cuộc đàn áp, họ dùng đến lý tưởng dân tộc tự
quyết, có tiếng vang mạnh trong quần chúng. Họ tự coi là những
người ái quốc, nhân danh dân tộc để hành động, và sẵn sàng chết
cho lý tưởng. Câu trả lời của hai phụ nữ quyết tử, tại sao họ hy
sinh như vậy, rất giản dị: do lòng"yêu nước" "cho đất nước và dân
tộc tôi". Nói hai phụ nữ này thể hiện "điều ác" không giúp gì cho
sự hiểu biết hiện tượng này, vì phê phán trên mặt đạo đức ngăn cản
việc tìm hiểu động cơ và nguyên nhân của hành động quyết tử. Phần
lớn những người quyết tử là những người quốc gia, không là thành
phần theo trào lưu chính thống.
Ý định của tôi
không phải là miêu tả những "chiến sĩ của tự do" dưới khía cạnh
hấp dẫn. Họ đi vào một cuộc chiến tranh tàn khốc, bởi vì là cuộc
nội chiến. Họ thường phạm vào những việc tàn bạo đối với cộng đồng
của chính họ. Họ ám sát những người ôn hoà muốn đạt được thoả
thuận với kẻ áp bức. Những chiến sĩ cho tự do cũng như các nước
tranh đấu cho khẩu hiệu này, thường không tôn trọng nguyên tắc tự
do mà họ nêu lên. Dân tộc Tchetchènes tiếp tục chiến đấu, mặc dầu
đã chịu nhiều đau khổ dưới thời Nga Hoàng và Liên Xô. Staline đầy
và phân tán toàn diện dân tộc này. Hai mươi năm sau, dân tộc
Tchetchènes trở lại đất nước của họ và sau một thời gian, một số
người lại tiếp tục tranh đấu. Tổng thống Poutine lại sử dụng một
chính sách khủng bố ghê gớm ở cấp bậc quốc gia.
May mắn là Poutine không phải là
Staline và Staline thì đã thất bại. Theo bác sĩ Yandarev, y sĩ
trưởng về phẫu thuật ở bệnh viện chính ở Grosny, thì hòa giải là
giải pháp duy nhất cho chiến tranh quốc gia-dân tộc. Nếu Mỹ muốn
đảm bảo nền hoà bình và trật tự thế giới -pax americana- thì không
có cách nào khác là phải giữ vai trò người hòa giải của nền hòa
bình thế giới. Mỹ phải bỏ đi chính sách thiên vị. Mỹ có khả năng
để đóng vai trò hoà giải. Khó khăn nhất là giải quyết những trường
hợp mẫu thuẫn lý tưởng quốc gia- dân tộc mỗi ngày một trầm trọng,
dẫn tới bạo lực. Trong cuộc nội chiến vẫn còn tiếp diễn ở Congo,
con số người bị tàn sát tính ra vào khoảng ba đến bốn triệu. Năm
2002, tỉnh thành Goma ở miền đông bị chiếm đóng bởi dân Hutus, thủ
phạm vụ diệt chủng, chạy trốn sự trả thù của dân Tutsis ở Rwanda.
Sau đó là những nhóm thổ phỉ, xuất thân từ các quân đội thuộc các
nước láng giềng, thu hút vào khu vực này do các kim loại quý như
coltan, tantalite và vàng. Tổ chức "Tập Hợp Congo cho Dân Chủ"
(RCD), được các đơn vị của quân đội Tutsis giúp chiếm lại Goma.
Hết nạn này thì đến nạn dịch tàn phá số lớn dân chúng thiếu ăn,
rồi đến núi lửa phun dung nham quyét sạch thành phố.
Tình trạng nội chiến trên
tăng lên trong các nước Phi Châu. Giới "tinh hoa" của xã hội đưa
ra những đòi hỏi về sắc tộc và địa phương để ăn cắp tài nguyên hầu
bán cho các xí nghiệp ngoại quốc, tất cả dưới danh nghĩa dân tộc.
Bọn này phân phát súng ống cho thanh niên để tra tấn, hiếp dâm,
tàn sát. Đến lượt chánh quyền đến trả thù. Còn phải kể đến nạn đói
và bệnh sida đe doạ sự sống sót của người dân. Dân chúng kinh sợ
cả giới ly khai lẫn chánh quyền. Những mâu thuẫn quốc gia-dân tộc
trong kinh tế và trong những chánh quyền bị phá sản chỉ đưa đến
việc khủng bố cục bộ, ít khi nhằm vào chống đối ngoại quốc. Như
vậy, không có lý do gì để, trong tình trạng chiến cuộc này, nước
Mỹ đứng vào phe này hay phe kia. Một đế quốc khoan dung đáng lý
ra phải đứng ra dàn xếp, giúp đỡ kinh tế, tác động phần nào trên
sự kiểm soát các nước đệ tam nhân, các xí nghiệp ngoại quốc và
việc buôn bán khí giới.
- Thách đố thứ hai:
Sự leo thang của thuyết chính thống tôn giáo. Cho tới nay, tôi đã
gom làm một những cuộc chiến quốc gia-dân tộc và tôn giáo, và thật
ra quyền lợi của hai nhóm thường dựa vào nhau. Như tại Israël và
tại Palestine hay ở Cachemire và Ấn Độ, tôn giáo làm tăng thêm
tinh thần cùng một phe của những chiến binh đối thủ với nhau.
Ngoài ra, còn thêm một rắc rối nữa là tính chất quốc gia, đặc biệt
đối với người Ả-Rập. Tinh thần quốc gia này có thể là tinh thần
quốc gia-dân tộc, hoặc liên quan đến tính chất sắc tộc Ả-Rập như
một khối. Người Irak có thể chống cự đế quốc nhân danh tổ quốc
hoặc nhân danh dân tộc Ả-Rập. Tôi gọi những người thứ nhất là
người quốc gia và loại người sau là các chiến sĩ liên-Ả-Rập,
liên-Hồi- giáo.
Chủ nghĩa xã hội không biết
đến Thượng đế và chủ nghĩa tự do thế tục (phi tôn giáo) suy tàn
thì sẽ dẫn tới sự hưng thịnh của tôn giáo. Tôn giáo lúc đó có tham
vọng đưa ra một đường lối thứ ba, giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa
duy vật Tây phương bị phá sản. Đợt đổi mới của tôn giáo thật ra
bắt đầu trong những ngày cuối của chế độ thực dân. Thành phần tôn
giáo quá khích tố cáo các chế độ thế tục sau thời thực dân, đã từ
bỏ tình cảm tôn giáo của mình để theo đuổi một lý tưởng nghịch
đạo, đến từ ngoại quốc. Tại Ấn Độ, sự suy sụp của đảng Quốc đại
(Parti du congrès) đã dẫn đến một tinh thần quốc gia Hindou "thuần
khiết" hơn, mà số tín đồ bắt đầu tấn công những người Hồi giáo.
Trong giới Hồi giáo, những cuộc can thiệp của Mỹ đưa những tín đồ
đạo Hồi (islamistes) đến chỗ tố cáo các chế độ Hồi giáo thối nát
là tay sai của đế quốc Mỹ.
Hồi giáo kháng cự từ lâu
chống đế quốc đến từ ngoài. Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ chưa bao giờ bị xâm
chiếm bởi Tây phương, cũng như Ba Tư, sau này là Iran. Trong nhiều
thế kỷ, những dân tộc Hồi ở vùng Caucase chứng tỏ là những lực
lương kháng chiến tích cực nhất chống đế quốc Nga và sau này đế
quốc Xô-Viết. Tính chất này còn được tăng thêm nhờ khả năng dai
dẳng của Hồi giáo tạo ra các "giáo phái quân sự". Thời xưa, từ sa
mạc, các giáo phái này tràn vào đánh các quốc gia Hồi giáo thối
nát nhằm mục đích tái lập sự thuần khiết giáo lý của Mahomet. Hiện
nay, một số người Hồi giáo chủ trương trở lại sự thuần khiết của
đạo Hồi, như dưới thời Mohamet. Giải pháp là bắt buộc toàn thể
cộng đồng Hồi theo đúng quy tắc tôn giáo (la chariat) Hồi giáo.
Trong số này, có thành phần muốn tái lập lại truyền thống hiếu
chiến chống đế quốc với nghĩa vụ "qital" nghĩa là "chiến đấu chống
kẻ thù" và "djihad" có nghĩa rộng hơn là "chiến đấu duới danh
nghĩa Allah" Một số người nhắc nhở là kinh Coran sai khiến là phải
kháng cự lại mọi áp bức, vì áp bức còn nghiêm trọng hơn là giết
người, và ra lệnh phải "chống lại cho tới khi không còn áp bức và
tôn giáo hoàn toàn thuộc về một mình Allah".
Đối với họ, các chánh quyền
bội giáo và đế quốc liên kết với nhau trong bạo ngược. Vì vậy phải
chống cả hai. Mặc dầu phong trào của họ được chính thức coi như
một phong trào xuyên-quốc gia (trans-national), nhưng chiến binh
của họ được đào luyện bởi hai lý tưởng quốc gia, thứ nhất bao gồm
toàn thể dân tộc Ả - Rập, thứ hai là chính đất nước họ. Lý tưởng
sau chứng tỏ hết sức mạnh mẽ trong những năm gần đây. Chìm đắm vào
cuộc đấu tranh chính trị địa phương, họ quên tinh thần liên Ả-Rập
để trở nên những người quốc gia theo thánh chiến, tượng trưng bởi
tổ chức Hamas và Djihad islamique cũng như tổ chức Herzbollah
libanais. Bắt đầu từ thập niên 70, chủ nghĩa xã hội và tự do thế
tục càng giảm sút thì giới islamisme và djihadiste càng tăng thêm
sức mạnh. Phong trào này được động viên trên thuyết, mà Mawdoudi,
dân Pakistan mệnh danh là "théodémocratie " (thần quyền dân chủ)
xây dựng chủ quyền không phải trên quốc gia mà trên cái gọi là
"oumma ", một cộng đồng thế giới những tín đồ, phù hợp với kinh
Coran. Cuộc võ trang kháng chiến chống đế quốc xô-viết ở
Afghanistan đã sản sinh ra "trung đoàn chiến binh quốc tế" giúp
cho nẩy nở tinh thần đoàn kết trong thế giới Hồi giáo, đưa tới
hiện tượng Oussama Ben Laden và thành công trong việc đánh đuổi
được cộng sản vô thần. Đế quốc Mỹ mới nên suy nghĩ hai lần trước
khi để những người djihadiste coi là những kẻ dị giáo cần phải
triệt tiêu.
Những chế độ Hồi giáo có xu
hướng thiết lập chế độ độc tài tôn giáo tàn bạo như ở Iran, Soudan
và Afghanistan, với hậu quả làm mất lòng dân. Những cuộc điều tra
của Riaz Hassan tại nhiều quốc gia như Egypte, Indonésie, Iran,
Kazakhstan và Pakistan, cho thấy là một chế độ càng muốn thành
chánh quyền Hồi giáo thì sự tín nhiệm của dân chúng đối vối tôn
giáo và chánh quyền càng giảm đi. Ngược lại, sự tín nhiệm của dân
chúng tăng lên trong một chánh quyền thế tục. Đa số quần chúng
lánh xa thành phần djihadiste do đường lối hết sức tàn bạo trong
những đầu năm 90 ở Algérie và Egypte. Thành phần này bắt đầu suy
thoái đồng thời với Hồi giáo (islamisme), từ giữa những năm 90,
đúng lúc những hành động của Mỹ lại cho họ cơ hội để bột phát.
- Thử thách thứ ba:
thời tàn của tư tưởng đế chế. Giới đế quốc mới cho rằng sức mạnh
của Mỹ hơn hẳn Anh và Pháp ở thế kỷ 19. Điều đó đúng, nếu so sánh
riêng biệt từng nước một. Đúng là nước Mỹ mạnh hơn Anh và trội hơn
hẳn Pháp. Nhưng hai đế quốc này không hành động riêng lẻ. Mặc dầu
những cuộc chiến giữa hai nước, nhưng họ đồng cảm là cùng hội
cùng thuyền trong "nhiệm vụ khai hoá văn minh" rộng lớn, phát động
bởi châu Âu, sau đó là Tây phương, trên vùng đất Cuba, Philippines
và Trung Quốc... Về phương diện quân sự, chính trị, kinh tế và
nhất là hệ tư tưởng thì đế quốc tây phương tây đáng sợ hơn nhiều
đế quốc Mỹ hiện nay. Trước mắt thế giới, Anh, Pháp, Bỉ, Nga, Mỹ
v..v. ; có chung một văn hoá. Nếu nhìn chung các nước đó thì không
có cách nào thoát khỏi sức mạnh của họ.
Về văn hoá, Tây phương thể
hiện tính hiện đại, tiến bộ, quyền lực. Văn hoá tây phương ảnh
hưởng lớn lên giới tinh hoa của các nước bị trị trên thế giới, tới
mức giới này ý thức là cần phải sử dụng tới, mặc dầu họ vẫn chiến
đấu để tự giải phóng. Tây phương còn nắm trong tay phương tiện
viễn thông. Tại Phi châu, Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Ý có thể
liên lạc một cách dễ dàng; ngược lại những dân Phi ở những vùng
khác nhau trong lục địa thì không có khả năng nào liên lạc được
với nhau. Độc quyền truyền thông của giới tây phương ngăn chặn mọi
tổ chức kháng chiến tập thể ngoài những vụ có tính cách cục bộ.
Phần lớn những sư tàn bạo của đế quốc chỉ bị phanh phui ra, hoặc
bởi sự cạnh tranh giữa giới quân sự và dân sư, hoặc bởi giới tôn
giáo.
Thời nay, những gía trị dân
chủ chiếm ưu thế trong cuộc sống hiện đại trên hoàn cầu. Mỗi khi
mà Mỹ tính chuyện trệch hướng thì tức khắc hành động này bị tố
giác và được đưa ra công luận. Đại diện của LHQ không khoan
nhượng, thẳng thừng phê bình. Các tổ chức phi chánh phủ cũng như
tổ chức dân sự quốc tế cũng không bỏ lỡ cơ hội kéo chuông báo
động. Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW) được tin cẩn nhờ ở những
báo cáo thẳng thắn về những vi phạm nhân quyền. Tổ chức này đã tố
cáo Milosevic, Talibans và Sadam Hussein. HRW cũng đặt Nhà Trắng
vào tình trạng lúng túng khi những báo cáo phê phán của họ được
đưa lên các báo trên thế giới, về những vụ ném bom của Mỹ vào
thường dân, hoặc việc đồng minh afghan phạm những vụ tàn sát mà Mỹ
làm lơ, hoặc cách đối xử với tù binh ở căn cứ Guantanamo. Để đối
phó lại, đế quốc mới chọn một hình thức thông tin dành riêng cho
từng cấp thứ bậc, bí mật và bị kiểm duyệt. Trong những cuộc chiến
gần đây, để kiểm soát tin tức khu vực quân sự, tất cả các phóng
viên báo chí được tập trung vào "pool báo chí" để làm giảm bớt sự
tự do đi lại của nhà báo. Trong chiến tranh Irak, bộ quốc phòng Mỹ
có một đường lối mới về thông tin là nhập các phóng viên báo chí
vào các đơn vị Mỹ. Nếu một phóng viên nào dời chỗ chỉ định thì lập
tức bị loại. Tin tức chiến sự vì vậy chỉ phản ánh những điều quân
đội Mỹ muốn cho biết, nhất là về con số tổn thất của thường dân.
Những hình ảnh và phóng sự đặc biệt ghê rợn về cảnh chết chóc, gia
đình tan nát của thường dân thì do đài truyền hình Al-Jazira đưa
lên cho thế giới biết. Đây là lần đầu tiên các đài truyền hình
Ả-Rập cho thế giới nghe được tiếng nói của những nạn nhân, một
điều chưa bao giờ có trong lịch sử các đế quốc.
Lầu Năm Góc càng ngày càng ý
thức được là tổn thất của thường dân làm hại cho lý do của chiến
tranh. Thật vậy, quân nhân Mỹ cố gắng để giảm bớt tổn thất cho
thường dân, trong điều kiện vẫn bảo toàn được an ninh cho đơn vị
mình. Như vậy, ưu tiên của quân đội Mỹ là an ninh cho quân nhân
hay cho thường dân? Sự lưỡng lự này làm nẩy sinh một chiến thuật
thiếu nhất quán và những mẹo vặt về lý tưởng. Không một ai lạ về
những mâu thuẫn của đế quốc và nhận thấy rằng giấc mơ của Mỹ thật
ra chỉ là một ảo tưởng, nếu ai muốn đến gần thì nó ngưng nhẩy múa,
lùi ra xa và biến mất. Những giá trị dân chủ của Mỹ bị đảo ngược
một cách hiển nhiên bởi tính chất đế chế, tuy mạnh về mặt quân sự,
nhưng không thuyết phục được ai về khả năng đem lại trật tự, hoà
bình và dân chủ cho thế giới. Cũng như các chương trình kinh tế
của Mỹ đóng góp vào việc ngăn cấm con đường các nước ở Nam cầu đi
vào phồn vinh kinh tế.
Ở thời buổi của chế độ quốc
gia, mỗi dân tộc trên thế giới có trách nhiệm về số mệnh của chính
họ. Mọi cuộc can thiệp của ngoại bang phải được chính đáng do hoàn
cảnh đặc biệt, như đươc xác định bởi hiến chương LHQ. Những năm
đầu các cuộc xâm chiếm của đế quốc thường đẫm máu nạn nhân. Ngược
lại, trong thời đại hiện tại, lý tưởng nổi trội trên thế giới, qua
phương tiện truyền thông, là chống mọi đế quốc. Chúng ta đang
chứng kiến một vấn đề lý tưởng căn bản mà giới đế quốc mới đang
phải đương đầu.
V - CHỦ NGHĨA QUÂN PHIỆT
MỚI
Chúng ta thấy rằng, các sự
kiện đã chứng minh là đế quốc mới của Mỹ biến thể thành một thứ
quân phiệt. Lý tưởng Mỹ ở ngoại quốc, do hoạt động của nó không
còn tính hợp pháp nữa. Đường lối đối ngoại của Mỹ chỉ còn là hàng
ngày đe doạ, thả bom theo mùa, và hai năm một lần đi xâm lược.
Giới diều hâu hèn nhát thủ cựu mới (faucons mouillés
néoconservateurs) trước tiên nắm Toà Bạch Ốc và sau đó Bộ Quốc
Phòng. Lợi dụng sự xúc động sau vụ 11-09, giới này đã động viên
tất cả truyền thông cho mục tiêu của họ. Giới chính trị dân sự
càng ngày càng không kiểm soát được quân đội, trong khi đấy là một
điều kiện không thể thiếu được của một chế độ dân chủ. Giới quân
phiệt mới có lực lượng nhưng đồng thời có những yếu điểm thông
thường của quân phiệt: có lực lượng nhưng không có uy tín, ngạo
mạn một cách tàn nhẫn, đưa tới tự phụ quá chừng mực, để rồi rơi
vào tai hoạ. Cho tới gần đây, sức mạnh của Mỹ không thể chối cãi,
được chấp nhận và được coi như chính đáng ở ngoại quốc. Nhưng hiện
thời, sức mạnh này được thực hiện với súng ống, làm cho xói lở bá
quyền của một đế quốc khoan dung như nước Mỹ trước đây.
Sự thiếu nhất quán ngự trị
trong khả năng quân sự, kinh tế, chính trị và tư tưởng buộc Mỹ
phải dùng đến sức mạnh lớn nhất mà họ có: tấn công quân sự. Nhưng
Mỹ không đụng đến các cường quốc như Trung Quốc, Nga hay Âu Châu,
mà chỉ nhằm các nước nhỏ. Theo nhãn quan về thế giới của giới tân
quân phiệt (nouveaux militaristes) Mỹ, thì mối đe doạ chủ yếu đến
từ hai miền: khu vực Đông Bắc Á châu tức Bắc Cao Ly và Trung Đông,
vùng trung tâm của Hồi giáo, trải dài từ Lybie đến Afghanistan.
Mục tiêu của giới này là cưỡng chế khu vực này phải trở nên thân
thiện, có kỷ luật và dân chủ, bằng biện pháp diệt hết những dân
Hồi giáo "lưu manh". Thấy tại đây chỉ có những nước Hồi giáo
tương đối yếu, giới Mỹ nói trên tin rằng với sức mạnh quân sự, họ
có thể đem lại được những tác dụng tốt. Họ không nghĩ là cảnh
người Do Thái hàng ngày tàn sát dân Ả Rập và Hồi giáo, không thể
là một chính sách tốt để thuyết phục được những người Hồi giáo
khác cộng tác.
Giới quân phiệt bỏ ngoài tai
những lời khuyến cáo của các nhà lãnh tụ các nước Hồi giáo thân
thiện như quốc vương Abdallah nước Jordanie, tổng thống Moubarak
là "mọi cuộc tấn công liên quan đến một nước ở Trung Đông sẽ mang
lại những hậu quả nghiêm trọng cho toàn thể khu vực này". Và tiếp
tục phát biểu "cuộc xung đột Do Thái-Palestin hiện nay là 80%
nguyên nhân của hành động khủng bố trên thế giới". Còn Bachar
el-Assad tổng thống Syrie thì cho là "chiến tranh ở Afghanistan
không tránh được tình trạng Ben Laden sẽ thu hút được nhiều tân
binh". Sau đó một năm, ông ta còn tuyên bố "chiến tranh ở Irak sẽ
tạo nên một vườn ươm cho hoạt động khủng bố ở trong vùng". Mỹ vẫn
tính áp dụng biện pháp vũ lực với Syrie và Iran. Trong thời gian
xâm lược Irak, Rumsfeld, Powel và Bush không ngừng đe doạ các nước
"côn đồ" và "trục tồi bại" nhưng sau đó thì hướng vào Syrie. Đó
cũng là điều dễ hiểu, vì nước này là nước yếu nhất trong hai nước.
Vài nhân viên trong quốc hội đã đề nghị một nghi định về trách
nhiệm của Syrie và thi hành cấm vận cho tới khi nước này ngừng tài
trợ cho tổ chức khủng bố, bãi bỏ vũ khí hoá học. Điều đó cũng
không có gì mới lạ. Syrie cũng như Iran không có tài trợ cho chiến
dịch "khủng bố quốc tế" chống Mỹ. Mọi người đều biết là họ chỉ ủng
hộ thành phần "khủng bố quốc nội" palestinien và libanais trong
cuộc chiến chống Israel, mà tất cả các nước Ả-Rập coi là kẻ áp
bức. Syrie và Iran bị nghi ngờ là triển khai vũ khí hoá học. Nhưng
ít nhất 15 nước khác kể cả Israël cũng đang làm. Vì Mỹ đe doạ một
cách quá khích nên họ cảm thấy có quyền có những vũ khí huỷ diệt
hàng loại như Israël. Đối với họ, mối đe doạ đến từ Mỹ. Nếu Mỹ
dùng những biện pháp chống một trong hai nước này thì Mỹ sẽ chỉ
còn Israël là đồng minh độc nhất trong khu vực này. Ở Syrie và
nhất là ở Iran, những phong trào mà họ ủng hộ có nguồn gốc sâu xa
từ lâu, trước cả khi Sadam nắm chính quyền ở Irak. Phần lớn lãnh
đạo Ả-Rập hiện nay nghĩ rằng Sharon chỉ đạo đường lối ngoại giao
của Mỹ ở Trung Đông.
Tướng Sa'ad al-Din
al-Shadhili, nguyên tổng tham mưu trưởng quân đội Ai Cập, phân
tích mục tiêu của Mỹ như sau: "Thứ nhất là chiếm được dầu mỏ và
của cải của Ả-Rập. Thứ hai là ngăn chặn các tổ chức Hồi giáo đạt
được chính quyền. Thứ ba là giữ cho các nước Ả-Rập chia rẽ và sau
cùng, giúp Israël trở thành một siêu cường ở trong vùng". Ông ta
tin rằng Mỹ có mưu đồ sử dụng biện pháp đe doạ và, nếu cần, vũ lực
để hàng phục Syrie và Iran, rồi đến Arabi Sa-ou-đít và cuối cùng
tất cả các phong trào giải phóng Ả-Rập. Ông ta cũng không sai khi
lưu ý rằng đây cũng nằm trong chương trình của Sharon. Nhưng theo
ông thì kế hoạch này khó đạt được tới đích. Nó sẽ lôi kéo một cuộc
kháng chiến toàn diện của người Ả-Rập hoặc, trong trường hợp họ
chia rẽ nhau, thì sẽ tạo ra một tình trạng hỗn loạn trong khu vực,
đưa tới những vụ khủng bố, cá nhân hay quốc gia, cắt đứt việc cung
cấp dầu hỏa và ngăn cản mọi ngả thoát cho khủng hoảng palestine.
Về dân chủ, ông Bush phấn
khởi tuyên bố là "một chế độ mới ở Irak sẽ là một tấm gương gây ấn
tượng mạnh về tự do cho các nước chung quanh". Tin tưởng vào "lý
thuyết đô-mi-nô" về dân chủ rất nổi tiếng trong giới tân quân
phiệt. Theo họ, các chế độ quyền uy sẽ lần lượt sụp đổ, trước tấm
gương Irak hậu chiến và sức ép của Mỹ. Nhưng, một tài liệu của Bộ
ngoại giao quả quyết là quan điểm đó không "tin được" và khuyến
cáo phải lưu tâm đến hậu quả ngược lại đầy nguy hiểm. Tuyển cử
trong ngắn hạn có thể có những chính quyền mà đa số là Hồi giáo,
thù nghịch với Mỹ. Những cuộc tuyển cử ở các nước Hồi giáo trong
thời gian Mỹ chuẩn bị xâm lăng Irak đã xác minh điều đó. Pakistan,
Bahrein, Maroc và Turquie đều tổ chức tuyển cử trong tháng 10 và
tháng 11 năm 2002. Tại bốn nước này, các đảng Hồi giáo đã chiếm
ưu thế tại quốc hội với số ghế từ 3 tới 78 tại Pakistan, từ 14 tới
42 ghế tại Maroc. Lần đầu tiên từ hơn 30 năm có tuyển cử ở
Bahrein, Hồi giáo chiếm 60% số ghế tại quốc hội. Những nhà quan
sát viên tại địa phương quy cho kết quả đó một phần do sự phản xạ
của chiến tranh chống khủng bố. Tại Iran, có cuộc tuyển cử tự do
chưa bao giờ từng có vào tháng 2 năm 2003, tổ chức Hồi giáo đã
đánh bạt đảng Canh tân. Giới quan sát viên giải thích là áp lực
của Mỹ đã làm xói mòn đường lối thân thiện của giới canh tân.
Trong thời gian này, nếu có tuyển cử thì chỉ mang lại chế độ dân
chủ Hồi giáo, có thể là liên Ả Rập, chứ không phải là chế độ dân
chủ tự do thân Mỹ. Đồng minh của Mỹ, thì áp dụng đàn áp hơn là
tuyển cử. Đó là những thay đổi cụ thể mà giới tân quân phiệt đã
gây nên tại khu vực.
Giới này còn làm cho hoạt
động khủng bố nghiêm trọng thêm. Các báo cáo của tình báo Mỹ cho
biết là một số lớn các tiểu tổ khủng bố mới được thành lập ở Trung
Đông và Bắc Phi. Ngoài ra, chính sách quân sự Mỹ còn củng cố thêm
giây liên lạc giữa các tổ chức Hồi giáo, tổ chức liên Ả Rập với
giới quốc gia và đặc biệt giữa tổ chức khủng bố quốc tế Al-Qaida
với tổ chức khủng bố quốc nội như Hamas hay Hezbollah, tạo thành
một địch thủ mới cho Mỹ. Tại Irak, những người khủng bố thật ra
chỉ là những du kích quân, phá hoại các mục tiêu quân sự, có hậu
quả đưa chế độ tại chỗ cũng áp dụng khủng bố ở cấp quốc gia.
Về lâu dài, những cuộc chém
giết sẽ làm kiệt quệ khả năng của đế quốc Mỹ, đặc biệt là sự ủng
hộ của cử tri Mỹ. Mỹ đi ngược dòng lịch sử. Ở thời buổi đầu của
thế kỷ 21, các quốc gia-dân tộc có chủ quyền không đời nào để bị
chỉ huy hay đè nén bởi một chính sách quân sự đến từ nước ngoài.
Chính sách này càng ngày càng làm nẩy nở ra tình trạng kháng cự,
hung bạo, tàn phá. Tuy nhiên, không phải chỉ có Âu Châu chống đối
chiến tranh Irak. Những cuộc thăm dò dư luận đầu năm 2003 tại các
nước như Turquie, Pakistan, Thái Lan, Hồng Kông, Nhật, Úc, Á Căn
Đình, Ba Tây, Chi li, Uruguay và Gia Nã Đại đều chứng minh là đa
số dân chúng bác bỏ chiến tranh. Đến tháng 5 năm 2003, một cuộc
điều tra rộng lớn trong 21 nước cho thấy mức suy xụp tệ hại hơn
đối với Mỹ. Phần lớn các nước chống đối hành động đơn phương của
Mỹ và chiến tranh Irak. Nhưng giới cầm quyền Mỹ hầu như không có
một chút quan tâm gì. Họ có "quyền lực" để hành động như vậy và
không ai có thể ngăn cản được.
Thế giới có một phương tiện
chống lại Mỹ trong trung hạn là đồng đô la, tiền dự trữ quốc tế.
Dĩ nhiên, vốn đầu tư ra nước ngoài do thị trường quyết định chứ
không do các chính phủ. Ngày nào các nhà đầu tư mất tin tưởng vào
sự ổn định và lành mạnh của nền kinh tế của một nước thường xuyên
có chiến tranh, thì họ tìm cách bảo vệ vốn đầu tư của họ, và sẽ
chuyển vốn sang khu vực euro hay yen nếu thấy có lợi. Trong trường
hợp này, Mỹ chỉ còn trông vào nguồn vốn duy nhất của mình. Đô la
và Liên Hợp Quốc đã giữ vai trò trung tâm cho sự thống trị thế
giới của Mỹ. Thế bá quyền kinh tế dù sao cũng bao hàm sự tán
thành của các nước cho một luật chơi. Cho tới nay, sự thoả thuận
đa phương đó đã đem lại những lợi ích lớn cho Mỹ. Nhưng ngày nào
luật chơi đó bị phá vỡ thì không bao lâu mặt trời sẽ lặn trên đế
quốc Mỹ, còn nhanh chóng hơn là đế quốc Anh hay đế quốc La Mã.
Trong thập niên vừa qua,
trong thời gian xây dựng một lực lượng bá quyền, Mỹ đã phải đối
phó với nhiều cuộc xung đột, nhiều cuộc chiến và khủng bố chưa bao
giờ gặp trước đó. Do đó, nếu Mỹ quyết định theo đuổi mộng bá
vương, thì phải đi theo những quy tắc của nó. Nhưng nếu thất bại
trong mưu đồ bá vương thì Mỹ sẽ mất luôn ưu thế chính trị. Cuốn
sách này nêu lên đại thể ngắn gọn một thế giới hoàn thiện hơn nếu
được điều khiển theo quy tắc. Nhờ ở sự phối hợp giữa sự lãnh đạo
của Mỹ với các tổ chức quốc tế mà đường lối chống khuếch tán, khai
thác vũ khí hạt nhân cũng như các biện pháp chống khủng bố đã mang
lại kết quả khả quan. Hiển nhiên là chính sách chống khuếch tán
nguyên tử -nhắm vào các nước Irak, Bắc Cao Ly, Iran và Syrie- đã
đem lại kết quả khả quan hơn khi Mỹ bỏ đi ngôn ngữ "các nước côn
đồ" để sử dụng chính sách cây gậy và củ cà rốt, nói cách khác là
dùng lợi lộc một mặt và mặt khác sự đe doạ có khả năng thực hiện.
Một đường lối đối đãi các nước khác như côn đồ chỉ có hậu quả là
làm họ tiến xâu vào trạng thái côn đồ. Và hoàn cảnh này lại làm
cho giới quân phiệt mới chỉ nhìn thấy giải pháp xâm lăng để thay
đổi chính thể tại các nước đó, khiến cho sự hỗn loạn càng trầm
trọng thêm. Giới quân phiệt mới này cho rằng sức mạnh của Mỹ có
khả năng đè bẹp tất cả các kẻ thù. Họ đã nhầm. Quyền lực mà Mỹ có
không đồng đều và không phù hợp cho một đế quốc. Đế quốc Mỹ chưa
rộng lắm, nhưng sự mở rộng thiếu nhất quán. Lực lượng của quân đội
khổng lồ này chưa thể so sánh được với tài nguyên kinh tế và địa
dư chính trị bắt nguồn từ những hiệp định đa phương. Ngoài ra, Mỹ
không chịu đầu tư đủ để củng cố cho một đế quốc, như chúng ta đã
thấy ở Afghanistan và ở Irak. Sau cùng, chính sách quân phiệt của
họ vượt quá khả năng chính trị để quản lý các nước bị xâm chiếm,
ngược lại với lý tưởng tự do và dân chủ quý báu của người Mỹ.
Michael MANN
Vương Văn Đông lược dịch
.